.
Latest Post
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỐI THOẠI VĂN HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ĐỐI THOẠI VĂN HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thật oan cho Nguyên Ngọc

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012 | 22:25


aVì không đến dự lễ Trao tặng Huân chương Độc lập cho mình năm 2000, có người nói “cái ông Nguyên Ngọc này buồn cười thật”. Nhưng Trần Đăng Khoa biết ông Nguyên Ngọc bị oan. Bài viết từng đăng trên báo Văn nghệ số 44 ra ngày 3/11/2007.  

GIÁO SƯ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH LÊN TIẾNG VỀ HỒI KÝ CỦA MÌNH

Written By kinhtehoc on Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011 | 00:31

Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh lên tiếng về việc hồi ký của ông bị đưa lên mạng.  Thụy Khuê
Bài đăng ngày 13/09/2008 Cập nhật lần cuối ngày 15/09/2008 10:46 TU
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh

"Tôi là người hoạt động trong lãnh vực văn hoá nghệ thuật và tôi đã từng chứng kiến nhiều cuộc tranh luận tư tưởng trong văn học, suốt trong mấy chục năm. Tôi cũng trực tiếp tiếp xúc với hàng loạt nhà văn, vì thế cũng biết nhiều chuyện. Những tư liệu ấy có thể phản ánh được nhiều phương diện của nền văn học Việt Nam hiện đại." ( Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh )

Tải xuống ở đây :


http://namdatviet.com/download_monthly/Hoi_ky_Nguyen_Dang_Manh.pdf

http://depositfiles.com/files/8130727


1. http://www.mediafire.com/file/wnifvahyynd/Hoi_ky_Nguyen_Dang_Manh.pdf

2. http://www.mediafire.com/?wnifvahyynd

talawas: Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được coi là nền móng mĩ học của giai đoạn văn học 1945 – 1975 và cả sau này. Học sinh hiện nay được học về chủ nghĩa ấy như thế nào?

NĐM: Nói thật là hiện nay không có ai công khai bác bỏ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nhưng người ta cũng không nói đến nó nữa, ngay cả sách giáo khoa cũng không nhắc đến.

talawas: Còn nền tảng thẩm mĩ chung cho văn hoá văn nghệ, vẫn tiếp tục là các nguyên tắc mĩ học của chủ nghĩa Mác – Lênin?

NĐM: Tôi thấy cái gì đúng thì tôi theo đó để viết. Bảo rằng tôi không viết theo mác-xít thì cũng không phải. Có những chỗ tôi vẫn theo mác-xít. Chỗ nào tôi thấy đúng thì tôi theo. Vì tôi quan niệm rằng Đổi mới thật ra là đổi sao cho đúng, trước kia viết sai, bây giờ phải viết lại cho đúng, khách quan, đúng quy luật của hiện thực, của đời sống, của văn học. Tôi cho đấy là Đổi mới thực sự. Quan niệm của tôi thực ra vẫn nhất quán, tác phẩm nào mà tôi cho rằng có giá trị thì trước đây tôi vẫn thấy nó có giá trị, nên tôi chọn đưa vào chương trình. Tôi không phải là người làm lí luận, lí thuyết. Phần lí luận văn học trong chương trình do anh Trần Đình Sử viết.

talawas: Ông có thể cho biết triết lí căn bản nhất của chương trình cải cách lần sau này là gì?

NĐM: Là làm thế nào cho học sinh có một phương pháp đọc hiểu được tác phẩm văn học. Nếu được thực hiện tốt, học sinh có thể tự mình nắm được những phương pháp, kĩ năng kiến thức, để tự mình hiểu được những tác phẩm trong chương trình và cả những tác phẩm cùng loại ngoài chương trình.

talawas: Triết lí ấy không tồn tại trong các chương trình từ xưa đến nay hay sao?

NĐM: Trước đó thì chưa có ý thức hẳn phương pháp ấy.Trước đây giáo viên cũng căn cứ vào chương trình để giảng cho học sinh, cũng phát huy tính tích cực của học sinh, nhưng trong sách giáo khoa chưa có những bài hướng dẫn tham khảo để học sinh tự mình nắm được phương pháp.

talawas: Trong chương trình mới, những công cụ nào được đưa thêm vào để thực hiện mục đích đó?

NĐM: Ngay cách đặt tên đã khác. Tên chương trình này là «Đọc hiểu văn học», chứ không gọi tên là «Giảng văn», nó muốn giúp học sinh sau khi học xong vừa có kiến thức, vừa có phương pháp để hiểu được tác phẩm văn học dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trung tâm của chương trình là vấn đề thể loại. Trước đây chương trình thiên về văn học sử theo trình tự thời gian, bắt đầu từ văn học dân gian, đến văn học trung đại, hiện đại v.v. Bây giờ chương trình vẫn không bỏ lịch sử văn học, nhưng tập trung hơn vào vấn đề thể loại, vì thế có xáo trộn về mặt lịch sử. Chúng tôi quan niệm muốn hiểu tác phẩm thì phải hiểu đặc trưng thể loại của nó, nên phải lấy thể loại làm trọng tâm. Chẳng hạn học sinh học một lèo về thơ trung đại, vì thơ trung đại có một thi pháp đặc trưng, từ nội dung đến hình thức. Điều này kéo dài từ Nguyễn Trãi, qua Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đến Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Trước kia học sinh không học như thế, mà phải học theo trình tự thời gian. Tất nhiên chương trình không hoàn toàn xoá bỏ trình tự thời gian, không thể học Nguyễn Khuyến trước Nguyễn Trãi được. Nhưng chẳng hạn truyện nôm của Nguyễn Du lại học sau thơ Nguyễn Khuyến, tức là có xáo trộn về mặt văn học sử. Nguyên tắc thứ hai của chương trình mới này gọi là nguyên tắc tích hợp. Nó phối hợp những tri thức về tiếng Việt, về lịch sử, về lí luận văn học, thậm chí cả về văn học nước ngoài tương ứng. Chẳng hạn học thơ Đường Trung Quốc cùng một lúc với thơ trung đại Việt Nam.

talawas: Trước kia không làm theo nguyên tắc tích hợp này?

