.
Latest Post
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGHI VẤN LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn NGHI VẤN LỊCH SỬ. Hiển thị tất cả bài đăng
23:59
Đôi lời với những phát hiện lịch sử chấn động
Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012 | 23:59
Từ ngày 27.2.2008 đến 6.3.2008 báo Thanh Niên liên tiếp đăng loạt bài[1] “Thiền sư Lê mạnh Thát và những phát hiện lịch sử chấn động” của tác giả Hoàng Hải Vân. Vì yêu thích cổ sử và ít nhiều đã có những biên khảo nhỏ ở góc độ nghiệp dư, tôi đặc biệt chú ý và theo dõi rất kỹ vấn đề ông Thát theo đuổi. Từ gợi ý của Thanh Niên, tôi đã vừa đọc báo, vừa tìm hiểu quyển “Lục độ tập kinh và lịch sử khởi nguyên của dân tộc ta” của tác giả Lê Mạnh Thát, NXB Tổng hợp TP HCM – 2006 (LĐTK).
Một số điểm nổi bật
Xuyên suốt loạt bài báo và quyển LĐTK, có thể nhận ra ngay mấy vấn đề rất mới ông Thát đưa ra là:
1. Truyện mẹ Âu Cơ đẻ trăm trứng nở trăm con có nguồn gốc từ nước Phật.
2. Truyền thuyết An Dương Vương không có thật, nó là phiên bản của một câu chuyện Ấn Độ.
3. Triệu Đà chưa từng xâm lược nước Việt cổ.
4. Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam trước thời Hai Bà Trưng là những quận mà triều đình Hán “đoạt khống”, tức đặt tên trên bản đồ nhưng không chiếm đóng trực tiếp.
Kết hợp với việc giải mã lịch sử ẩn trong kinh Phật, ông Thát chứng minh từ Vua Hùng đến Hai Bà Trưng nước ta hoàn toàn độc lập, có đầy đủ chữ viết, luật tục, thi thơ lễ nhạc.
Quan điểm của ông Lê Mạnh Thát thiên về tính bản địa của văn minh Việt Nam, nó tương đồng với các nghiên cứu của nhiều sử gia lớn như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn... Đúng là không thể phủ nhận truyền thuyết An Dương Vương có cái vỏ Mahãbhãrata. Tuy vậy ông Thát đã bỏ qua vài chi tiết rất quan trọng góp phần tạo dựng truyền thuyết An Dương Vương: Tích Trương Nghi theo đường rùa bò xây thành tại nước Thục (TK 4 TCN). Theo sách “Đông Kinh hoa mộng lục”, thời Hậu Chu (951-959) tại Trung Quốc có xây dựng Loa thành hình xoáy trôn ốc, có ba vòng là Thành ngoại, Thành nội và Hoàng thành. Thành này hiện vẫn còn di tích tại thành phố Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Đó là chưa kể truyện dân gian “Thần cung bảo kiếm” của người Choang ở Quảng Tây có motip rất “An Dương Vương”.
Bằng việc rút mắt xích An Dương Vương và Triệu Đà khỏi chuỗi Vua Hùng – An Dương Vương – Triệu Đà – Hai Bà Trưng, ông Thát bắt buộc phải bẻ cong sử liệu để nối Vua Hùng trực tiếp với Hai Bà Trưng. Phương pháp luận này lập tức tạo ra một lỗ hổng lớn như sau:
Thời Hùng Vương qua truyền thuyết nước ta chỉ có thể đang ở chế độ Phụ hệ hoặc Mẫu hệ với lãnh tụ là nam giới. Trong khi đó thời Hai Bà Trưng thì chắc chắn nước ta ở chế độ Mẫu quyền. Nội hàm mẫu quyền bao gồm mẫu hệ và lãnh tụ là nữ giới.
Chuỗi Hùng Vương – Hai Bà Trưng của ông Thát sẽ phô ra sự thụt lùi phi thực tế của văn minh Việt cổ, đi ngược lại hình thái phát triển chung của nhân loại là Mẫu quyền đến Mẫu hệ rồi mới đến Phụ quyền. Hơn nữa, dù tham khảo thêm khái niệm “Mô hình xã hội lưỡng hệ” của GS sử học Hàn Quốc In Sun Yu trong quyển "Việt Nam học, kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội 15-17.7.1998 tập 4 (NXB thế giới 2001), ta vẫn thấy sự bất cập của chuỗi Hùng Vương – Hai Bà Trưng.
Nhằm cởi bỏ mâu thuẫn này, không ít học giả xưa nay nghi ngờ đã có những cuộc di cư lớn của người Lạc Việt từ miền nam Trung Hoa đến đồng bằng sông Hồng, dưới sức ép bành trướng lãnh thổ cũng như xâm lăng văn hóa của văn minh Hoa Hạ. Hệ lụy của cuộc di tản bất đắc dĩ đã khiến xã hội Lạc Việt đi giật lùi, trở ngược về hình thái xã hội Mẫu quyền. Tiếc là hướng nghiên cứu ấy sẽ phủ nhận thuyết bản địa của văn minh Việt Nam, điều mà toàn bộ quyển sách LĐTK nói riêng và nền sử học Việt Nam không đồng tình.
Vì cố gắng khỏa lấp lỗ hổng này, Lê Mạnh Thát đã mạnh dạn “Xác định Việt Thường là Cửu Chân” và “Nói thẳng ra, nước ta gồm 3 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam cho đến năm 43 sdl vẫn là một nước độc lập, các vua Hùng vẫn cai trị và nước có tên là Việt thường hay Việt thường thị” (LĐTK trang 318, 319). Nghĩa là ông Lê Mạnh Thát chia cho vua Hùng quận Cửu Chân, Hai Bà Trưng quận Giao Chỉ (!?). Xin các bạn tự kết luận sau khi cùng tôi tham khảo Đào Duy Anh, Lịch sử cổ đại Việt Nam, NXB VHTT 2005, trang 218, 219:“Sách Điền Hệ của Súy Phạm viết về các dân tộc thiểu số ở miền Vân Nam cho biết rằng một dân tộc thiểu số tên là Sản Lý hay Xa Ly, có truyền thuyết nói rằng đời Chu Thành vương họ sai xứ giả đến triều cống, khi về được Chu công cho xe chỉ nam, vì thế họ lấy tên là Xa Lý. Lại có một dân tộc khác là Lão Qua có truyền thuyết rằng ở thời nhà Chu, tổ tiên của họ là nước Việt Thường. Sách Điền nam tạp chí thì nói Diến Điện là nước Việt Thường xưa. Những dân tộc kể trên nhận Việt Thường là tổ tiên xa của mình đều có thể là di duệ của người Di Việt, tức của người Việt tộc xưa cả. Do đó chúng ta có thể đoán rằng nước Việt Thường xưa, một nước của Việt tộc ở miền nam Dương Tử, có thể tồn tại thực, cho nên một số dân tộc di duệ của Việt tộc ngày nay, trong ấy có Việt Nam, vẫn còn ghi nhớ mà xem như nước tổ của mình”.
Nghi ngờ trên phương diện văn bản học khái niệm “Đoạt khống”
Gút mắc lớn nhất và chấn động lớn nhất theo tôi, là việc ông Lê Mạnh Thát khẳng định ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam là“…"đoạt khống" đất đai nhằm thỏa mãn não trạng và ao ước bành trướng của nhà Hán mà thôi”. Lập luận của bài báo là: Tượng Quận nằm ngoài lãnh thổ Việt Nam hiện đại. Trích báo “Một số tài liệu Trung Quốc có chép một cách lầm lạc rằng nó là Nhật Nam (nước ta) sau này, nhưng đối chiếu với những tài liệu tin cậy cũng của chính Trung Quốc, từ rất sớm người ta đã biết Tượng Quận nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha của Trung Quốc chứ không phải nước ta”. Quan điểm này đã có hàng trăm năm nay với những cái tên quen thuộc như Maspero, hoặc hoàn toàn xa lạ như Guime Saeki (Tạp chí Nam Phong, số 133, năm 1928). Thực ra Nguyễn Văn Tố[2] đã bác bỏ Maspero một cách thuyết phục như sau: Hán Thư chép năm 76 TCN bỏ Tượng Quận, lấy đất ấy nhập vào Uất Lâm và Tường Kha. Đây là Tượng Quận của đời Hán chứ không phải của đời Tần. Quyển Lĩnh Ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi có đoạn nói Hán Vũ Đế chiếm Nam Hải đã tách Tượng Quận của Tần làm ba Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, lại cắt một ít Nam Hải và Tượng Quận để thành Hợp Phố. Nguyễn Văn tố đã đi xa hơn khi khẳng định “… người Tần bấy giờ mới đi đến Quế Lâm, còn từ Quế Lâm trở vào chẳng biết rộng hẹp thế nào, cứ đặt một quận để gọi là có tên…”[3].
Trước tháng 10 năm 2004, trước khi sách của ông Thát ra đời gần 2 năm, trong nhiều bài khảo cứu đăng trên mạng tôi đã chứng minh bằng thiên văn một cách có hệ thống tính khái niệm của ba từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Nó tương đồng hoàn toàn với định nghĩa “đoạt khống” của ông Thát. Về phần tôi, khó ai có thể qui kết tôi đã tham khảo ông Thát khi dùng thuật toán thiên văn rất riêng của một người đi biển yêu cổ sử. Trên giấy trắng mực đen của văn bản học, người nêu ra vấn đề trước (2004) có quyền nghi ngờ người in sách sau (2006). Nếu độc giả tin tưởng ông Thát, xin vui lòng giúp ông Thát chứng minh giữa sách in và bản thảo có khoảng cách “an toàn”, giúp hai hướng nghiên cứu này cùng góp phần làm sáng tỏ lịch sử Việt Nam.
Về sử liệu ông Lê Mạnh Thát sử dụng
Sử liệu về cổ sử Việt Nam thật ít ỏi, phần lớn là sách Trung Quốc và truyền thuyết dân gian. Đến thời đại văn minh mạng máy tính hôm nay, chúng ta không những có nhiều công trình biên khảo của người Việt xuất bản liên tục, mà còn có thể truy đến nguyên văn Hoa ngữ khá đầy đủ, hệ thống và khoa học trên các trang web Trung Quốc cũng như Đài Loan. Tiếc là phần lớn LĐTK của ông Thát viết cách đây đã 40 năm, sử liệu Trung Hoa ông dùng thiếu độ liền lạc, đầy đủ cũng như không được cập nhật. Hơn nữa ông chỉ dịch cắt khúc từ những nguồn rất cũ như Tiền Hán thơ 44 7al-11a13, hoặc Sử Ký 112 tờ 7b10-8a3.v.v.. mà không hề có bản tiếng Hoa kèm theo. Phần dịch sử liệu chiếm hơn một phần ba của LĐTK dày 365 trang. Điều này gây khó khăn cho người khảo cứu và các sinh viên khoa sử muốn xem sách của ông như một tài liệu tham khảo hữu dụng, và lại càng đánh đố những ai muốn “tra tận gốc” sử liệu của ông Thát như gợi ý của báo Thanh Niên.
Ngoài ra có thể nói ông Lê Mạnh Thát đã khai thác một chiều sử liệu Trung Hoa: Suốt LĐTK, ông sử dụng khá nhiều văn bản Trung Hoa, nhưng đáng tiếc phương pháp của ông rất cảm tính. Thứ gì có lợi cho thuyết của ông thì ông xem như chân lý và không nhìn nhận nó dưới nhiều góc độ. Việc “phân đất” Cửu Chân cho vua Hùng ở trên là ví dụ thứ nhất. Ví dụ thứ hai: Trong mục “Về vấn đề chín quận” trang 319 đến 327, ông Thát dẫn từ Tiền Hán Thư các con số thống kê dân số năm thứ 2 sau công nguyên. Ông xem nó đúng một cách tuyệt đối và dông dài phân tích các con số. Ở đây tôi muốn trích lời Stephen O’Harrow, trong quyển Những vấn đề lịch sử Việt Nam, NXB Trẻ 2001, trang 30, bình luận trên cùng những con số này: “Vào đầu thế kỷ I sau công nguyên, người Trung Hoa nói chung cũng không thật giỏi giang và chính xác lắm, chưa kể họ còn sử dụng tri thức vì lợi ích của họ”.