NĐM: Trước kia giáo viên giỏi cũng làm thế, nhưng bây giờ tất cả giáo viên và học sinh phải có ý thức về phương pháp này. Thí dụ khi dạy về thơ trung đại thì phải liên hệ dến những tri thức về điển tích, ước lệ v.v. Hay khi nói về kịch Shakespeare thì có một bài lí luận về kịch để phối hợp. Tóm lại có hai nguyên tắc, một là lấy thể loại làm trung tâm, hai là nguyên tắc tích hợp, được thể hiện ngay trong cấu tạo của chương trình. Điều này cũng có tham khảo của nước ngoài. Có một điều là ở Việt Nam người ta kêu rằng chương trình như thế là quá nặng. Tôi thấy một số chương trình của nước ngoài còn phong phú hơn, nhưng ở Việt Nam cứ kêu nặng, cái gì cũng kêu nặng.

talawas: Với chương trình đã thay đổi như thế, phương pháp sư phạm của giáo viên có thay đổi không?

NĐM: Có chứ. Sách giáo khoa đã hướng dẫn cho học sinh tự đọc hiểu thông qua những câu hỏi, còn sách cho giáo viên thì hướng dẫn giáo viên thực hiện sách giáo khoa ấy.

talawas: Xin ông nói cụ thể hơn một chút: Một tiết dạy văn theo chương trình mới sẽ diễn ra khác với một tiết dạy văn theo cách giảng truyền thống như thế nào?

NĐM: Trong tương lai học sinh sẽ phải làm việc nhiều hơn và giáo viên sẽ phải hướng dẫn học sinh một cách thông minh hơn, khoa học hơn. Kèm theo sách giáo khoa lại có một bộ sách tuyển những tác phẩm mở rộng hơn, ngoài phạm vi của chương trình. Nhưng ngay cả sách giáo khoa cũng có nhiều chỗ chưa phải là hay lắm đâu, phải rút kinh nghiệm hoàn thiện dần, tôi tin là còn phải sửa đổi nhiều lắm.

talawas: Sửa đổi dựa trên cơ sở của những kết quả điều tra, hay có một số người nghĩ rằng cần sửa đổi là cứ sửa đổi?

NĐM: Tất nhiên phải dựa trên kinh nghiệm thực tế của việc dạy và học của giáo viên, học sinh. Chương trình và sách giáo khoa mới phải trải qua nhiều cuộc thực nghiệm của nhiều trường trong toàn quốc. Qua thực nghiệm chương trình và sách giáo khoa sẽ được sửa chữa trước khi ban hành chính thức. Ngoài ra còn phải tham khảo những cuộc cải cách giáo dục của nước ngoài. Tôi thấy nước nào cũng cải cách, thay đổi luôn, ba bốn năm một lần, nhiều nước như thế. Phương pháp dạy như trước không phát huy được tinh thần dân chủ trong học tập. Cũng phải nói thêm điều này: Lâu nay đối với chương trình và sách giáo khoa, Bộ giáo dục có nhược điểm này: Coi thường ý kiến và kinh nghiệm của hàng nghìn hàng vạn giáo viên, đồng thời rất sợ mấy tay viết báo hay một vài tổ chức nào đấy vốn không hiểu biết thật sự về chuyên môn và chẳng chịu nghiên cứu nghiêm túc gì cả.

talawas: Chương trình mới này có phát huy được tinh thần dân chủ không?

NĐM: Tự mình đọc hiểu là dân chủ. Giáo viên hướng dẫn học sinh để học sinh tự mình đọc hiểu được tác phẩm, kể cả tác phẩm ngoài chương trình. Trước đây học gì thi nấy, có những ông đã bị kỉ luật vì ra đề không khớp chương trình. Nhưng bây giờ chúng tôi mở rộng, chương trình chẳng hạn chỉ có ông Nguyễn Khuyến trong thơ trung đại, nhưng học sinh có thể đọc các tác giả khác. Sự mở rộng này rất có thể gặp khó khăn, nhưng chủ định của nhóm biên soạn là như vậy.

Nhưng thay đổi phải kèm theo cải cách thi cử thì mới có ý nghĩa, vì học trò học là nhằm vào thi cử. Thi cử thế nào thì học thế ấy. Đề thi hiện nay có nhiều cái không hợp lí. Nếu không cải cách thi cử thì chương trình cải cách này cũng không có ý nghĩa gì. Nếu thi cử vẫn làm theo lối cũ, thì chương trình này cũng không thực hiện được.

talawas: Thưa ông, thi cử do ai phụ trách?

NĐM: Cũng do Bộ Giáo dục, nhưng ở một bộ phận gọi là Vụ hay Cục khảo thí. Cái Vụ này mới sinh ra cách đây được một năm.

talawas: Còn trước đây?

NĐM: Do Vụ Phổ thông, trong đó có các bộ phận phụ trách cấp I, cấp II và cấp III.

talawas: Những người ra đề thi chắc cũng phải là chuyên gia hoặc hỏi ý kiến các chuyên gia?

NĐM: Họ có thể giao cho một số chuyên gia đề nghị đề bài. Nhưng họ chọn.

talawas: Dư luận xã hội hiện nay đang rất sôi nổi về đề nghị bỏ kì thi vào đại học...

NĐM: Bỏ kì thi vào đại học thì phải dựa vào cái gì, phải có một biện pháp tuyển lựa khác. Hiện nay tôi không thấy có một cách nào khác tốt hơn. Tôi rất nghi ngờ việc chọn lựa bằng kì thi tốt nghiệp phổ thông trung học, vì việc chấm thi ở các trường loạn lắm, làm sao tuyển chọn nghiêm minh được. Vẫn phải tổ chức thi vào đại học thôi.

talawas: Nhưng cuối cùng liệu những người biên soạn chương trình có cung cấp cho giáo viên và học sinh những đáp án nhất định trong cách đọc và hiểu một tác phẩm văn học không? Nếu những đáp án đó không khớp với cảm nhận, tư duy, phát kiến riêng của học sinh thì thế nào?