Một dẫn chứng nữa: Ngày nay, dưới nhãn quan thiên văn hiện đại, người ta phát hiện rất nhiều ghi chép thiên văn cổ Trung Hoa có những sai lệch khá ngờ ngệch. Chẳng hạn các sao hung cát đã không ít lần được các sử quan cho chiếu xuống Trung Quốc không theo chu kỳ mà đa số sử quan đã rất am tường. Giả thiết là, đây hẳn nhiên mang dấu ấn chính trị nhằm tác động đến nhóm người mê tín nào đó có quyền đưa ra các quyết sách quan trọng.
Nếu lật ngược con số nhân khẩu Giao Chỉ rất lớn ở Tiền Hán Thư, ta hoàn toàn có thể đưa ra giả thiết: Nhóm mang dã tâm bành trướng trong triều đình Hán muốn kê dân số Giao Chỉ lên cao để chứng minh nơi này đất rộng người đông, sản vật phong phú, nếu chiếm đóng sẽ mang nhiều lợi ích cho Hán tộc. Đọc truyện Giả Quyên Chi trong Hán thư ta sẽ thấy triều Hán lúc nào cũng có hai nhóm ủng hộ và phản bác việc mở rộng và trực trị cương giới phía nam.
Tạm kết luận
Trong khuôn khổ một bài báo ngắn mà tôi muốn viết, chỉ ra bất cập trong các nghiên cứu “chấn động” của ông Lê Mạnh Thát, không thể quá dài dòng và truy đủ cước chú. Mặc dù còn khá nhiều lỗ hổng, nhưng tôi tin công trình của ông Thát cũng như công trình khảo sử của bất cứ ai đều đáng trân trọng và cần được đưa ra công luận một cách bình đẳng. Càng nhiều cày xới, càng nhiều suy biện thì người đọc càng có cơ hội tiếp cận gần nhất sự thật lịch sử.
Trương Thái Du
(Đã đăng báo Thể Thao & Văn Hóa 9.3.2008 và Nhân Dân 11.3.2008)
Chuyên mục
NGHI VẤN LỊCH SỬ
00:07
Hoàng Cao Khải không phải là người theo Pháp để hưởng lợi ?
Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012 | 00:07
Hoàng Cao Khải không phải là người theo Pháp để hưởng lợi ?
Nguyễn Hùng
Sau khi NXB Nghệ An xuất bản tác phẩm “Việt sử yếu” của Hoàng Cao Khải, một số báo đã đăng bài trả lời phỏng vấn của PGS-TS Chương Thâu. Nội dung không giới hạn ở việc giới thiệu cuốn sách mà nhân đó yêu cầu đánh giá lại (thực chất là “chiêu tuyết”) Hoàng Cao Khải ở mấy điểm sau:
Hoàng Cao Khải không phải là người theo Pháp để hưởng lợi .
Mục đích ông lập ấp Thái Hà thực tâm là muốn giúp đỡ những người phương xa đến kinh kỳ và làm nơi giúp đỡ người nghèo khó.
Hoàng Cao khải là người có tinh thần dân tộc và tinh thần ấy đã lan truyền đến thế hệ con, cháu ông (Hoàng Trọng Phu, Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Gia Mô – N.H chú thích).
Từ nghiên cứu lại Hoàng Cao Khải giúp chúng ta mở rộng nghiên cứu đến đời sống tư tưởng, tinh thần của một thế hệ nhà nho.
Như vậy, dẫu không (hoặc không dám) phủ định tất cả những gì người cùng thời (PGS-TS Chương Thâu gọi là “bia miệng”) và giới nghiên cứu đã nhìn nhận về Hoàng Cao Khải; nhưng PGS-TS Chương Thâu đã có ý kiến gần như ngược lại với quan điểm chính thống lâu nay.
Điều này xem ra thật không thông sự lý, nếu chúng ta đọc kỹ Hoàng Cao Khải ở mấy khía cạnh:
Con người chính trị trong lịch sử của Hoàng Cao Khải.
Những tài liệu người Pháp để lại liên quan đến Hoàng Cao Khải.
Hoàng Cao Khải dưới con mắt người đời.
1. Hoàng Cao Khải nguyên danh là Hoàng Văn Khải, quê làng Đông Thái (thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh; đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 21 (1868). Theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn “sau khi đỗ cử nhân lúc còn rất trẻ, Hoàng Cao Khải chắc muốn đậu đại khoa như nhiều ông cử trong tổng, trong làng. Nhưng vì lẽ gia tư eo hẹp, thua bạc, ông ra làm quan sớm”. Ban đầu làm huấn đạo huyện Thọ Xương, sau làm giáo thụ phủ Hoài Đức (Hà Tây) rồi tri phủ Thọ Xương. Giữa nơi văn vật Hà Nội, Hoàng Cao Khải được nhiều quan to biết tới, trong đó có Nguyễn Hữu Độ, Tổng đốc Hà Ninh (thay Hoàng Diệu sau khi ông tự vẫn) là một nhân vật trong phe chủ hoà với Pháp.
Sau ngày 19.5.1883 Rivière tử trận, quân pháp đánh đuổi các quan Nam triều, Tổng đốc Nguyễn Hữu Độ và Tri huyện Hoàng Cao Khải chạy lên đất Từ Liêm. Chính phủ Pháp phái thêm quân tới Bắc kỳ và đặt chức Cao uỷ để uy hiếp Triều đình. Phủ Cao uỷ biết Nguyễn Hữu Độ thuộc phái chủ hoà, có thể chiêu dụ được; sai thủ hạ giám mục Puginier đưa thư Cao uỷ dụ hàng. Ngày 11.9. 1883 Nguyễn Hữu Độ “viết (thư trả lời) theo mệnh lệnh Cao uỷ” nói rõ: “Nước Nam và nước Pháp đã trở lại thân thiện, tôi không ngần ngại nữa, tôi sẽ lập tức đáp ứng lời gọi”. Vốn là người chủ hoà, ghét hai phụ chính Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường; thì đây là cơ hội để Nguyễn Hữu Độ đoạt lấy công danh. Quả nhiên khi được Pháp nâng đỡ, Nguyễn Hữu Độ đã “qua mặt” triều đình; tự coi mình là Khâm sai ở Bắc.
Việc Nguyễn Hữu Độ “hiệu thuận” Pháp có liên quan gì đến cuộc đời “ôm chân” … sau này của Hoàng Cao Khải không. Trong Hồi ký Au Tonkin, Raymond Bonnal (Thống sứ đầu tiên tại Hà Nội) đã ghi rõ lời hẹn của Nguyễn Hữu Độ: “Tôi xin trình diện với cao uỷ ngày rằm tháng này (15.8 ta tức là 15.9.1883)” tại chỗ nào xin Ngài cho biết, và xin dẫn theo Tri huyện Thọ Xuân”. Chi tiết này được Giáo sư Hoàng Xuân Hãn bình luận thật thú vị: “Ai đưa con sáo sang sông? Nguyễn Hữu Độ chính là kẻ đưa con sáo vàng ấy”. Không sai vào đâu được. Trong 20 tháng ở Hà Nội, Nguyễn Hữu Độ được bổ bán các chức (chứ không phải là Triều đình nữa), dĩ nhiên là phải thoả mãn yêu cầu của các quan Pháp. Rồi sau khi Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi rời Kinh thành, Nguyễn Hữu Độ được Pháp đưa về Huế cầm đầu Viện Cơ mật, trước khi ra Hà Nội với chức Khâm sai thực thụ. Với quyền sinh quyền sát như vậy, Nguyễn Hữu Độ muốn giúp ai mà chẳng được. Trong hơn 5 năm, Nguyễn Hữu Độ đã đẩy Hoàng Cao Khải từ chức Tri huyện Thọ Xương thăng quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hưng Yên, thự lý Tổng đốc rồi Tổng đốc Hải Dương. Trước khi mất (18.12.1888), Nguyễn Hữu Độ và chính quyền bảo hộ Pháp đã đồng tình chọn người thay thế là Hoàng Cao Khải. Tháng 8 năm sau (1889) Hoàng Cao Khải được thăng đến chức Khâm sai Kinh lược Bắc kỳ.
Con đường hoạn lộ của Hoàng Cao Khải, kể từ sau khi Pháp chiếm Bắc kỳ, là quá trình hợp tác đắc lực với Pháp. Năm 1884, Pháp đánh Lạng Sơn, Hoàng Cao Khải lúc bấy giờ lĩnh chức Án sát Lạng Sơn, tích cực bắt phu phen, sung võ bị. Khi Nguyễn Văn Thận bị Pháp xử tử, Hoàng Cao Khải lĩnh chức quyền Tuần phủ Hưng Yên đã quản lý mọi việc trị an rất vừa ý nhà binh Pháp. Lúc làm Tổng đốc Hà Đông, Hoàng Cao Khải giúp Thống sứ Bắc kỳ soạn nghị định về tổ chức bộ máy cấp xã Bắc kỳ.
Khi phong trào Cần Vương nổi dậy, quân đội Pháp ở Bắc kỳ tập trung bình định vùng thượng du và trung du, còn vùng Hải Dương và Bắc Ninh thì mượn thêm quan quân triều đình. Vì vậy, Hoàng Cao Khải chỉ mới hàm tam phẩm vẫn được quyền sung chức Tổng đốc Hải Dương, rồi Tổng đốc Bắc Ninh để đánh dẹp phong trào văn thân vùng đồng bằng.
“Tài điều binh khiển tướng” (Chữ dùng của PGS-TS Chương Thâu) của Hoàng Cao Khải có thể thấy rõ trong suốt quá trình đàn áp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Tháng 7.1887, Hoàng Cao Khải được vua Đồng Khánh giao đặc trách đàn áp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Y cùng với giám binh Nây (Ney) dùng kế “tuyệt lương bách thú” (buộc nghĩa quân hết lương phải ra đầu thú) bằng cách đưa lính đồn Mỹ Hào về phá hoại hết lúa má, hoa màu trong vùng. Nguyễn Thiệt Thuật biết được ý đồ, bố trí quân phục kích đánh địch. Giám binh Nây, Bang tá Nguyễn Hữu Hào cùng 30 lính bỏ mạng trong trận đánh ngày 11.11.1888. Hoàng Cao Khải thoát chết trong gang tấc, trốn về đồn Mỹ Hào nhờ người dân Kẻ Sặt đưa đường chạy về Hải Dương. Sau thất bại này Hoàng Cao Khải thay đổi “chiến thuật”, mượn danh nghĩa Đồng Khánh dụ hàng Nguyễn Thiện Thuật; hứa sẽ khôi phục chức tước, bổng lộc. Nguyễn Thiện Thuật viết vào tờ sớ bốn chữ “Bất khẳng thụ chỉ” (không thèm nhận chỉ) giao trả lại Hoàng Cao Khải. Tháng 6.1889 Thống sứ Bắc kỳ ra lệnh thành lập đạo quân Tuần cảnh; giao cho Hoàng Cao Khải làm tư lênh trưởng, Muy-dơ-li-ê (Muselier) làm cảnh sát sứ, đạo này có cả Toà án quân sự để xét xử những “phần tử phản nghịch”. Hoàng Cao Khải tỏ rõ quyết tâm dập tắt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, chỉ huy quân Tuần cảnh giao chiến ròng rã với nghĩa quân từ đó cho đến năm 1892 thì đạt được mục đích: phong trào nghĩa quân Bãi Sậy chấm dứt.
Không chỉ về “võ công” mà Hoàng Cao Khải còn nhiều lần trổ tài “văn từ”. Ngày 15.8.1889, Hoàng Cao khải chính thức được trao chức Kinh lược Bắc kỳ (người Pháp gọi là “phó vương” – vice roi), y tỏ rõ sự trung thành với Pháp bằng việc dụ hàng Đốc Tít tại vùng Đông Triều và Đội Vân tại vùng Bắc Ninh.
Là người khôn khéo, Hoàng Cao Khải chỉ đánh dẹp phong trào Cần Vương ở Bắc kỳ chứ không muốn dẫn quân về Trung kỳ. Nhưng vì muốn làm đẹp lòng người Pháp và cũng để tỏ rõ sự trung thành của mình; vào tháng 10 năm Giáp Ngọ (tháng 11.1894) Hoàng Cao Khải thực hiện mệnh lệnh của Toàn quyền De Lanessan viết thư dụ hàng Phan Đình Phùng, người đồng liêu (cùng đỗ cử nhân), đồng ấp (cùng làng Đông Thái) và có quan hệ thông gia với y đang lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh). Bức thư đã phơi bày tâm tính của con người chính trị cơ hội, từ bỏ giang sơn, dân tộc để cầu vinh ở Hoàng Cao Khải: “ Ngày Kinh thành thất thủ, xe giá vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ứng nghĩa, kể sự thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm. Song le, sự thế gần đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm được nữa không, dầu kẻ ít học thức, kém trí khôn, cũng đều trả lời không được”. Hoàng Cao Khải không hề dấu diếm mối thâm giao của mình với người Pháp: “Nay nhân quan Toàn quyền trở lại, đem việc tỉnh ta bàn bạc với tôi”, “Tôi với quan toàn quyền vốn có tình quen biết với nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen thân hiệp ý nhau lắm”. Và không tiếc lời tán dương: “Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là người khác nước, muôn dặm tới đây mà còn có lòng băn khoăn lo nghĩ tới dân mình như vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này”. Tệ hai hại hơn, viên quan Kinh lược Bắc kỳ còn đổ tội, cho rằng “quê hương điêu đứng xiêu tàn” là do hành động “không không làm tràn tới mãi” (khởi nghĩa đến cùng) của nghĩa quân và những người lãnh đạo khởi nghĩa như Phan Đình Phùng, chứ không phải do quan quân Pháp và tay say.
Với những lý lẽ mê muội như vậy, dĩ nhiên là cụ Phan - một nhà nho yêu nước - sẽ khước từ. Bức thư cụ Phan trả lời viết nhẹ nhàng nhưng khẳng khái, tử tế mà cương quyết. Cụ chỉ trích lại những kẻ theo Tây, rằng nhân dân bị khổ không chỉ do bởi chiến tranh mà còn bởi những kẻ thừa dịp đổ vạ cho nhân dân để vinh thân phì da. Cụ đem quân mạng và dân tâm ra hỏi lại Hoàng Cao Khải nếu gặp cảnh ngộ ấy thì phải làm thế nào; “tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi nói dông dài nữa”.
Đọc xong bức thư trả lời của cụ Phan Đinh Phùng, mặt Hoàng Cao Khai biến sắc vì mất thể diện. Hoàng Cao Khải sai dịch bức thư ra tiếng Pháp, gửi trình Toàn quyền Lanessan kèm với lời đề nghị: “Bản chức đã lấy hết sự thế lợi hại để bày tỏ, khuyên nhủ Phan Đình Phùng ra hàng, nhưng y vẫn tỏ ý hôn mê bất muội, giờ xin chính phủ bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiểu trừ cho hết văn thân loạn phỉ”.
Cuối đường công danh, Hoàng Cao Khải được đưa về Huế giữ chức Phụ chánh thứ hai, sau Nguyễn Thân là Phụ chánh thứ nhất. Cùng là tay chân của chính phủ bảo hộ Pháp, vậy mà hai người có mối tư thù, tư oán đến nổi Nguyễn Thân suýt lấy mạng họ Hoàng.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết rằng: “Tuy có kẻ nói ông có lúc được vinh quy bái tổ, nhưng theo tôi nghe biết thì ông không hề dám về quê hương”. Có lẽ vì thế mà sau ngày hồi hưu, Hoàng Cao Khải về sống trên khoảnh đất ấp sắc (phần thưởng của thực dân Pháp) của mình đặt tên Thái Hà (tên làng và tên tỉnh mình) chứ không thể về quê.
Trong một bài nghiên cứu, Tiến sĩ Bùi Xuân Đính cho biết: Ấp Thái Hà nằm trên phần đất của bốn làng: Thịnh Quang, Nam Đồng, Khương Thượng và Yên Lãng (Láng), nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
Ấp Thái Hà có tổng diện tích 150 hécta. Vì toàn bộ đất đai nằm trên thế trũng, Khải cho đào mương máng ngang dọc, xung quanh để tiêu nước, đất đào lên để tôn nền, rồi chia thành vài chục lô vuông vắn. Khu dinh cơ của Khải chiếm một phần tư ấp, ở góc đông nam đường cái gồm có tư dinh (toà nhà chín gian) nằm sâu trong cổng chính, cổng phụ, cầu bắc qua hào, tường bao quanh kín đáo, trong nhà trang trí lộng lẫy, với các bức hoánh phi, câu đối, bức trướng, các sập gụ, các đồ đồng, đồ sứ quý giá; lăng tẩm có nhà tiền tế, đường thần đạo đi giữa hai dãy nhà tượng quan quân chầu hầu nối với chính tầm xây bằng đá đẹp; nhà phía trái là sinh từ (đền thờ sống Khải). Vào dịp sinh nhật mình hoặc khi có việc vui, các dịp khánh tiết, Khải thường tổ chức các chầu hát, quan lại các tỉnh về dự khá đông, lại có cả bơi thuyền tại hồ vuông ở phía ngoài.
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng nhận xét rằng: “Hoàng được một lũ quan lại nịnh bợ, nhưng cũng biết những no sĩ chân chính chê và ghét mình, cho nên cố làm những việc có tính cách “ái quốc” … Từ khi được ban đất phong tước, y lập ra ấp Thái Hà, xây dựng dinh kinh để ở, hội những văn nhân để ngâm vịnh”.
Vậy, việc lập ấp Thái Hà có phải thực tâm Hoàng Cao Khải muốn giúp đỡ người phương xa và người nghèo khó như PGS-TS Chương Thâu viết hay thực chất là để Hoàng Cao Khải, con cháu và đám gia nhân an lạc?
Năm 1919, Hoàng Cao Khải tổ chức lễ thọ 70 tuổi, nhân đó Báo Nam Phong số 22 (tháng 4.1919) có thơ chúc thọ:
Con cái một nhà hai tổng đốc.
Pháp Nam hai nước một công thần.
Thơ nịnh bợ không chút che dấu, nhưng nói lên được điều thật về “nhân thân” và gia đình Hoàng Cao Khải. Hai con trai Hoàng Cao Khải là Hoàng Trọng Phu (Tổng đốc Hà Đông) và Hoàng Mạnh Trí (Tổng đốc Nam Định), cháu là Hoàng Gia Mô (Tri huyện Vĩnh Bảo) đều là những cộng sự đắc lực cho thực dân Pháp, đàn áp những người yêu nước. Hoàng Gia Mô bị hành quyết tại huyện đường Vĩnh Bảo trong cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng.
2. Con đường hoạn lộ của Hoàng Cao Khải gắn chặt với quá trình áp đặt sự cai trị của thực dân Pháp ở Trung kỳ và Bắc kỳ. Thời thế đã tạo ra một công thần kiểu “Nam - Pháp” như Hoàng Cao Khải; nhưng chính Hoàng Cao Khải cũng không quên hành động tạo thời thế. Có điều - con người hành động - của Hoàng Cao Khải hoàn toàn đối lập với lợi ích dân tộc. Điều này đã được Thống sứ Raymond Bonnal ghi trong hồi ký Au Tonkin và đã được Giáo sư Hoàng Xuân Hãn dẫn ra nhiều đoạn trong một bài viết có liên quan: “Nguyễn Hữu Độ đến Hà Nội đúng hẹn, trình diện với Cao uỷ. Cao uỷ sai người dẫn đến tôi… Có một thanh niên theo ông ta, mặt mũi thanh nhã, thông minh, mà ông giới thiệu với tôi là Tri huyện Thọ Xương, ở trong lòng Hà Nội. Tên y Là Hoàng Cao Khải. Tôi tiếp hai viên này một cách khoan hồng, và gắng hứa tương lai vững chắc của họ. Thấy tôi đối đãi nhã nhặn, cả hai đều cảm kích. Sau khi tôi hẹn sẽ lập lại cho cả hai quan chức và nghi vệ cũ”. Bonnal đánh giá khả năng phục vụ của Hoàng Cao Khải: “Tính tình cương quyết, có nhiều tham vọng. Y cũng vậy (ý nói cũng như Nguyễn Hữu Độ - N.H chú thích), sẽ tận lực bình định Bắc kỳ. Hoạn lộ rất cao là phần thưởng xứng đáng cho các công huân của y đối với chính quyền của y (triều đình Đồng Khánh – N.H chú thích) và nhà nước bảo hộ Pháp ”. Với một thái độ phục tùng tuyệt đối người người Pháp, Hoàng Cao Khải còn không coi Viện Cơ mật ra gì (không chịu về Kinh theo lệnh) và cảnh giác cả với triều đình: “Hoàng Cao Khải, còn trẻ, hăng hái, có nhiều tham vọng, thì đã nhất quyết chọn phe ta. Tin tưởng rằng sự tiến hành của chúng ta sẽ thành công, y ít để ý đến ý nghĩ của triều đình, và chỉ cẩn thận tránh khỏi bị đầu độc, bằng cách sai bà vợ cả (chỉ con bác Phan Đình Phùng) nấu ăn và trữ ngầm nước uống”.
Quả thực phủ Cao uỷ Pháp đã không nhìn nhầm người, tinh thần và khả năng phục vụ người Pháp của Hoàng Cao Khải không hề thua kém Nguyễn Hữu Độ (như đã trình bày ở phần 1). Cả hai đều được đánh giá là “tin cậy và tận lực”.
3. Là một “công thần” tôn nghiêm hiển hách và hơn thế nữa, như một ông vua ở Bắc kỳ, thiếu gì người đến xu phụ, bợ đỡ Hoàng Cao Khải để cầu hư vinh. Nhưng những nho sĩ chân chính đương thời và người đời sau thì đều coi khinh nhân cách họ Hoàng.
Chuyện kể lại rằng có lần một vị khách tới dinh yết kiến “cụ Quận” (Quận vương); Hoàng Cao Khải tiếp một cách do dự, rồi chỉ vào con chim hoạ mi trong lồng bảo vị khách vịnh thơ. Chỉ chờ có thế là vị khách trổ tài. Thơ rằng:
Hoạ mi ai vẽ ra mi ? (Hoạ là vẽ, mi tức mày)
Sắc mi cũng đẹp, hót thì cũng hay (hót là sự nịnh nọt)
Ai đưa mi đến chốn này (ám chỉ Nguyễn Hữu Độ)
Nước trong gạo trắng ngày ngày mi xơi
Lồng son ống sứ thảnh thơi (Ý nói sự mê muội trong công danh)
Mi bay mi nhảy sướng đời nhà mi! (cử chỉ khi làm quan)
Khen cho mi cũng gặp thì
Rừng sâu mi có nhớ gì nữa không ? (ám chỉ Phan Đình Phùng).
Mới liếc qua, Hoàng Cao Khải hiểu ẩn ý bài thơ. Tái mặt, cười nhạt rồi tiễn khách.
Một số ý kiến cho rằng bài thơ do Tàn Đà - Nguyễn Khắc Hiếu sáng tác tại chỗ trước mặt Hoàng Cao Khải. Tản Đà đi cùng cử nhân Ngô Thế Phổ (Tả Thanh Oai, dòng dõi Ngô Thời Sĩ); đọc xong bài này, cả hai ra xe tay thuê sẵn đi luôn; nhưng Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho biết – theo như lời người cha kể lại – thì tác giả là một ông đồ xứ Nghệ.
Còn đây là bài thơ gắn với tên tuổi ẩn sĩ Phan Điện, người cùng xã Tùng Ảnh với Hoàng Cao Khải, một nhà nho xứ Nghệ vừa mới vừa cũ, có tư tưởng chống Pháp, ghét triều Nguyễn bất lực. Khi hay tin họ Hoàng cho dời đền Trung liệt đến gò Đống Đa (Trước kia đền Trung Liệt ở khu Văn Tân, thờ trung thần liệt sĩ Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Nguyễn Cao và có tài liệu thêm cả ông Đoàn Thọ và Trương Quốc Dụng) rồi rắp tâm đổi tên thành Trung lương (nghĩa là trung thần và lương tướng) để bắt dân thờ luôn cả Hoàng Cao Khải đang sống; Phan Điện bèn có thơ rằng:
“Các cụ liều thân bỏ chiến trường
Ai đem Trung liệt đổi Trung lương
Thờ bên trung trực bên gian nịnh
Thế cũng đền đài cũng khói hương!
Thơm thúi lẫn nhau mùi tắc họng
Ngọt ngào đầu lưỡi miệng không xương
Nhà nho lại có thằng nào đó
Luồn cúi vào ra bợ cụ Hoàng.”