NĐM: Chương trình bây giờ mới đang thực nghiệm. Cũng không rõ giáo viên họ sẽ làm thế nào trong chuyện này. Tôi chắc là sau thời gian thực nghiệm cũng sẽ có một số sửa đổi cho tốt hơn. Nhưng đây là lần đầu, cũng chưa có kinh nghiệm thực tế. Những người soạn chương trình hiểu về mặt lí thuyết là như thế, và cũng đã cố gắng sử dụng những kinh nghiệm mà mình có được trong việc dạy học, nhưng đã chắc gì thực là tốt, phải chờ thực nghiệm xong rồi sửa lại. Hiện nay đang thực nghiệm lớp 10. Lớp 11 mới tạm viết xong, chưa thực nghiệm. Cái này cũng còn phụ thuộc vào năng lực của giáo viên. Chưa nói đến giáo viên vùng sâu vùng xa còn thiếu phương tiện, ngay cả giáo viên tại Hà Nội thôi cũng sẽ rất lúng túng. Nhưng tôi tin chắc là tương lai nhất định phải đi theo hướng ấy.

Tôi quan niệm trong văn chương không chỉ có một đáp số, một cách đọc, cho nên sách giáo khoa không được áp đặt, chỉ mang tính tham khảo, vì vậy trước kia (hồi cải cách năm 1989-1990) mới làm hai bộ sách giáo khoa. Cùng một chương trình nhưng có hai bộ sách. Một bộ do cán bộ giảng dạy Đại học sư phạm Hà Nội làm. Một bộ sách do nhóm của các anh trong Hội nghiên cứu, giảng dạy TP. **** làm. Hai bộ sách cùng song song tồn tại. Giáo viên có trước mặt hai bộ sách để chọn lựa. Cái nào hay thì họ dùng, họ hoàn toàn tự do trong sự lựa chọn. Bên toán còn có ba bộ khác nhau. Xin nói lại: Như vậy sách giáo khoa chỉ là tài liệu tham khảo, còn chương trình thì bắt buộc. Theo tôi hai bộ là còn ít, nên có ba bốn bộ. Nhưng những người thực hiện lại làm không đúng nguyên tắc tự do lựa chọn, trong thực tế là miền Nam dùng bộ của miền Nam, miền Bắc dùng bộ của miền Bắc. Như thế thành vô nghĩa lí. Lẽ ra trước mặt giáo viên phải có hai bộ để tự do lựa chọn. Nhưng các địa phương cho rằng hai bộ thì tốn kém qua, họ chỉ đạo như thế nào đó, thành ra mỗi nơi dùng một bộ. Thế là Quốc hội phải họp về việc này, đi đến quyết định chỉ dùng một bộ thống nhất toàn quốc. Tôi cho rằng lẽ ra Quốc hội phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia. Đằng này Quốc hội lại hiểu đây là chuyện chính trị: Vì sao một đất nước thống nhất lại có hai bộ sách giáo khoa, chia rẽ đất nước? Các ông ở Quốc hội không hiểu biết về chuyện này, mà Bộ Giáo dục lại không trình bày lí do, nên các vị đưa quyết định chỉ dùng một bộ sách vào Luật Giáo dục. Vì thế mới phải làm chuyện hợp nhất. Đang hai bộ, lại hợp thành một, rất là vớ vẩn, chúng tôi biết hợp lại sẽ không ra cái gì. Một điều lạ là một mặt Quốc hội chẳng hiểu gì về hoạt động của Bộ Giáo dục, mặt khác Bộ Giáo dục không hiểu sao cũng không dám mở miệng ra mà giải thích cho người ta hiểu. Mà các ông bộ trưởng đều là đại biểu Quốc hội cả.

talawas: Hiện nay dùng một bộ duy nhất?

NĐM: Vâng. Đấy là quyết định của Quốc hội, nằm trong Luật Giáo dục. Khi trên chỉ thị làm như thế, chúng tôi đã phát biểu là chắc chắn không ra gì. Nhưng vẫn phải làm.

talawas: Hiện nay nó «không ra cái gì»?

NĐM: Vâng, chất lượng yếu đi, mà biết trước như thế.

talawas: Lấy hai bộ gộp lại với nhau?

NĐM: Tác giả hai bộ họp lại viết chung thành một bộ .

talawas: Trước hết, hai bộ đó khác nhau ở chỗ nào?

NĐM: Sự hiểu biết và cách phân tích tác giả, tác phẩm khác nhau.

talawas: Còn tuyển chọn tác giả, tác phẩm có khác nhau không?

NĐM: Cái đó thì không. Chỉ cho phép tỉ lệ phần trăm khác nhau không đáng kể

talawas: Xin ông ví dụ sự hiểu của miền Nam và miền Bắc khác nhau như thế nào trong hai bộ sách?

NĐM: Cái đó là ở từng bài cụ thể. Ở đây tôi không nói chi tiết được. Vả lại phân tích đánh giá khác nhau một tác phẩm là chuyện bình thường. Chỉ có phân tích hay hay dở, sâu sắc hay hời hợt thôi.

talawas: Mỗi bên có một bộ riêng, nay hợp nhất thì phải thoả hiệp và phân công lại?

NĐM: Vâng, là sự thoả hiệp, như là chia mâm bát. Y như là mặt trận Liên Việt vậy.

talawas: Trước đây có hai bộ, đều hay, nay hợp lại bỗng nhiên không hay, hay chỉ có phía miền Bắc thấy là không hay?

NĐM: Phải nói thế này mới đúng: Bộ nào cũng có bài hay bài dở. Tác giả bộ nào cũng thấy như thế. Không ai chủ quan cho rằng chỉ có mình hay đâu. Chỗ này thì bộ này hơn, chỗ kia thì bộ kia hơn.

talawas: Vậy lẽ ra khi hợp nhất, phát huy được cái ưu tú của mỗi nơi, bộ sách còn phải hay hơn nữa chứ? Tại sao nó lại dở đi? Hay đây là số phận của tất cả các công trình tập thể?

NĐM: Có lẽ thế. Nói chung cứ chia đều mà viết, không phân biệt sở trường, sở đoản. Nguyên tắc hàng đầu không phải là nguyên tắc khoa học, mà là nguyên tắc tình cảm hay gì gì đó.

talawas: Như vậy vì nguyên tắc tình cảm của các Giáo sư bên trên mà đám học trò bên dưới chịu thiệt, đúng không ạ?

NĐM: Hợp nhất là học trò chịu thiệt. Nhưng cái đó không phải là chúng tôi quyết định

talawas: Như bản thân ông, nếu thấy một đồng nghiệp không đủ thẩm quyền chuyên môn để viết một phần nào đó, ông có gạt chuyện tình cảm riêng tư sang một bên để phản đối?

NĐM: Nhưng có phải một mình tôi đâu. Những ông khác lại cho ông kia là hơn thì sao.

talawas: Không có bỏ phiếu tín nhiệm ư?

NĐM: Làm gì có bỏ phiếu.

talawas: Các Giáo sư đều biết rằng hàng chục triệu học trò sẽ học theo bộ sách này...

NĐM: Nhưng không thể có bỏ phiếu. Chỉ có trao đổi, nhân nhượng, chẳng ai dám áp đặt ai. Mình nói ý mình thì thành ra chủ quan. Tôi nhấn mạnh ở đây: lỗi là ở chủ trương hợp nhất hai bộ sách giáo khoa.

talawas: Ngày xưa trong thời tem phiếu, chỉ vì quần đùi và áo may ô mà các nhà nghiên cứu khoa học cũng bỏ phiếu sát sàn sạt, đếm từng lá phiếu rất chi li...

NĐM: Chuyện này rất tế nhị. Mỗi người có chủ quan của mình, cuối cùng phải nhân nhượng. Người khác thế nào tôi không biết, riêng tôi, tôi biết trước là chất lượng sẽ sút kém. Tôi cũng đã phát biểu như vậy, có ba bốn bộ sách thì tốt hơn nhiều, nhưng ý kiến của tôi không được chấp nhận.

talawas: Nhưng nếu miền Nam một bộ, miền Bắc một bộ, và khi ra đề thi vào đại học thì không thể cho miền Nam một đề riêng, miền Bắc một đề riêng mà vẫn phải có một đề thi thống nhất, một đáp án thống nhất cho cả nước. Như vậy sẽ dẫn đến nguy cơ Đàng Trong hay Đàng Ngoài nắm đề thi, đáp án thì Đàng đó chiếm ưu thế.

NĐM: Đấy là cái sai của các địa phương. Như đã nói, lẽ ra trước mặt giáo viên phải có cả hai bộ, nhưng cuối cùng chỉ có một bộ. Bây giờ phải thực hiện lại, phải sửa sai, theo tôi phải trở về với hai bộ hoặc nhiều hơn nữa.

talawas: Tóm lại hiện nay chúng ta có một bộ sách giáo khoa hợp nhất, dở hơn hai bộ vốn có?

NĐM: Vâng. Nhưng với chương trình cải cách mà ông Sử đang phụ trách, lại làm hai bộ, nhưng trên chưa duyệt nên chưa biết thế nào. Luật Giáo dục vẫn quy định chỉ có một bộ, chưa thay đổi.

talawas: Nhưng không phải là một bộ cho miền Nam và một bộ cho miền Bắc?

NĐM: Trước kia cũng không phải một bộ cho miền Nam một bộ cho miền Bắc. Hiểu như thế là sai. Như bản thân tôi hồi ấy được mời viết cả hai bộ. Bây giờ cũng vậy. Hai bộ, viết khác nhau, do tài năng, năng lực, cách thẩm văn khác nhau mà viết khác nhau. Cốt là khác nhau. Tất nhiên không phải là cố tình khác nhau mà do năng lực tự nhiên khác nhau của hai hội đồng biên soạn khác nhau.

talawas: Trở lại với chương trình cải cách mới biên soạn, có gì khác trước về lựa chọn tác giả, các nền văn học, các trào lưu văn học của thế giới? Có những điểm nhấn nào mới không?

NĐM: Hướng lựa chọn văn học nước ngoài trong chương trình này thì nói chung không có gì thay đổi, chỉ có phương pháp là khác. Trước kia trong chương trình vẫn có văn học Pháp, văn học Nga, có Ilias và Odyssee, thơ Đường, tiểu thuyết Minh–Thanh, có kịch của Shakespeare, chủ yếu là văn học cổ điển cho đến thế kỉ 19. Còn văn học thế kỉ 20 thì có García Marquez, Hemingway, bây giờ vẫn tiếp tục, có thêm Kafka, thơ hai-ku của Nhật.

talawas: Nhưng đó không phải là trọng tâm của chương trình cấp III?

NĐM: Vâng, văn học nước ngoài không phải là trọng tâm.

talawas: Còn những phong trào, trường phái văn chương quan trọng của Phương Tây, ít nhất là từ Décadence, chuyển sang Avant-garde và những phong trào tiếp theo?

NĐM: Cái đó thì không. Nhưng người ta không dùng những chữ như văn học suy đồi, tư sản v.v. để nói về văn học các nước không xã hội chủ nghĩa nữa.

talawas: Các đánh giá về văn học Phương Tây như trong cuốn Phương Tây văn học và con người của Giáo sư Hồ Tôn Trinh, tác phẩm được giải thưởng ****, có ảnh hưởng hay quy định cách giới thiệu văn học nước ngoài trong chương trình dạy văn ở phổ thông không?

NĐM: Phần lớn chuyên gia Việt Nam về văn học Phương Tây không cho sách của ông Hồ Tôn Trinh là có giá trị gì lắm.

talawas: Nhưng một giải thưởng như giải thưởng **** mang ý nghĩa xác định một giá trị...

NĐM: Chung quanh giải thưởng lắm chuyện lắm, phức tạp lắm. Còn dư luận trong giới thì không coi đó là một uy quyền trong khoa học.

talawas: Ở phương Tây những người trực tiếp viết sách giáo khoa môn Văn ở trường phổ thông không phải là những nhà phê bình nghiên cứu hàng đầu, họ là những nhà sư phạm. Vì thế nhìn vào chương trình môn Văn của họ thấy những thao tác sư phạm rõ rệt. Vấn đề không phải chỉ là chọn và giới thiệu một tác phẩm xứng đáng, mà vấn đề là giúp học sinh có một con đường phù hợp ở từng lứa tuổi đến với những tác phẩm ấy. Còn những nhà nghiên cứu phê bình hàng đầu thì không làm những việc như viết sách giáo khoa cho học trò. Ở Việt Nam, dường như toàn bộ đội ngũ các nhà phê bình nghiên cứu hàng đầu được huy động vào việc viết sách giáo khoa.