Lãng Nhân – Phùng Tất Đắc, nhà văn thành danh hồi nửa đầu thế kỷ 20 trong cuốn “Hương sắc quê mình” viết lại đoạn cuối cuộc đời Nguyễn Cao (nguyên Án sát Lạng Sơn, theo Cần Vương chống Pháp, bị thương ở bụng, bị bắt về Hà Nội) như sau:
“Hoàng Cao Khải trách Cao là không có lòng trung nghĩa, hứa bổ vào chức cao nếu chịu ra làm việc cho nhà nước. Cao từ chối. Hoàng cho đem hình cụ tra tấn ra doạ. Cao mĩm cười:
- Tôi đâu có sợ chết, sẽ có cách tự xử khỏi phiền đến ai…
Chàng thò tay rút ruột vứt lên mặt Hoàng Cao Khải, hỏi:
- Lòng tao đây, mày xem đoạn nào là không trung nghĩa?”
Nhiều tài liệu còn chép rằng, khi Hoàng Cao Khải theo Pháp muốn làm Phó vương, bắt các quan trong Triều phải ký vào biểu dâng lên Vua, Cao Xuân Dục bấy giờ là Đông các đại học sĩ, một trong tứ trụ Triều đình đã đề vào mấy câu:
“Thiên vô nhật nhị
Quốc vô lưỡng vương
Thần Cao Xuân Dục
Bất khả ký”
(Trời không có hai mặt trời. Nước không có hai vua. Thần Cao Xuân Dục. Không thể ký).
Sau thái độ dứt khoát này, ông bị giáng chức về làm Tri phủ huyện Quốc Oai.
Sinh thời, Nguyễn Khuyến bất đắc dĩ phải đến tư dinh Hoàng Cao Khải dạy học (thực tế là Hoàng Cao Khải cho “mời” đến đề giám sát). Nhà thơ vốn không ưa gì họ Hoàng cùng đám quan lại bợ đỡ. Tương truyền khi Hoàng Cao Khải mừng thọ 50 tuổi, tổ chức vịnh thơ, Nguyễn Khuyễn có làm bài ca trù “Hỏi ông phổng đá” có đoạn:
“Ông đứng làm chi đó hỡi ông ?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó?
Non nước đầy vơi có biết không?”
Một lần khác, Hoàng Cao Khải có dịp đi ngang qua Hà Nam , nhắn cho biết sẽ ghé thăm nhà Nguyễn Khuyến. Hôm đó đúng 23 tháng chạp, Nguyễn Khuyến sai người dựng cây nêu, treo một chiếc đèn lồng và một vế đối:
“Kiết kiết can mao, tiết đáo kinh thiên phù nhật nguyệt”
(Chót vót cờ mao, Tết đến chống trời phò nhật nguyệt)
Ý nói cây nêu cao có treo đèn, nghĩa bóng tỏ chí khí bậc túc nho. Vế đối lơ lửng cốt để nhử họ Hoàng vào tròng. Quả nhiên khi đọc xong Hoàng Cao Khải khen hay và đòi Nguyễn Khuyến viết nốt vế thứ hai. Chỉ chờ có thế, nhà thơ dẫn họ Hoàng vào tận bếp. Vế đối thứ hai dán cạnh mấy ông đầu rau:
“Mang mang khối thổ, thời lai tảo địa tác quân vương”
(Mênh mông khối đất, gặp thời quét rác cũng làm vua)
Nghĩa đen chỉ mấy ông đầu rau bằng đất là vua bếp, nhưng thâm ý muốn chơi xỏ viên Kinh lược Bắc kỳ được coi là Phó vương.
Còn nhiều những câu chuyện tương tự được lưu truyền có cả sự thật lẫn giai thoại; nhưng đều cho thấy một điều rằng: dư luận đương thời chỉ trích mạnh mẽ Hoàng Cao Khải. Và điều này – nói như Giáo sư Đinh Xuân Lâm về trường hợp Lê Hoan khi trả lời nhà báo Hồng Thanh Quang – là một trong những cơ sở để căn cứ nhìn nhận, đánh giá về nhân vật.
Trở lại với “Việt sử yếu” và một số thơ vịnh khác, dù rằng Hoàng Cao Khải cố làm cho có tính cách “ái quốc”n Quanghaie (nói như Giáo sư Hoàng Xuân Hãn) để che đậy “hành trạng” của mình với hậu thế (điều này cũng có thể thấy ở Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thọ Tường và một số nhân vật khác); thì nó vẫn có những đóng góp nhất định đối với văn hoá. Nhưng không vì thế để có thể nói ngược lại, khi “hành trạng” của nhân vật đã “đóng đinh” vào lịch sử.
Chuyên mục
NGHI VẤN LỊCH SỬ
01:04
Bà Ngô Đình Nhu có điệu bộ vóc dáng của một minh tinh màn bạc hơn là một phu nhân theo cốt cách Đông phương. Trong 9 năm chế độ Ngô Đình Diệm bà được suy tụng như một Đệ nhất phu nhân. Chính cái danh xưng này đã không thuận tai và làm cho dư luận đàm tiếu không ít. Ông Nhu tuy là một Cố vấn chính trị Phủ Tổng thống, nhưng trên danh nghĩa ông không có một vị thế công quyền. Ông Tổng thống sống đời độc thân mà người em dâu lại được "suy tôn" như Đệ nhất phu nhân thì điều đó quả chướng tai, vì nó không chính danh và hợp với chữ Lễ.
Nhưng từ nguyên do nào đã đưa bà Nhu lên địa vị một người đàn bà "uy quyền" khiến bao nhiêu khách công hầu của chế độ phải ra luồn vào cúi và coi bà như một nữ lãnh tụ? Ai phong cho bà Nhu tước vị Đệ nhất phu nhân? Không ai phong cho bà cả. Nếu có thì chỉ có cơ quan Thông tin thỉnh thoảng qua một vài bản tin, qua bích chương đã "bốc" bà lên hàng tột đỉnh công danh đó.
Xin trở lại quá khứ: Tháng 4-1955 khi Sài Gòn đang ngút ngàn khói lửa, Bình Xuyên quyết ăn thua đủ với chính quyền, gia đình bà Nhu vẫn còn ở căn nhà của bác sĩ Cao Xuân Cẩn trước dưỡng đường Saint Pierre Sài Gòn.
Khi thu hồi dinh Norodom, Tổng thống Ngô Đình Diệm dành một phòng phía bên -trái cho vợ chồng ông Luyện. Trong hai người em dâu thì Tổng thống Diệm quý bà Luyện hơn. Giữa vợ chồng ông Luyện với Tổng thống Diệm có sự thân mật đậm đà và không xa cách như vợ chồng ông Nhu. Từ khi trở về nước chấp chính cho đến tháng 4-1955, vai trò của ông Ngô Đình Luyện mới là quan trọng. Vai trò của ông Nhu lúc ấy còn mờ nhạt…
Nhưng có một điểm tâm lý như thế này: Tuy rất quý vợ chồng ông Luyện nhưng ông Luyện lại chỉ có toàn con gái. Tổng thống Diệm không thích cháu gái, ông rất yêu mến đám con trai của bà Nhu. Đó cũng là lý do dễ hiểu, khi cha con ông Ngô Đình Khôi qua đời (1945) thì mấy chú con trai của ông Nhu là kẻ nối dõi tông đường của dòng họ Ngô Đình. Ngô Đình Trác đứng vào hàng đích tôn thừa tự và là bực trưởng của gia đình Ngô Đình sau này. Mấy chú con trai của ông Nhu trở thành nhịp cầu nối tiếp giữa vợ chồng ông Nhu và Tổng thống Diệm mặc dầu bản chất giữa Tổng thống Diệm và ông Nhu rất khác biệt nhau. Anh em không mấy khi gần nhau qua những phút tâm tình hàn huyên. Nhưng mấy đứa cháu trai lại trở thành nguồn hứng thú tinh thần của Tổng thống Diệm và đó cũng là nguồn hy vọng của ông Tổng thống còn nặng lòng với nho giáo…trong tình cảm gia dình. Chính cũng nhờ ở điểm có mấy người con trai cho nên bà Nhu dã dễ dàng tạo được tư thế trong gia đình nhà chồng.
Khi trận chiến giữa Bình Xuyên và chính quyền bùng nổ, Đại tá Huỳnh Văn Cao bàn tính với Thiếu tá Vinh làm thế nào để di tản gia đình bà Nhu vào trong dinh, nếu không Bình Xuyên có thể làm "hoảng", giết ông bà Nhu hoặc bắt cóc mấy đứa con của bà để làm điều kiện thương thuyết. Ý kiến này mọi người đều cho là phải. Trước đó Tổng thống Diệm cũng tỏ ý băn khoăn ngỏ ý với ông Bằng "Mi bàn với Vinh và Cao làm sao che chở gia đình ông Nhu ở Saint Pierre…Bình Xuyên nó làm dữ quá.".. Mấy hôm sau, gia đình bà Nhu di tản vào dinh Độc Lập, ở trong một gian phòng phía góc trái. Lúc đầu ông Nhu nằm ghế bố vì không có giường…
Bà Nhu tuy chỉ học hết lớp Đệ tam (classe de seconde) trường Albert Sarraut Hà Nội nhưng bà lại có một trì thông minh thiên bẩm. Sinh ra trong nhung lụa, lại thuộc gia đình quan lại vọng tộc, bà Nhu từ tấm bé đã ở trong một môi trường tháp ngà, hầu như không liên hệ với nếp sống Việt Nam. Có thể nói, bà thuộc một giai cấp không có trong xã hội Việt Nam. Cái giai cấp đó được hình thành trong chiếc nôi văn hoá của phương Tây. Bà là thứ trưởng giả thứ thiệt. Nhưng thứ trưởng giả này là một chất hỗn hợp giữa bản chất hoàng phái (dòng máu bên ngoại) cùng quan lại vọng tộc (dòng máu bên nội qua gia đình ông Trần Văn Thông). Thân mẫu của bà là cô gái Huế thuộc hàng khuê các sông Hương núi Ngự. Thân phụ bà tuy hiền lành nhưng trong con người của ông Trần Văn Chương đã có tới 80% chất Tây. Quê nội trong Nam, quê ngoại ở xứ Huế, lại sinh trưởng ở đất Bắc, bà trở thành một thứ lưu dân giữa 3 miền Bắc, Trung, Nam.
Từ nhỏ học trường Pháp, và trong gia đình sống theo lối Pháp, cha mẹ con cái chỉ nói tiếng Pháp như một ngôn ngữ mẹ đẻ, bà Nhu trở thành một thứ đầm con khi còn cắp sách đến trường.
Tóm lại, môi trường và nếp sống của bà hoàn toàn xa cách với nếp sống của quảng đại quần chúng Việt Nam. Khi trở về làm dâu họ Ngô Đình bà Nhu trở nên lạc lõng.
Giữa hai họ Ngô Đình và Trần Văn tuy là dòng quan lại cũ nhưng họ Trần Văn đã "tây hơn cả tây”. Họ Ngô Đình trước năm 1945 thường bị giới đường quan phê phán là "quê". Quê có nghĩa là không biết ăn chơi, không có một đời sống thích nghi với nếp sống phương Tây và hầu hết giới quan lại thời đó đều coi đây là hình ảnh mâu thuẫn và hoàn toàn khác biệt giữa hai gia đình thông gia, Ngô Đình và Trần Văn. Qua tấm ảnh trong album của gia đình Ngô Đình chúng ta thấy cụ ông Ngô Đình Khả đứng cao lênh khênh, mặc áo đại quan, đeo bài ngà kim nhưng chiếc quần lại cao quá mắt cá chân, rộng thùng thình. Ông là hình ảnh một vị thượng quan thế kỷ 18. Bà Khả thấp, mặc áo dài đen, quần thì ống thấp ống cao, bế con. Chung quanh hai ông bà là một đàn con yêu vận quốc phục. Riêng Tổng thống Ngô Đình Diệm lại mặc một bộ đầm sọc (loại tây đã phế thải) và đi chân đất. Nhìn cảnh đó, ta có ngay một mối cảm tưởng sâu xa về cảnh hàn vi của một Lễ bộ Thượng thư Nam triều còn gia đình bà Nhu thì trái hẳn, ông Trần Văn Chương mặc Smoking rất đúng điệu trưởng giả Anh quốc…Bà Chương lộng lẫy trong áo dài gấm, vấn tóc trần. Chính ảnh một phu nhân tân thời vào những năm 1930…trong khi con cái bà Chương đều mặc "đầm" rất đúng điệu. Chú con trai mới mấy tuổi cũng Com lê hoàn toàn trưởng giả.