NĐM: Ở Việt Nam hầu hết những người viết sách giáo khoa đều thuộc khoa Văn ở các Trường đại học Sư phạm. Bên Đại học Tổng hợp hay ở các Viện chỉ có ít người tham gia. Họ giao cho các Trường đại học Sư phạm làm việc này, và khi thẩm định sách có giáo viên phổ thông tham gia. Nhưng theo tôi, trình độ giáo viên phổ thông hiện nay nói chung không đủ để viết sách giáo khoa đảm bảo đầy đủ tính khoa học.

talawas: Ông có lường tới khả năng rằng mình có thể nhầm lẫn, và sự nhầm lẫn của mình có thể gây tác hại cho rất nhiều thế hệ không?

NĐM: Làm sao tránh được nhầm lẫn, vì mỗi người có chủ quan, hạn chế của mình. Nhưng ngoài cá nhân những người soạn sách, còn có các hội đồng góp ý, rồi thực nghiệm rút kinh nghiệm.

talawas: Quyết định của cả một tập thể ấy có thể nhầm lẫn không?

NĐM: Có thể chứ.

talawas: Vậy ít nhất những hội đồng ấy có nghĩ đến một cánh cửa sau, một độ mở nhất định?

NĐM: Khi chấp nhận là có thể nhầm lẫn tức là có độ mở rồi, nhưng chắc độ mở cũng không lớn lắm đâu.

talawas: Tại các nước Đông Âu cũ, sách giáo khoa, nhất là các sách Văn và Sử hoàn toàn không được dùng nữa sau khi chế độ cũ sụp đổ...

NĐM: Ở Việt Nam mình thì không quan niệm như vậy. Và làm gì có sự sụp đổ.

talawas: Năm 1945 hay năm 1954, khi chế độ ở Việt Nam thay đổi thì sách giáo khoa cũng được thay đổi. Và học sinh ở miền Nam trước năm 1975 học những sách giáo khoa khác, sau 1975 học những sách khác. Điều đó không chỉ xẩy ra trong giáo dục, mà ở mọi lĩnh vực. Cứ chế độ nào lên là tất cả những gì thuộc về trước nó và khác nó đều bị tiêu hủy, thậm chí cả đền đài miếu mạo cũng chung số phận...

NĐM: Không, ở Việt Nam có nguyên tắc kế thừa.

talawas: Sách giáo khoa cũ của miền Nam trước 75 có được kế thừa không?

NĐM: Chủ yếu kế thừa sách giáo khoa của miền Bắc.

talawas: Xin phép ông hỏi một câu hơi liều lĩnh: Ông có nghĩ tới khả năng rằng một lúc nào đó - chẳng có gì là không thể xảy ra - chế độ hiện hành cùng với đường lối và quan niệm văn học của nó không còn hiệu lực nữa, lúc ấy toàn bộ sự nghiệp mà ông theo đuổi, những bài viết của ông trong sách giáo khoa hiện nay có thể bị bỏ đi, không để lại dấu vết gì trong lịch sử?

NĐM: Tôi không nghĩ đến khả năng ấy. Theo quan niệm của tôi thì cũng không nhất thiết phải thay đổi hẳn như thế, không đến nỗi phải vất đi hết cả đâu.

talawas: Chúng ta đã từng hành động như vậy. Có những tác giả rất xuất sắc của nền văn học miền Nam trước 75 chỉ vì sự thay đổi của chế độ mà bị xoá sổ, vậy rất có thể chuyện đó lại xảy ra, nếu biện chứng lịch sử muốn như vậy?

NĐM: Cái này phải do quan niệm về giá trị. Tôi không cho rằng văn học miền Nam trước 75 là hay lắm đâu, họ quá sùng bái tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, mà văn Tự Lực Văn Đoàn là thứ văn sáo mòn, nhất là văn của những tiểu thuyết luận đề. Chính Nhất Linh sau này cũng tự thấy như thế. Những sách của ông Thanh Lãng, tôi đánh giá rất thấp về mặt khoa học. Chương trình của miền Nam trước 75 có gì là hoàn mĩ đâu. Không phải là bỏ đi hết, nhưng không coi đó là hoàn mĩ mà phải đi theo. Có những thứ thống nhất cho cả miền Nam và miền Bắc. Không nên đối lập cực đoan như thế.

talawas: Có một dư luận cho rằng những người tham gia soạn thảo sách giáo khoa đuợc hưởng nhiều quyền lợi kinh tế, và ngành giáo dục là môt bộ máy tham nhũng không lồ. Việc thay đổi sách giáo khoa thường xuyên là một cách “kiếm công ăn việc làm”?

NĐM: Đó là một sự vu khống trắng trợn, khốn nạn. Tôi không có thẩm quyền nói về những chuyện của ngành, của Bộ, tôi chỉ có thể nói về những người soạn sách giáo khoa. Nếu tính nhuận bút theo số bản in thì kinh khủng lắm, vì năm nào cũng in lại hoặc in mới hàng chục vạn cuốn sách. Nếu tính theo kiểu ấy thì chúng tôi đã thành tỉ phú. Các nhà xuất bản sách giáo khoa bây giờ là giàu nhất nước, có đầu ra khổng lồ, lớn nhất là nhà xuất bản Giáo Dục. Chắc họ thu tiền cũng lớn, nhưng tiền ấy chắc phải nộp lên Bộ, nộp lên nhà nước. Làm gì có chuyện cá nhân người nào vớ được món bở thế.

talawas: Ông có thể đưa một con số làm ví dụ?

NĐM: Nhuận bút tính theo kiểu khác, tính theo tiết. Viết bài cho một tiết dạy thì được 300.000 đồng. Chẳng hạn những bài khái quát về một tác giả dạy trong một tiết thì được tính là bài của một tiết. Hoàn toàn không tính theo tirage.

talawas: Ông viết tổng cộng bao nhiêu tiết?