Trong gia đình ông Trần Văn Chương, vợ chồng con cái đều dùng tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ. Bà Nhu vốn đã nổi tiếng là một mệnh phụ giao du rất rộng. Bà thuộc loại "đầm galăng”.
Được ấp ủ và giáo dục trong một trường Tây phương, khi còn đi học bà đã nổi tiếng là một tiểu thư lả lướt, lãng mạn.
Ông Nhu vốn là bạn của vợ chồng luật sư Chương. Cuộc tình duyên giữa chú Nhu và cô bé Lệ Xuân là một cuộc tình duyên "chú cháu”. Chú lớn hơn cháu trên cả hai mươi tuổi.
Kể từ năm 1945, gia đình ông Nhu trải qua cuộc “phong trần" khi thì ở Đà Lạt, khi thì ở Sài Gòn…ông Nhu "thất nghiệp"… 6, 7 năm trời. Khoảng thời gian này đều do tay bà Nhu tần tảo thu xếp. Từ nếp sống một tiểu thư trưởng giả đổi qua vai trò người vợ một ông chồng "lừng khừng và thất nghiệp chính trị" bà phải lo toan mọi bề và thời gian này với một người như bà Nhu không tránh khỏi tâm lý của kẻ tự tôn với dĩ vãng vàng son và tự ti với hiện tại cam go đầy sinh kế.
Dù có sự trợ cấp của Đức cha Thục, gia đình vẫn không thoát khỏi cơn khủng khoảng kinh tế kéo dài 6 năm. Thời gian này, chuyện xô xát giữa đôi vợ chồng trẻ khó bề tránh khỏi. Theo sự tiết lộ của một số gia nhân thân cận…thì bà Nhu luôn luôn to tiếng… với ông chồng. Ông Nhu không biết kiếm đâu ra tiền, mọi sự đành "một tay nhờ mụ nó". Khi một người đàn ông, dù người đàn ông đó là loại siêu đẳng nhưng từ một điếu thuốc cũng do tiền vợ mua thì tất nhiên do kết quả tiệm tiến của một quá trình tâm sinh lý người đàn ông đó không thể nào không bị vợ chi phối. Vợ không khinh đã là đại phước lắm rồi. Nếu vợ vẫn trọng vọng mình thì lại càng tạo nên yếu tố tâm lý giúp cho ngườivợ dễ dàng khuất phục ông chồng và quyền uy của người vợ theo thời gian mà thấm vào trái tim và trí óc ông chồng, không bao lâu quyền uy của chồng trở thành quyền uy của vợ. Ông Nhu ở trong trường hợp này.
Kể từ năm 1952, tình trạng kinh tế gia đình của vợ chồng ông Nhu càng thêm sa sút, đến độ tê liệt. Bà Nhu đã phải bán hết nữ trang. Từ năm 1952 chiếc vòng bà đeo cổ cuối cùng cũng phải đem đi phát mại. Khi ông Nhu quay sang làm tờ Tuần báo Xã hội thì cảnh nhà lại càng tệ hại. Những cộng tác viên của ông dạo đó phải mua tặng ông Nhu từng bao thuốc, đãi ông từng bữa quà sáng. Quần áo của ông Nhu cũng đã xác xơ. Ông chỉ còn lại một vài bộ đồ lớn còn lưu giữ từ thời tiền chiến. Bà Nhu thì đi xe đạp…ông chồng Nhu vẫn đi ké xe "muôn thuở" từ năm 1945 cho đến 1954.
Bản chất ông Nhu vốn trầm lặng một cách khó hiểu, cho nên cứ mỗi lần bà Nhu la lối là ông ngồi im không một lời nói năng, nét mặt chảy dài. Xì căng đan như một biến cố tâm lý trong đời ông là dạo cuối 1953 bà Nhu đã doạ tự tử sau một trận xô xát. Trước sau ông Nhu vẫn là kẻ thua cuộc vì bất lực trong cuộc âm mưu sinh kế cho gia đình. Nguyên nhân chỉ vì cạn tiền không còn cách nào xoay xở để sinh sống. Với một con người trí thức cỡ nặng như ông Nhu trong tình cảnh ấy kéo dài qua nhiều năm thì áp lực và ảnh hưởng của vợ đối với chồng (nhất là chồng già vợ trẻ) mỗi ngày càng thấm sâu lan rộng… do đó bà Nhu càng dễ dàng khuynh loát, khống chế bao toả mọi việc…từ gia đình riêng đến giao tế bên ngoài. Trước năm 1952 đối với vợ ông là người cứng rắn, không thích ai bàn tính chuyện thế sự với bà vợ…mà ông cũng không bàn thảo gì với bà vợ còn non trẻ.
Ông vẫn coi vợ là một cô cháu gái ngây thơ. Nhưng bà Nhu lại nhiều lần muốn chứng tỏ mình không còn nhỏ dại và đủ khả năng để giúp chồng làm việc lớn. Trong vụ tranh chấp giữa tướng Hinh và Tổng thống Ngô Đình Diệm, bà đã chứng tỏ bà có khả năng thực. Dạo ấy bà Nhu đã len lỏi đến nhiều nơi để vận động ông tướng Hinh và kể cả chuyện tham gia sách động biểu tình tháng 9 năm 1954. Giữa lúc tình hình gay go nhất, bà Nhu nhảy vào vòng với một lập trường dứt khoát là phải đuổi cổ anh "tây con" sang Pháp. Tháng 4 năm 1954, khi Tổng thống Diệm nhận được điện của Quốc trưởng Bảo Đại triệu qua Cannes, bà Nhu đã mạnh bạo tỏ thái độ quyết hệt và tìm cách ngăn không cho ông anh chồng sang Pháp và chủ trương lật đổ ông Vua này. Về vụ Bình Xuyên bà cũng nhảy vào vòng (dù không ai yêu cầu) nhưng bà lại chứng tỏ có khả năng và nhiều sáng kiến trong việc giúp anh và chồng giải quyết đại sự trong một tình thế sôi bỏng.
Khi gia đình bà Nhu dọn vào dinh Norodom, lúc đầu chỉ có tính cách ở tạm ít lâu để lánh nạn Bình Xuyên. Gia đình ông Luyện tự động nhường căn phòng phía bên trái dinh cho vợ chồng ông anh và dọn ra ở toà nhà trắng phía đường Nguyễn Du. ông bà Nhu ở căn phòng này cho đến vụ ném bom 27-2-1962.
Trong gia đình, ngoài Đức cha Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm thì không ai ưa bà Nhu cả. Riêng ông Luyện lại coi thường bà chị dâu và tỏ ra bất mãn khó chịu mỗi khi thấy bà chị dâu “can dự vào" chuyện quốc sự. Sự bất đồng giữa ông Nhu và ông Luyện trở nên rõ rệt qua vụ truất phế Bảo Đại. Ông Luyện là bạn thân của Bảo Đại từ hồi còn đi học và chính ông đã đóng vai trò giao liên dàn xếp với Bảo Đại qua vụ tướng Hinh và Bình Xuyên. Ông Nhu thì chủ trương phải truất phế cựu Hoàng Bảo Đại và thành lập chế độ Cộng hoà, dĩ nhiên là bà Nhu hùa theo. Bà lại thường dùng những ngôn ngữ đao to búa lớn…Thái độ và lời nói của bà vừa lấn át người đối thoại, vừa như mệnh lệnh khuất phục kẻ đối lập với bà. Trong thời gian 3 tháng qua Pháp để dàn xếp với Bảo Đại vào đầu năm 1955 lúc ông Luyện trở về thì quyền Cố vấn đã hoàn toàn nằm trong tay ôngNhu, có nghĩa là bà Nhu cũng tham gia ít nhiều vào quyền Cố vấn đó. Tổng thống Diệm đã dặn riêng mấy người thân cận như Đại uý Cao, Thiếu tá Vinh như “ở nhà có chuyện gì xảy ra đừng có kể lại cho ông Luyện nghe". Ý Tổng thống Diệm không muốn làm phật lòng ông em út mà Tổng thống I)iệm thương nhất trong nhà, nhưng ông lại nể ông Nhu hơn và phục cái tài của ông em học giả. Từ dạo đó, quanh Tổng thống Diệm đã chia thành hai phe, một phe thân ông Luyện, một phe thân ông bà Nhu. Mấy gia nhân thân cận như ông Bằng cũng bắt đầu công khai va chạm với gia đình bà Nhu.
Sở dĩ phải mô tả và nhận định về con người và bản chất thực của bà Nhu ở thiên bút ký này là vì những tình cờ của lịch sử và số phận hẩm hiu của Việt Nam, bà Nhu đã có cơ hội tham dự ít nhiều vào một số biến cố lịch sử năm 1963. Điều quan trọng hơn là bà Cố vấn Nhu có một phần trách nhiệm trong biến cố đó.
Vấn đề đại sự quốc gia nhiều khi lại bắt nguồn từ những sự việc rất tầm thường. Biến chuyển lớn của lịch sử hơn một lần lại bùng nổ từ những xúc cảm và ý kiến phiến diện của cá nhân lãnh đạo cùng những ảnh hưởng cảm tình chung quanh cá nhân đó. Biến cố 1963 đã nói lên điều này và bà Nhu đã góp phần "đổ dầu thêm vào lò than hồng năm 1963".
Chẳng hạn như chiếc “ghế khoái lạc " của bà Nhu được triển lãm tại Phòng Thông tin Đô thành năm 1964 (đây chính là chiếc ghế ngồi uốn tóc).Từ năm 1962 thì bà Nhu không ra tiệm cắt uốn tóc nên một tiệm uốn tóc ở đường Catinat đã đưa chiếc ghế này vào dinh, mỗi tuần cho thợ vào một lần, chiếc ghế đó bỗng nhiên được đặt tên là ghế khoái lạc để chứng tỏ tội ác của bà Nhu cùng chế độ Ngô Đình Diệm… chiếc ghế khoái lạc đó đã ít nhiều kích động quần chúng tạo dựng nên bao nhiêu điều đáng tò mò qua con người đầy sôi nổi như bà Nhu.
Trong 9 năm đã có biết bao nhiêu "sự thực" như vậy được diễn tả một cách mê ly gay cấn trong dư luận quần chúng. Mà sự thực về bà Nhu như thế nào? Trước hết, nếu nói về tội thì bà có một "tội lớn" như thế này: "Bà không biết gì về chính trị nhưng lại hăng hái tham gia chính trị”.
Sinh trưởng trong nhung lụa của một tháp ngà trưởng giả Tây phương, không thích nghi với đời sống của quảng đại quần chúng, nhưng lại công khai nhảy ra hoạt động hàng đầu…Tất nhiên bà phải dấn mình vào thực tế nhưng lại không thích nghi được, thực tại trở nên đối địch với chính bản chất trưởng giả và xa lạ quần chúng của bà. Thực ra thì chính quyền dạo đó cũng muốn tạo lực lượng phụ nữ…Vì đây là một lực lượng đáng kể và nếu biết cách tổ chức và vận động thì lực lượng này là một hậu thuẫn to lớn. Bà Nhu có thể làm được điều đó cùng với ưu thế và quyền hành (trong bóng tối mà trong bóng tối mới là quan trọng). Bà Nhu lại quyết tâm hoàn thành gíâc mộng trở thành lãnh tụ của giới phụ nữ miền Nam Việt Nam. Ngay trong gia đình nhà chồng -một gia đình thượng quan nho phong - bà Nhu còn không sống được cho thích nghi với đời sống, huống chi quảng đại quần chúng, nhất là quần chúng Việt Nam vốn trọng nam khinh nữ, người dân Việt Nam vốn chỉ tôn mộ khâm phục những người như bà huyện Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh, Phan Bội Châu phu nhân…
Những lý do nào khiến bà Nhu tạo được cơ hội nhảy vào sân khấu chính trị và từ năm 1956 bà đã gây được nhiều thanh thế trong dư luận quốc nội và quốc ngoại…Nói là bà quá ồn ào nhưng ồn ào có kỹ thuật trình diễn. Lý do gần như là tầm thường nhất đã giúp bà Nhu thành công trên con đường của bà, trước hết và đáng kể chỉ vì bà Nhu trở thành con dâu trong gia đình họ Ngô và độc quyền dành cho họ Ngô mấy cậu con trai để nối dõi tông đường (mãi sau này ông Luyện mới có con trai). Tổng thống Diệm độc thân và mấy đứa cháu trai trở thành nhu cầu cần thiết cho đời sống tình cảm của một con người còn nặng lòng với gia tộc và truyền thống như Tổng thống Diệm. Sau nữa là dù Phủ Tổng thống đã có Nha Nghi lễ, có Sở Nội dịch, ông Tổng thống Diệm vẫn cần phải có một phụ nữ để lo toan công việc tiếp khách và nhiều vấn đề khác thuộc phạm vi giao tế nhân sự mà thiếu một người đàn bà cũng gây nên nhiều nan giải, bế tắc. Bà Nhu lại có sở trường giao thiệp, có đôi chút khiếu thẩm mỹ. Trong khi Tổng thống Diệm cũng như ông Nhu hoàn toàn mù mờ về thẩm mỹ và giao tế (lo toan việc nội trợ đều một tay bà Nhu điều động) như trang hoàng phòng khách, sắm sửa các đồ trang trí và trang sức. Bà lại luôn luôn tỏ ra con người mẫn tiệp, tháo vát và khéo léo (khi tiếp phái đoàn ngoại quốc) Bà lại nói Pháp ngữ và Anh ngữ rất lưu loát.