NĐM: Không nhiều lắm, tổng số khoảng mười mấy tiết. Tôi có một bài khái quát về toàn bộ lịch sử văn học Việt Nam, bài đó dạy trong một hay hai tiết. Ngoài ra, có các bài khái quát về Xuân Diệu, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Ái Quốc - ****, mỗi bài một tiết. Những bài trích giảng thì thơ một tiết, văn xuôi hai tiết. Người nào viết cho học sinh phần nào thì cũng viết sách hướng dẫn giáo viên phần ấy, nhuận bút cũng tính như vậy. Còn những hợp đồng những dự án bạc tỉ như thế nào ở trên Bộ thì tôi không biết.

talawas: Trở lại việc ông Trần Mạnh Hảo phê bình sách giáo khoa...

NĐM: Trần Mạnh Hảo là một hiện tượng khá đặc biệt. Trong các góp ý của anh Hảo có một số ý kiến đúng, thường là về một vài chú thích, hoặc câu hỏi hướng dẫn, nói chung ở phạm vi nhỏ, vụn vặt. Còn những ý kiến ở phạm vi lớn hơn, theo tôi, hầu hết là sai, không chính xác, viết theo lối cố tình xuyên tạc, cắt xén, quy kết, chụp mũ, phóng đại. Phần lớn giáo viên các trường phổ thông không đồng tình với anh Hảo, nhất là các giáo viên giỏi, nhưng một bộ phận trong giới báo chí thì rất khoái đăng bài của anh Hảo, có lẽ cũng vì thị hiếu của công chúng thích xem chuyện cãi nhau, đấu đá, vì thế báo bán chạy hơn. Ngoài ra có thể cũng có tâm lí đố kị nào đó với giới đại học. Nhưng bây giờ người ta cũng bắt đầu chán Trần Mạnh Hảo. Chán rồi.

talawas: Ngoài những sự “hấp dẫn” như ông vừa nói, thông điệp căn bản của Trần Mạnh Hảo trong các phê bình đó là gì?

NĐM: Đó là thông điệp nhân danh đường lối, lập trường cách mạng của Đảng để phê phán và quy kết chính trị những người khác. Nhưng ai cũng biết anh ta đã từng chửi Đảng rất ác.

talawas: Và khi đáp lại Trần Mạnh Hảo, dường như các giáo sư cũng dùng những quan điểm, đường lối chính thống để lập luận và bảo vệ mình...

NĐM: Phần đông chúng tôi không trả lời. Một số bài đáp lại thì tranh luận về những chi tiết sai hay đúng. Còn đối với việc chụp mũ chính trị thì chẳng ai cần chứng minh. Tranh luận với Trần Mạnh Hảo vô nghĩa lắm.

talawas: Khi bị Trần Mạnh Hảo quy chụp chính trị, các giáo sư cũng không bị phiền hà rắc rối?

NĐM: Nhìn chung là không. Nhưng tất nhiên các nhà xuất bản cũng sợ. Nghe thấy chụp mũ chính trị thì chưa biết thế nào, nhưng cũng muốn tránh rắc rối (thực ra họ sợ một cái gì đó đằng sau Hảo), chẳng hạn hai bài của tôi đã bị thay bằng hai bài của anh Hà Minh Đức cũng do sự phê bình của Trần Mạnh Hảo. Sau khi thay xong, ông Bộ trưởng lúc đó là Trần Hồng Quân có gọi tôi lên để thông báo, chứ không phải để hỏi ý kiến. Hôm đó tôi có phản đối, bác bỏ những ý kiến phê bình của Trần Mạnh Hảo. Nhưng đó chỉ là trong cuộc nói chuyện riêng với ông Trần Hồng Quân, ông ấy không phải là người quyết định việc này. Trong sách giáo khoa mới đang biên soạn, hai bài này lại được lặng lẽ đưa vào, hay có thể gọi là được khôi phục lại.

talawas: Còn sự đánh giá của các nhà chức trách trong giáo dục về Trần Mạnh Hảo?

NĐM: Như tôi đã phát biểu trên báo Ngày Nay, công trình của tôi bị anh Trần Mạnh Hảo phê phán, nhưng Tạp chí Cộng Sản lại công bố bài viết của tôi y như thế và dịch ra tiếng Anh. Không thể bảo Tạp chí Cộng Sản là không chính thống, và cũng không thể bảo Bộ Giáo dục là không chính thống.

talawas: Như vậy là có nhiều luồng chính thống xung đột nhau?

NĐM: Tôi không nói là xung đột, nhưng có khác nhau. Đây là sự khác nhau giữa hiểu văn và mù văn. Hiện nay người mù văn hơi nhiều đấy. Giải thưởng khoa học nhà nước do ông Chủ tịch nước kí cũng là chính thống chứ. Cuốn sách của tôi được tái bản đến lần thứ tư, chứng tỏ nó cũng được chính thống công nhận, vì có phải cứ muốn tái bản là được đâu, phải có Cục xuất bản quyết định. Cục xuất bản cũng là chính thống. Trong cuốn sách của tôi về ****, tôi phân biệt thơ của tác giả này thành hai loại, một loại chỉ một thứ văn vần như kiểu vè, dành cho những độc giả bình dân, vì ở đó tác giả không cốt làm nghệ thuật. Nhưng đối với đối tượng có văn hoá cao, thí dụ như Bùi Bằng Đoàn, Đinh Chương Dương, thì lại làm thơ nghệ thuật, chẳng lẽ lại tặng các vị nhân sĩ trí thức ấy một bài vè? Hoặc khi làm thơ cho chính mình thưởng thức như trường hợp Nhật kí trong tù thì ca vè làm gì, phải làm thơ nghệ thuật, thơ chữ Hán, theo kiểu Đường-Tống. Nhưng nhiều người phê phán rằng tôi hạ thấp thơ ****, vì họ quan niệm thơ nào của Bác Hồ cũng hay cả, đều là nghệ thuật hết. Tôi nhắc lại: đối với ****, làm thơ là một hành vi chính trị, với đối tượng chính trị này thì thơ nghệ thuật có tác dụng; với đối tượng chính trị kia thì ca vè giản dị, hình thức dễ dãi mới có tác dụng. Xuất phát điểm vẫn là tuyên truyền chính trị. Thời **** ở Pháp viết bằng tiếng Pháp, đối tượng chính trị là người Pháp, nên cần viết theo nghệ thuật hiện đại, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp hoặc một số truyện ngắn bằng tiếng Pháp... khá hay.

talawas: Ông là một nhà nghiên cứu, ông có cho rằng văn học hiện nay tại Việt Nam có khuynh hướng trở về giai đoạn trước Đổi mới không?

NĐM: Hiện nay các tác giả văn học Việt Nam đều đang tìm tòi. Về văn xuôi có một số tìm tòi có giá trị, nhưng về thơ thì tuy đổi mới khá mạnh dạn, nhưng thành tựu còn nghèo nàn, hầu như chưa có gì. Hoàng Cầm có một số bài thơ được, gợi linh hồn của đồng quê Kinh Bắc, tôi gọi đó là những bài siêu thơ. Ở những bài khác, Hoàng Cầm tuy có đủ các vật liệu để gọi hồn Kinh Bắc, có đủ váy, yếm, địa danh, hội hè, đánh vật... nhưng hồn không lên, chỉ là bày vẽ các vật liệu, chỉ là cái xác Kinh Bắc mà thôi.

talawas: Còn thành tựu của ngành lí luận phê bình?

NĐM: Ngành lí luận có du nhập một số lí thuyết Phương Tây, không còn bó hẹp trong lí thuyết Trung Quốc, Liên Xô như trước, đưa ra được một số khái niệm mới, hệ hình mới. Nhưng phê bình hiện nay đang xuống cấp nghiêm trọng. Bây giờ nhiều người viết phê bình văng mạng, động cơ cá nhân, khoe chữ, khoe kiến thức, không có tìm tòi gì thực sự. Dư luận nói chung cho rằng tình hình văn nghệ Việt Nam hiện nay đang xuống cấp.

talawas: Ông có được mời vào Hội đồng Lí luận–Phê bình trực thuộc Trung ương Đảng mới được thành lập...

NĐM: Không. Tôi không được tín nhiệm.

talawas: Hội nghị Lí luận–Phê bình tại Thành phố **** vừa rồi cho rằng Lí luận – Phê bình hiện nay là một mặt trận đã bị vỡ, cần có một ban chỉ huy, ban trực chiến để chỉ đạo, uốn nắn lại.

NĐM: Tôi không biết, tôi không được thông tin gì về Hội nghị này, lúc ấy tôi đang ở nước ngoài. Những người phát biểu trong Hội nghị như Trần Thanh Đạm, Trần Mạnh Hảo, Vũ Hạnh, Anh Đức là những người tôi không có tin tưởng gì hết, nhưng vì không dự nên tôi không biết ý kiến cụ thể của họ như thế nào.

talawas: Theo ông để làm phong phú quang cảnh giải thưởng văn học Việt Nam có nên thành lập các giải thưởng khác ngoài giải thưởng không có nhiều uy tín lắm của Hội Nhà văn Việt Nam không?

NĐM: Nếu có điều đó thì rất hay, nhưng Hội đồng giám khảo phải đứng đắn, công minh, vì lợi ích của nền văn học đất nước. Hiện nay Trường đại học Sư phạm có giải thưởng Nguyễn Tuân cho sinh viên giỏi.

talawas: Trong mọi giai đoạn văn học, thường có một số nhân vật được coi là những uy tín lớn, Nguyễn Tuân từng là một người như thế, Trần Dần, Nguyên Ngọc cũng như vậy... Tuy không được chính thức bầu làm „ngự sử văn đàn“, nhưng tiếng nói của họ có giá trị lớn trong văn giới. Thế hệ trẻ cũng thường xuyên lắng nghe họ. Theo ông trong đời sống văn học hiện tại, chúng ta có những uy tín nào như vậy, những người có thể thuyết phục bằng toàn bộ sự nghiệp và đời sống của mình chứ không bằng chức quyền hay thế lực?

NĐM: Theo tôi Tô Hoài, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Hiến... là những người có ý kiến đứng đắn, đáng nghe, nhưng nói chung chỉ là trao đổi miệng thôi, không chính thức trên báo chí.

talawas: Xin cám ơn Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh.