Từ tư thế một nữ tiếp viên của dinh Độc Lập, lại thêm tham vọng lãnh tụ của phụ nữ cùng với uy thế và quyền hành của chồng và anh chồng, bà Nhu được mặc nhiên chấp nhận trên thực tế một uy quyền bất khả kháng và uy quyền đó, cách này hay cách khác dã chi phối ít nhiều trong sinh hoạt quốc gia và công vụ.
Lực lượng phụ nữ của bà Nhu qua phong trào Phụ nữ Liên đới lại chỉ gồm toàn vợ mấy ông lớn cho nên không có tính cách quần chúng và chỉ nặng về trình diễn. Khi các bà lớn trình diễn chính trị thì quả thật không hấp dẫn được ai và trở thành trò cười cho thiên hạ.
Bà Nhu chịu đọc sách lại có ông chồng "Cố vấn”, nên bà cũng có chút kiến thức. Tuy kiêu ngạo và tự tôn nhưng gặp việc khó khăn nan giải, bà vẫn chịu khó tìm hiểu ý kiến qua một vài cộng sự viên thân cận của ông Nhu.
Bà đối đáp rất mau lẹ, phản ứng kịp thời. Đó là ưu điểm của bà. Nhưng trong hoạt động chính trị, phản ứng nóng nảy bốp chát của một người đàn bà ở địa vị bà Nhu đã trở nên bất lợi cho bà. Khuyết điểm lớn của bà là đã không tạo được những cử chỉ phong độ, ngôn ngữ hấp dẫn được quần chúng kể cả giới phụ nữ.
Nếu ý thức được như vậy, lý ra bà Nhu phải hoàn toàn đứng trong bóng tối một cách khiêm nhường, đằng này bà Nhu lại xuất hiện với tất cả sự lộng lẫy loè loẹt với chiêng trống nhịp nhàng của một số các bà tướng tá, Bộ trưởng, Tổng giám đốc và kể cả mấy vị tu mi " râu mày nhẵn nhụi"…
Trước hết là dịp lễ Hai Bà Trưng, bà Nhu muốn làm sống lại khí thế của hai vị nữ anh hùng Dân tộc này…và có nhẽ bà Nhu cũng muốn nhân cơ hội trở về nguồn lịch sử để tạo một thần tượng dẫn đạo phụ nữ. Theo bà Nhu “Nam giới có Lê Lợi, Quang Trung thì nữ giới cũng có Hai Bà Trưng như Pháp có Jeane d’Arc". Trước năm 1963, lễ hội Hai Bà Trưng được mô tả như một lễ Quốc Khánh, không có ai công khai phản đối được. Nhưng vì trình diễn quá nhiều nên lại không thuận tình. Xin dẫn chứng về cái gọi là không thuận tình như thế này:
Lễ đài trần thiết thật long trọng tôn nghiêm có bàn thờ, có tàn lọng, có đồ bát biểu, gươm đao, khí giới… trên bục lớn của lễ đài trải nhung đỏ (màu tiêu biểu cho sự thiêng liêng của dân tộc ). Lễ nghi dành cho bậc anh hùng dân tộc như vậy là đúng. Nhưng người chủ lễ rất quan trọng. Dư luận luôn lưu ý về điểm này. Bà Nhu với tư cách đại diện phụ nữ Việt Nam và Đại diện Tổng thống, nhất là Đại diện Tổng thống nên bà được hưởng đầy đủ nghi lễ, nào là xe dành riêng cho Tổng thống lại có đoàn xe Harley hộ tống, khi đến lễ đài lại có đủ mặt Bộ trưởng, tướng lãnh tăm tắp đứng lên "kính chào" theo nghi lễ quân cách. Trên nguyên tắc thì đúng là vị đại diện của Tổng thống đuợc quyền hưởng nghi lễ như vậy.
Nhưng thực tế chính trị và tâm lý truyền thống Việt Nam không chấp thuận như vậy. Dù cho là vợ một Tổng thống, người Việt cũng cảm thấy khó chịu. Nếu vợ ông Tổng thống cũng được hưởng nghi lễ đón tiếp dành riêng cho vị nguyên thủ quốc gia ở Tây phương thì lại khác, huống chi bà Nhu chỉ là em dâu một Tổng thống vốn được tôn trọng theo hàng trưởng lão quốc gia. Do đó mà dư luận bàn tán mỉa mai thành ra "kính chẳng bõ phiền " không ít, giọng nói của bà Nhu qua các bài diễn từ cũng là một thất lợi vì giọng tuy mạnh thật, tuy có lửa nhưng lại vốn ra vẻ lãnh tụ, như răn dạy, truyền bảo, thêm vào đó tiếng nói lại thiếu ngọt ngào truyền cảm, thiếu nữ tính…
Khi đã có quyền hành, có địa vị (dù là trong bóng tối ) và một uy tín cần phải được bảo vệ trong tư thế lãnh đạo… ông Nhu hay ai cũng không thể làm cách nào khác hơn là nhịn một người vợ hay lớn tiếng, dám làm những việc động trời như bà Nhu…ông Nhu trở thành bất lực không thể ngăn cản vợ… đó chỉ là hậu quả bản chất của kẻ nhu nhược.
Vả lại dưới con mắt chủ quan của ông Nhu thì người vợ ông không làm gì quá đáng, trái lại công việc của bà Nhu lại hợp lý và hữu ích cho quốc gia. Lấy việc bà tham gia Luật gia đình là một thí dụ.
Kể từ tháng 12-1957, Quốc hội họp bàn sôi nổi về dự án của Luật Gia đình, bà Nhu đã từng bỏ phòng họp ra về với thái độ, ngôn ngữ rất ngang ngược ngạo mạn. Đối với một tín đồ Thiên Chúa giáo thì đời sống lứa đôi chỉ có một vợ một chồng và không được li dị, vấn đề đa thê không cần đặt ra. Nhưng xã hội Việt Nam không phải là xã hội phương Tây và dân chúng Việt Nam không phải tất cả đều là tín đồ Thiên Chúa giáo Thiên Chúa giáo chỉ chiếm (15% dân số) cho nên Luật này trên lý thuyết thì hay song thực tế không phù hợp với bản chất và nếp sống của quảng đại quần chúng lúc bấy giờ. Hơn nữa giới âm thầm phản đối chính là giai cấp tướng tá và công chức cao cấp cũng như những công kỹ nghệ gia giàu có, phần lớn các vị này đều bị kẹt nếu không có vợ bé thì cũng lén lút giao du.
Bà Nhu đã lý luận " Đã đến lúc người phụ nữ đứng lên bình đẳng với người chồng ngay trong phạm vi gia đình, chỉ một vợ một chồng thôi… chỉ những kẻ hư hỏng không ra gì mới lấy vợ nhỏ rồi bỏ phế gia đình”. Bà Nhu vẫn tin là mình đi đúng đường với chủ trương cách mạng xã hội, giải phóng phụ nữ của thế giới, trước hết từ gia đình, để từ đó ra ngoài xã hội. Lý luận và chủ trương của bà nghe xuôi tai và hợp lý. Nhưng điều căn bản là cải tạo xã hội, không phải chỉ bằng một biện pháp, ban hành một vài đạo luật.
Có thiện chí và hăng say song bà Nhu vẫn bị phản đối, dân chúng lại thờ ơ. Trước hết vì bà Nhu không nắm được một vài định luật rất giản dị, đơn giản của chính trị (Những nhà lãnh đạo của chính quyền ông Diệm sau 1963 đều mắc phải lỗi lầm như vậy, vì là một thứ lãnh tụ "non" thiếu học tập thiếu kinh nghiệm, không có căn bản chính trị ).
Một trong những "định luật chính trị " căn bản của người lãnh đạo là không bao giờ được lấy chủ quan của mình để biến đổi khách quan (tức thực tại chính trị ) nhưng ngược lại phải biết biến hoá chủ quan lãnh đạo của mình. Và dung hoà chủ quan với khách quan tức là hoà đồng bản thân với thực tại để nắm thực tại.
Bà Nhu là người có tài thực, có thiện chí, song tính kiêu ngạo và chủ quan cũng đã đủ làm cho bà trở thành đối tượng cho bao nhiêu điều phẩm bình, dị nghị đàm tiếu…Mẫu người như bà Nhu sẽ dễ dàng thành công trong xã hội Mỹ. Ngôn ngữ cử chỉ cùng những phản ứng lanh lẹ của bà sẽ dễ dàng thu hút được đám đông. Nhưng đám đông trong quần chúng Việt Nam lại trở nên xa cách với ngôn ngữ, dáng điệu và cử chỉ của bà Nhu. Qua mấy lần ra ngoại quốc tại Maroc, Brasil…bà Nhu đã thành công nhờ ưu điểm trên. Còn chuyến đi giải độc tại Hội nghị Quốc tế nghị sĩ tại Belgrade (Nam Tư 1963 ) và Mỹ quốc bà Nhu đã chứng tỏ được khả năng đặc biệt của mình và nhất là tại Mỹ quốc bà đã gây được nhiều sóng gió làm kinh động chính quyền Kennedy và Đảng Dân chủ Mỹ. Nhưng với xã hội Việt Nam, bà hoàn toàn thất bại trước đám đông.
Người ta tự hỏi, tại sao một trí thức như ông Nhu lại không kiềm chế được người vợ? ông Nhu sợ vợ? Nói cho ngay tình thì ông Nhu không phải là một người sợ vợ, ông rất ghét "chuyện đàn bà dính vô", nhưng ông đã bị bà dắt mũi.
Bộ Luật Gia đình đã gây sôi nổi trong dư luận một thời. Thực tế thì Luật ấy cho đến khi ban hành và thực thi cũng không tạo được một tác dụng lớn lao nào trong tầng lớp dân chúng. Phản ứng của dân chúng đối với Luật gia đình không có gì đáng quan tâm, vì luật pháp hãy còn hết sức xa vời so với quảng đại quần chúng Nam Việt Nam bởi nó không công bằng với tất cả…Dù có luật hay không luật, đời sống vợ chồng trong giới bình dân đều dựa trên căn bản tình cảm "yêu nhau giá thú bất luận tất". Nhưng đối với giới thượng lưu và nhất là giới tướng tá và công chức cao cấp tuy ngoài mặt hân hoan chào mừng Luật Gia đình,nhưng trong lòng đau đớn không ít và chính mấy giới này đã góp công không nhỏ trong việc tạo dựng "dư luận xấu” về bà Nhu. Một số quan toà xuất thân từ hàng quan lại thuộc địa, trở thành nạn nhân thứ nhất của Luật gia đình. Có ông Toà hai ba vợ…như vậy thì trách chi không oán ghét bà Nhu. Bà Nhu thường bàn luận với mấy cộng sự viên của ông Cố vấn chính trị như thế này " Kinh nghiệm trong gia đình nội ngoại của tôi, tôi biết quá rõ. Ai có vợ nhỏ thì đang trong sạch cũng trở thành tham nhũng, gia đình chia rẽ, rồi dòng con này, dòng con kia cứ lung tung lộn xộn". Khởi từ kinh nghiệm này, bà Nhu quyết thanh toán chế độ đa thê, mà bà nghĩ rằng nếu hoàn thành là bà đã giải phóng cho nữ giới cái thảm cảnh gia đình vợ nọ con kia (chém cha cái kiếp lấy chồng chung, kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng). Trước diễn đàn Quốc hội năm 1957, cũng đã có nhiều dân biểu mạnh dạn lên tiếng công kích dự án Luật này. Bà coi mấy ông dân biểu không đi đến đâu cả…bà Nhu coi thường không muốn nói là khinh miệt một số dân biểu như vậy cũng có nguyên nhân. Vì rằng bà cũng biết rõ chân tướng của các ông (Đời tư lẫn đời công cũng chẳng có gì đẹp đẽ). Chức dân biểu của họ phần lớn cũng do "công ơn ban phát…". Do dó mà phản ứng của một số dân biểu trở thành vô hiệu.
Trong một phiên họp vào khoá đầu năm 1959, bà Nhu công khai đả kích một số dân biểu ngay tại diễn đàn Quốc hội và cho rằng “Ai chống đối Luật Gia đình chỉ là những kẻ ích kỷ hèn nhát muốn lấy "vợ lẽ". Thái độ chống đối đó thật là hèn”. Mấy ông dân biểu quyết làm lớn vụ này và đòi bà Nhu phải xin lỗi…về thái độ hống hách của bà. Sau đó bà Nhu tỏ ra phục thiện và ra một thông báo cải chính là bà không nói các dân biểu “thật hèn” nhưng bà chỉ nói dân biểu "thất hẹn".Cách cải chánh của bà kể ra cũng thông minh và khéo léo.
Tất nhiên ai cũng hiểu rằng, không ai lại nói “thái độ thất hẹn" cả. Nhưng ở đây bà bẻ quặt hai chữ thật hèn thành thất hẹn. Bà đã "chơi chữ " mộtcách thông minh và đúng lúc. Mấy ông dân biểu đành chịu đựng một cách hoan hỉ. Phụ hoạ với bà Nhu còn một số nữ dân biểu thuộc "gà nhà". Nhưng hầu hết trình độ chính trị còn non kém lại thiếu thông minh nên mới có một nữ dân biểu lớn tiếng bênh vực luật gia đình và đưa ra một "định thức": Đàn bà đẻ ra đàn ông. Nhờ câu nói "phàm phu tục tử "này mà cả mấy năm trời báo chí có đề tài đem ra "thị phi".
Thực tế là Luật Gia đình có nhiều điểm phù hợp với tinh thần thượng tôn hạnh phúc và bảo vệ trật tự xã hội qua trật tự gia đình. Thế nhưng lại có một số điều quá khắt khe, không phù hợp với thực tế, thiếu căn bản của một tinh thần xã hội trong truyền thống Việt Nam. Do đó mà cái hay cái đẹp đều bị che lấp bởi cái dở… Khi một người nhìn trang giấy trắng thường chỉ chú ý đến một vết mực đen (dù vết mực có nhỏ và ở ngoài lề). Bà Nhu hãnh diện với Luật gia đình nhưng luật ấy có tác dụng không lại là chuyện khác. Sau đó bà lại đưa ra dự án Lành mạnh xã hội. Trước đó tháng 5-1958 tại Quốc hội bà Nhu đưa ra đề nghị thành lập phong trào Phụ nữ Liên đới và kêu gọi các bà vợ công tư chức quân nhân tham gia phong trào. Quốc hội khóa II (tháng 8-1959) đã có 9 nữ dân biểu trong đó có bà Nhu. Bà lại khởi công hoàn thành dự án Luật "Lành mạnh xã hội". Sau cái tên này bị đả kích nên được đổi thành Luật Bảo vệ luân lý (ban hành năm 1962 bị bãi bỏ sau đảo chính bằng sắc luật 2-1963).
Dự luật này cũng gây sôi nổi không ít. Xét cho công bằng, khi đưa ra dự luật này, bà Nhu nắm ngay được chính nghĩa vì rằng chỉ có một thiểu số là nạn nhân của Luật Bảo vệ luân lý. Thiết tưởng dù là ở một thời đại nào, ở một chế độ nào, (ngoại trừ chế độ của những kẻ hãnh tiến ăn chơi sa đoạ và coi nhảy đầm như một lý tưởng đáng tôn thờ) không ai có thể tán thành cho các thiếu niên uống rượu hay hút thuốc hoặc ủng hộ cho nạn phá thai, đồng bóng. ấy thế mà người ta vẫn chống đối và hè nhau tạo nên niềm công phẫn. Bà Nhu lại trở thành trung tâm của bao nhiêu mũi dùi dư luận. Dĩ nhiên luật ấy cũng có những điểm quá đáng và thiếu thực tế.
Trên quan điểm quần chúng cũng như phong tục truyền thống dân tộc thì dự Luật Bảo vệ luân lý của bà Nhu là một công trình tốt đẹp với thành ý xây dựng rất rõ rệt, 15 triệu đồng bào bất quá chỉ có vào khoảng nửa triệu ảnh hưởng đến luật này, nhưng chính lớp người thiểu số đó lại có tác dụng sa đoạ hoá xã hội miền Nam Việt Nam và đồng thời vong bản hoá bản chất dân tộc cũng như bôi đen cả tập tục tốt đẹp của xứ sở. Do đó không thể nào buông thả cho một thiểu số này sống phóng đãng được trong khi quảng đại quần chúngvẫn phải sống đời lầm lũi cơ cực và trong khi mà nếp sống của quảng đại quần chúng vẫn tập thành trên căn bản của truyền thống cao đẹp.
Về công trình này, bà Nhu đứng hẳn về phía quần chúng, lập trường là lập trường xã hội dân tộc. Nhưng bà lại gặp phải phản ứng dữ dội tuy ngấm ngầm. Nhiều tướng tá hay một số công chức cao cấp đều mê cái món nhảy đầm. Các bà lớn thì bài bạc.
Phần nhiều con các ông lớn thì rượu chè thuốc sái (con nhà nghèo và trung lưu thì lấy tiền đâu ra)…Các vũ nữ lại là một thành phần liên kết ruột thịt với một số tướng tá công chức cao cấp, công kỹ nghệ gia ăn chơi và giới "văn minh " đô thị. Bà Nhu vô tình đã đụng độ với những địch thủ ghê gớm đó.
Quảng đại quần chúng từ nông thôn đến giới trung lưu không ai chê trách gì Luật Bảo vệ luân lý (có hay không đối với họ không quan trọng) nhưng một giới khác thì Luật này trở nên quan trọng.
Việc cấm nhảy đầm của bà Nhu cũng gây bất mãn lớn trong giới ngoại kiều tại Sài Gòn (Tây phương coi nhảy đầm là một nghệ thuật, một trò giải trí thanh lịch truyền thống). Trong một cuộc gặp gỡ mấy bà, ông Taylor không đề cập đến vấn đề nào khác hơn là chuyện nhảy đầm. Ông cho rằng sự cấm đoán như vậy là kỳ quái, lỗ mãng, sống sượng.
Đáng lý chuyện nhảy đầm nếu cấm thì cũng nên linh động uyển chuyển, nhưng kẻ thi hành lại quá hăng say trong việc lập công. Trường hợp nữ giới thuộc lãnh sự đoàn người Liban, cư ngụ tại đường Trương Minh Ký, đã bị nhân viên công lực gây phiền phức, tạo nên dư luận không tốt trong giới ngoại giao.
Bà này đã có tuổi. Nhân dịp một tàu hàng Líban cập bến, một số thuỷ thủ đồng hương của bà đến thăm rồi nghe nhạc theo vũ điệu… Thế là cảnh sát cũng ập vào lập biên bản đem về bót. Rất nhiều trường hợp như thế đã xảy ra. Giới ngoại kiều càng thêm bất mãn và đó cũng là một sự bất lợi về "ngoại giao". Trong khi triệt để cấm nhảy đầm thì mấy ông tướng tá vẫn cứ lén lút du dương.
Riêng về việc cấm nhảy đầm, bà Nhu tỏ ra dè dặt. Bà cũng là dân nhảy nổi tiếng từ thuở còn đi học tại Hà Nội. Cấm nhảy đầm sẽ động chạm đến nhiều ông tai to mặt lớn. Trong một phiên họp của Ban chấp hành Phụ nữ Liên đới, vấn đề nhảy đầm được mổ xẻ cặn kẽ. Phiên họp này quy tụ rất nhiều quý bà "lừng danh". Một số ý kiến cho rằng chỉ giới hạn việc nhảy đầm mà không nên cấm tuyệt đối. Một bà tướng Tổng Thư ký của Phong trào Phụ nữ Liên đới lại "bảo hoàng hơn vua" đã yêu cầu "Bà Cố vấn" phải cấm triệt để. Bà Nhu vẫn lững lờ chưa quyết định hẳn, nhưng cuối cùng vẫn quyết định cấm nhảy.
Việc cấm nhảy đầm được nhiều "bà lớn" tán thành triệt để vì các đức ông chồng quý của các bà đều thuộc loại hảo ngọt lẫy lừng.
Thế nhưng cấm là một chuyện còn nhảy vẫn nhảy. Nhiều tướng tá vẫn "lén lút mở bar" ngay trong doanh trại hay tư dinh.
Ai đã ở Nha Trang vào những năm 1960-1961 đều biết rõ chuyện ông Đại tá chỉ huy trưởng Đồng Đế vẫn mở bar đều đều, lại cho sĩ quan hầu cận về Sài Gòn kiếm vũ nữ và bao dàn cả tuần.
Chuyện nhảy đầm lậu tại Nha Trang, Đà Nẵng cũng như Pleiku do mấy ông tướng tá cao cấp đỡ đầu đều lọt vô tai Tổng thống Diệm. Ông Tổng thống cố ý làm ngơ.
Nhờ những yếu tố nào mà bà Nhu tạo được uy quyền trên thực tế? Đơn giản nhất là nhờ sự khôn khéo tinh ranh và nhiều sáng kiến với một tiềm lực tinh thần mạnh mẽ trực giác, bà Nhu đã ảnh hưởng sâu xa trong đời sống của năm anh em trong gia đình từ Tổng thống Diệm đến Ngô Đình Thục và kể cả ông Ngô Đình Cẩn.
Ông Cẩn được coi là chống đối bà Nhu kịch liệt và chửi đổng chị dâu cũng không tiếc lời, nhưng ông Cẩn chỉ chửi "đổng" thế thôi. Trong gia đình ông vẫn chịu lép vế. Thí dụ trong việc lập Phong trào Phụ nữ Liên đới, ông vẫn bĩu môi khinh bỉ "Mấy con mụ đó mần được chi, chỉ ăn hại". Trước năm 1961, nhiều bà vợ của các ông lớn tại miền Trung cũng muốn lập Hội để có ăn, nhưng ông Cẩn ghét như vậy nên đành chịu.
Khi bà Nhu nhúng tay vào quyết định phát triển phong trào ra miền Trung… ông Cẩn đành chịu thua. Bà lại còn chỉ thị cho Huế, Đà Nẵng phải tuân theo ý bà. Bà rất coi thường ông Cẩn nhưng cũng chỉ để trong lòng.
Dịp ra Huế chủ toạ thành lập Phong trào là cả một việc trọng đại. Chung quy bà đã áp đảo được chú em chồng. Trước hôm đó, cả một đại đội phủ Tổng thống được gởi ra Huế để lo việc an ninh cho bà Cố vấn. Giới chức thẩm quyền toát mồ hôi vì phải lo tổ chức sao cho long trọng. Ông Cẩn trong lòng tức tối nhưng phải đành chịu và chính ông cũng phải đứng ra đôn đốc cho các giới chức lo liệu thực chu đáo. Điều nực cười nhất là hôm lễ khai mạc, bà Nhu như một nữ hoàng thì cậu Cẩn rụt rè khiêm tốn như một công tử miền quê có chút uy quyền. Trước đám đông ấy cậu Cẩn chẳng còn gì… khiêm tốn, bé nhỏ, nhọc nhằn. Trong khí đó từ cách đón tiếp đến chiếc ghế ngồi, qua ngôn ngữ và cử chỉ bà Nhu lấn át hoàn toàn chú em chồng.
Đây là lần đầu tiên ông Cẩn đành chịu khuất phục uy quyền của bà chị dâu, người mà ông Cẩn rỉ rả công kích nhiều khi dùng cả chữ “con mụ" và “lăng loàn” để chỉ.
Khi bà Nhu trở về Sài Gòn thì Phụ nữ Liên đới cũng theo bà đi luôn. Miền Trung vẫn là đất của ông Cẩn… Phụ nữ Liên đới chỉ được "phép" phát triển tại Nam phần và mấy tỉnh Cao nguyên.
Sở dĩ, trước mặt bà Nhu ông Cẩn phải chịu khuất phục vì bà ta đã biết sử dụng cái bề thế của bà chị dâu trong gia đình vốn khắt khe với những tôn chỉ lễ giáo. Còn Tổng thống Diệm thì như thế nào?
Điểm quan trọng sau đây đã giúp cho bà Nhu thành công trong công việc thuyết phục ông anh Tổng thống.
Thí dụ điển hình vẫn là những quan niệm về luân lý của bà Nhu. Quan niệm đó rất thích hợp với quan niệm và bản chất nho sĩ cũng như tu đức Thiên Chúa giáo trong con người của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Khi bà Nhu đưa ra dự án Luật "Bảo vệ luân lý" (lành mạnh hoá xã hội) thì trong gia đình họ Ngô hoàn toàn tán đồng và còn khích lệ. Nhưng báo chí và Quốc hội lên tiếng công kích, bình phẩm (tất nhiên là yếu ớt), Tổng thống Diệm lại cho rằng dư luận lầm lẫn vì có nhiều người ganh ghét bà Nhu mà tìm cách nói xấu gièm pha. Bà Nhu đã trình bày với ông anh Tổng thống như thế nào mà được Tổng thống dễ dàng chấp nhận và hết sức tán trợ.
Trước hết xin đơn cử một vài chi tiết đã thể hiện quan niệm luân lý và tâm tính bất thường của Tổng thống Diệm qua khía cạnh này. Dạo năm 1959 một thời đại "vàng son" của Hội bảo vệ luân lý do linh mục Hoàng Yến làm Chủ tịch. Linh mục Hoàng Yến tất nhiên không thể thoát khỏi những lý do "méo mó nghề nghiệp " qua quan niệm tu đức và luân lý giữa thế giới tu hành và xã hội ngoài đời. Linh mục Yến qua nhưng lần đi quan sát ngoài phố, chụp được một số ảnh tượng bán thân và khoả thân trưng bày tại mấy tiệm bán đồ điêu khắc và mỹ thuật, trong đó có mấy bức tượng được coi là hoàn toàn "loã lồ" trưng bày tại tiệm Mai Lĩnh, đường Phan Thanh Giản. Thêm vào đó còn cả một số hình đàn ông đàn bà, trai lẫn gái tắm chung ở một bể tắm (dĩ nhiên là mặc đồ tắm).
Đối với một người bình thường và qua những quan niệm bình thường trong đời sống thì những hình ảnh trên đây không có gì đáng chú ý. Tượng phụ nữ loã thể chỉ là một công trình của nghệ thuật. Trai gái tắm với quần áo tắm hở hang cũng là chuyện quá thông thường.
Nhưng nó lại trở nên quan trọng trước mắt một vị Linh mục Hội trưởng Hội bảo vệ luân lý. Linh mục Hoàng Yến làm một phúc trình dài kèm theo hình ảnh gởi lên cho ông Diệm.
Chỉ mới xem qua những tấm hình đó, ông Tổng thống đã đỏ mặt, bất thần nổi giận. ông dùng bút đỏ phê vào bản phúc trình "Ông Lương, cấm ngay". Nguyễn Lương lúc đó là Tổng giám đốc xã hội. Nhận được bản phúc trình trên ông Lương đã hết sức lo âu, không biết phải xử trí như thế nào. Ông đành hỏi ý kiến của một số người trong Phủ. Tất nhiên là không có một ý kiến nào khác hơn là tìm cách khôn khéo nhất để áp dụng lệnh của ông Tổng thống. Ý kiến được nêu ra như sau: ông Nguyễn Lương cho người đến một vài tiệm mỹ thuật như tiệm Thế Hệ nói khéo để họ thông cảm trưng bày một cách kín đáo bức tượng bán thân loã thể. Hai hôm sau ông Nguyễn Lương vào trình Tổng thống với hồ sơ đầy đủ để tỏ ra rằng đã tuân theo chỉ thị của thượng cấp.
Tổng thống Diệm lại vui vẻ gật đầu: " Ờ, ừ thôi được " Từ đó ông Tổng thống quên cả chuyện cấm trai gái tắm chung, cũng như chuyện cấm trưng bày tượng bán thân.
Với một quan niệm luân lý khắt khe và quá cổ như vậy lại có những phản ứng bất thường nên ông Diệm dễ dàng bị bà Nhu thuyết phục. Đây là một pha thuyết phục ông của bà Nhu do sĩ quan hầu cận kể lại (khi vào phòng Tổng thống trình bày việc gì thì luôn luôn phải có sự hiện diện của một sĩ quan hầu cận hay tuỳ viên).
Bà Nhu thuyết phục ông Diệm để ông chấp nhận Luật bảo vệ luân lý, đại cương như sau: Luân lý Việt Nam hiện nay đang suy đồi. Trẻ con thì hư hỏng, người lớn thì bài bạc sa đoạ… Một người như Tổng thống Diệm nghe nói như vậy thì tất nhiên là phải lo lắng cảm phục người em dâu nổi tiếng là văn minh tân thời nhưng lại tỏ ra thoát xác, biết nghĩ tới con đường thánh thiện. Bà Nhu biết điểm yếu của ông anh chồng… nên chỉ đưa ra đoạn mở đầu như vậy nhằm gây xúc động. Sau đó bà mới trình bày những biện pháp giải quyết.
Những biện pháp ấy đều lý tưởng cả. ông Diệm cho là em dâu có thành ý muốn xây dựng đất nước. Bà nhảy đầm thì rất tài hoa, mà nay thì lại đề nghị cấm nhảy thì ai mà không cho là hy sinh đáng quý. Ông Tổng thống đã tin tưởng như thế rồi thì đề nghị nào mà ông không chấp thuận.
Khi ông Tổng thống để hết mình ủng hộ dự Luật ấy thì còn ai dám chống đối. Một vài dân biểu lên tiếng công kích một số sai lầm và sự không thực tế của dự Luật này. Tuy nhiên sự công kích chỉ là dàn cảnh để tạo ra dư luận có vẻ dân chủ thế thôi.
Trong những buổi họp của Ban chấp hành Phụ nữ Liên đới bà Nhu trở thành một chiến sĩ tiên phong trong cuộc giải phóng phụ nữ. Còn thực tế có giải phóng không thì 9 năm qua đã trả lời đầy đủ. Tuy nhiên phải công minh mà nhận rằng bà Nhu đã làm được nhiều điều, dù làm theo chủ quan của bà. Chẳng hạn như vấn đề cấm triệt để thiếu niên không được uống rượu, hút thuốc lá, cấm hẳn bài bạc (trừ món tổ tôm được toà án cho là không thuộc loại đổ bác sát phạt). Bà Nhu có một ý kiến như thế này về giá trị thân xác đàn bà. Tưởng cũng nên ghi lại đây về việc cấm thi sắc đẹp của đàn bà, bà cho rằng “Thời Trung cổ người Tây phương trưng bày nô lệ tại phố cho bọn nô lệ xếp từng hàng cho nguời ta đến xem xét đánh giá như mua bán súc vật, con này mông to, con kia ngực nở con nọ giống tốt…Với những giá bao nhiêu. Thi sắc đẹp tuyển lựa hoa khôi của phương Tây xuất phát khởi thuỷ từ các cuộc mua bán nô lệ thời Trung cổ. Ở xứ ta không chấp nhận được cái trò đó".
Bà Nhu nói riêng với bà Lương Khải Minh: “Ăn mặc hở hang, để cả ngực cả đùi cho đàn ông họ nhìn ngắm rồi họ đánh giá, họ cho điểm làm như vậy ô nhục lắm, hạ thấp nhân phẩm của người phụ nữ ngang với nô lệ thời Trung cổ. Phụ nữ Á đông không thể chấp nhận được như vậy…". Cho nên ông Diệm cũng như ông Nhu và những người hiểu biết không đến nỗi nông cạn lắm đều cho là bà Nhu có thiện chí và sáng suốt. Do đó mới có vụ cấm luôn các cuộc thi sắc đẹp, tuyển lựa hoa khôi và kể cả thi lực sĩ khỏe đẹp. Bà Nhu luôn nhắc nhở "đàn ông họ ích kỷ lắm… Phụ nữ không thể là trò chơi cho họ mua vui được. Mãi dâm và gái nhảy là những việc ô nhục đồi bại nhất cho những người phụ nữ".
Giá như bà Nhu không phải là em dâu của Tổng thống đương nhiệm thì thiện chí và những cố gắng giải phóng của bà Nhu thật đáng ca ngợi.
Nhưng ở đây lại khác. Trong khi bà cố gắng hoàn tất dự Luật Gia đình cũng như dự Luật Bảo vệ luân lý thì trong gia đình từ thành đến tỉnh và nhất là trong giới thượng lưu đã đồn đại rất nhiều về những cái gọi là “lem nhem bê bối" thuộc đời tư của Bà. Dư luận thì nhiều lắm. Nhưng đâu là bằng cớ? Tuy vậy quần chúng đông đảo vẫn lập luận rằng "nếu không có lửa thì sao có khói". Rồi một số "phu nhân " vây bủa quanh bà xem phần đức hạnh cũng không có gì được bảo đảm cho lắm của bà. Quan trọng là chỗ đứng. Chỗ đứng của bà Nhu không thuận lợi cho mọi đề xướng cải cách của bà khi những cải cách đó hoặc còn quá sớm hoặc không phù hợp với tập quán cổ truyền. Dư luận thêu dệt rất nhiều về cuộc tình của bà với ông tướng Đôn… lại có dư luận cho rằng Nolting bị bà Nhu mê hoặc trong lưới tình dục. Tục ngữ có câu"ghét ai ghét cả đường đi lối về". Trong 9 năm qua với cử chỉ và ngôn ngữ của mình, bà Nhu đã làm cho nhiều giới và nhiều người "mếch lòng" thực. Cái dễ ghét rất giản dị vì tâm lý và truyền thống không ưa đàn bà múa may hay lợi dụng chức vị của chồng mà "lớn lối" - chỉ nguyên một chuyện sử dụng ngôn ngữ đao to búa lớn của bà đã làm cho người ta dễ ghét. Trong cái dễ ghét đó tất nhiên là do sự ghen tức nhau. Các ông thường bị ảnh hưởng của các bà. Các bà thấy bà Nhu như vậy nếu không có cơ hội được gần bà thì trở nên ghen ghét nói xấu. Ai nói xấu thì không đáng kể chứ đàn bà nói xấu nhau thì quả là một nghệ thuật qua khả năng sáng tạo và trí tưởng tượng. Nhiều câu chuyện "mê ly gay cấn " chung quanh con người bà Nhu hầu hết do một số phu nhân dựng đứng lên…rồi lan rộng ra dư luận và dư luận lâu ngày trở nên như là thực.
Tổng thống Diệm không được nghe những dư luận đó và chỉ nhận được những lời công kích bà Nhu qua việc làm của bà. Một số báo Mỹ tiết lộ bà Nhu có một gia tài đồ sộ tại Braxin (đồn điền café) và Thuỵ Sĩ. Tổng thống Diệm không tin vì ông vốn có thành kiến với báo chí Mỹ. Còn sự công kích Luật Gia đình cũng như Luật Bảo vệ luân lý ông đều cho là ganh tị phá hoại và do một số người có vợ nhỏ "dông dài ham chơi" nên cố ý phá bà Nhu.
Tóm lại, bà Nhu hiểu rõ tâm tính và cuộc đời của ông anh chồng. Bà lợi dụng ngay những đặc điểm đó để tạo ảnh hưởng với ông Diệm. Khi đã tạo được ảnh hưởng với ông Diệm…thì hàng bộ trưởng, tướng tá đối với bà chả có nghĩa lý gì cả. Tuy vậy, vì biết rõ tính ông anh, bà Nhu không bao giờ công khai bày tỏ một ý kiến nào về hoạt động của Chính phủ cũng như các nhân vật văn võ. Trước mặt ông Diệm, bà luôn tỏ ra rằng mình chỉ biết lo công việc của phụ nữ. Khi nào có đại biến như vụ tướng Hinh, vụ Bình Xuyên và cuộc đảo chính hụt 2-2-1960 bà Nhu mới nhảy vào vòng.
VỤ ÁN NGÔ ĐÌNH NHIỆM 7
Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2012 | 01:04
Chương 6: TRƯỜNG HỢP BÀ NGÔ ĐÌNH NHU
Chuyên mục
NGHI VẤN LỊCH SỬ