Nguồn : © 2004 talawas  , x-cafe

Hồi kí Nguyễn Đăng Mạnh - Về Tố Hữu

Hồi kí Nguyễn Đăng Mạnh

Tôi có đọc được tập hồi kí của Gs Nguyễn Đăng Mạnh, bản chưa in (và chắc sẽ khó in) lưu hành ở dạng pdf. Ai muốn download tôi chỉ dùm cho chỗ download. Cuốn hồi kí tiết lộ nhiều điều thú vị về các văn nghệ sĩ. Chẳng biết bao nhiêu là thật và bao nhiêu là giả, bởi vì tác giả nhiều khi viết rằng nghe người này kể lại, và “người này” lại nghe người kia thuật qua. Nhưng có vài đoạn đọc vui vui.
===
Về Tố Hữu:
Tôi đã nghe Hoàng Ngọc Hiến thuật lại về Tố Hữu trong cuộc họp nhà văn đảng viên hồi tháng sắu năm 1979. Nguyên Ngọc trình bầy bản đề cương chống Mao-ít. Tố Hữu đã quạt cho Nguyên Ngọc một trận, cho đây là hiện tượng “ngược dòng”, ông có cách nói mỉa mai rất ác. Nhân thấy Nguyên Ngọc, người thấp, nhân làm đổ cái micro trên bàn chủ tịch đoàn, ông nói: “Cái bục này đối với tôi hơi cao, đối với anh Nguyên Ngọc thì cao quá!”. Ông còn đến vuốt râu Nguyên Hồng: “Để râu sớm quá đấy, để trốn họp chi bộ chứ gì!”. Gần đây Kim Lân còn cho tôi biết, hôm ấy, Tố Hữu đến chỗ Kim Lân, nói: “Dạo này viết ít quá đấy!”. Kim Lân buột miệng nói: Bác lại phê bình em rồi!”. Có vậy thôi mà nghĩ sợ quá. Kim Lân nói: “Tôi nhớ trong truyện Tam quốc, có hai anh bạn thân, sau một anh làm to, anh kia đến chơi, nói suồng sã về những kỉ niệm thuở hàn vi. Sau bị tay kia cho người đuổi theo thủ tiêu – Sợ quá!”.
Năm 1986, Đại hội Đảng lần thứ VI. Tố Hữu mất hết mọi chức vụ. Tự tột đỉnh vinh quang tụt xuống đất. Đau lắm! Từ Sơn đến chơi thấy nhà như có tang. Ông nói với Từ Sơn: “ Chúng nó tiếc gì mà không cho mình làm cố vấn!”. Rồi kéo Từ Sơn ra ngoài vườn như sợ có kẻ nào nghe trộm: “Có gan lên chiến khu làm cách mạng lại không?” Đúng là cay cú đến mức điên rồ!
Tố Hữu rất ghét thi hoa hậu. Ông nói với Hoàng Điệp, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin: “Thi hoa hậu để khoe mông khoe đùi chứ gì! Làm như thế những phụ nữ xấu người ta tủi. Sao không thi bắn súng?” Tất nhiên Tố Hữu rất ghét Gooc bachốp. Chị Tố Nga, vợ Hoàng Ngọc Hiến, bắt chước giọng Huế của ông rất vui: “Miềng có Hồ Chí Minh của miềng chứ! Thấy người ta chốp chốp, cũng chóp chóp”.
Những năm cuối đời, ở Tố Hữu, có chuyện này cũng lạ: thường phủ nhận những điều mình đã nói, đã làm. Trong cuốn Chân dung và đối thoại, Trần Đăng Khoa nói đến chuyện Phù Thăng một thời bị qui chụp chính trị rất nặng. Khoa cũng thuật lại cuộc phỏng vấn Tố Hữu về việc sáng tác bài Hoan hô chiến thắng Điện Biên. Tố Hữu nói, không hề biết chuyện Phù Thăng, còn những điều Trần Đăng Khoa hỏi ông về bài Chiến thắng Điện Biên là bịa. Thực ra Tố hữu từng viét bài phê phán Phù Thăng, còn về cuộc phỏng vấn ông về bài Chiến thắng Điện Biên thì Khoa nói với tôi: “Em có ghi băng hẳn hoi, đâu có bịa”
Về Lê Đức Thọ:
Nguyễn Khải nói về uy quyền ghê gớm của Lê Đức Thọ một thời. Anh chứng kiến Sáu Bắc (Lê Đức Thọ) tiếp Sáu Nam (Lê Đức Anh). Hôm ấy, Thọ gọi một số văn nghệ sĩ đến hỏi chuyện. Thọ đang tiếp khách. Bọn Khải phải ngồi đợi ở phòng bên cạnh. Lát sau, khách ra về. Hoá ra khách là lê Đức Anh. Nguyễn Khải thấy Lê Đức Anh đi ra, cứ đi giật lùi, giật lùi ra mãi giữa sân mới dám quay đít lại. Thọ tiếp chúng tôi. Đúng lúc ấy thấy Phạm Hùng đi sang. Hùng đề nghị gặp Thọ một lát. Thọ phẩy tay: Để lúc khác nhé, giờ đang bận tiếp khách văn chương”. Thọ coi Hùng chẳng là cái gì, tuy Hùng lúc đó là thủ tướng, thay Phạm Văn Đồng ”.
“Nói chung cộng sản coi văn nghệ sĩ như rác. Lê Duẩn coi Tố Hữu cũng chỉ như một con hát. Nhưng lại sợ văn nghệ. Vì chỉ dùng tuyên truyền, dùng nước bọt mà giành được nước. Chỉ nói, có làm gì đâu. Nói đủ cả, chẳng làm gì. Thí dụ, cứ nói phê bình tự phê bình mà chưa bao giờ phê bình tự phê bình cả. Có dám nói thật đâu mà phê bình tự phê bình. Chỉ toàn đào tạo gia nhân, đầy tớ, bọn nịnh hót. Sợ văn học cũng vì thế. Vì văn nó nói sự thật, nó lật tẩy. Rất sợ biểu tượng hai mặt. Chỉ đề cao văn tuyên truyền, đề cao vè. Thật ra bọn nhà văn nói chung nhát, không dám chống chế độ đâu!”.
Về Chế Lan Viên:
“ Chế Lan Viên một thời, dựa thế Tố Hữu cũng hách lắm. Tô Hoài gọi là thằng nặc nô của đảng. Hồi chỉnh huấn văn nghệ sĩ, Chế Lan Viên làm tổ trưởng, nói với Nguyễn Tuân: ông tưởng ông to lắm à? Tôi phụ trách ông kia mà! Họp chấp hành, ý kiến Chế Lan Viên là quyết định. Thí dụ, ban chấp hành bàn có nên kết nạp Phan Quang không? Mọi người chờ ý kiến của Chế Lan Viên. Chế lan Viên đi đái vào, nói: “Thằng Thép Mới nó còn ở ban chấp hành được thì thằng Phan Quang sao không cho vào hội được!”. Ai cũng gọi là thằng tuốt; Thằng Nguyễn Đình Thi, thằng Tô Hoài, thằng Hoàng Trung Thông, chẳng sợ ai cả. Không thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên. Phải về nhà mới nghĩ ra cách bác lại, nhưng hôm sau, không còn lý do để tranh cãi nữa, vì lão ấy lại nói chuyện thân mật”.
“Nhưng Chế lan Viên chết rất khổ. Vũ Thị Thường phục vụ rất mệt. Gần chết hay quát tháo vợ con. Vũ Thị Thường nói chỉ thèm được ngủ, khi Chế lan Viên chết, việc đầu tiên là ngủ bù một giấc, dạy mới có sức mà khóc”.
Về Nguyễn Tuân
Tiếp xúc nhiều với Nguyễn Tuân, tôi thấy ông không nói yêu ai, mến ai bao giờ. Điều này trái hẳn với Xuân Diệu. Qua các bài viết của ông, tôi biết ông rất quý Ngô Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Văn Bổng, Lý Hải Châu... Quý nhưng không thích nói ra miệng. Theo anh Lý Hải Châu, ông cũng rất quý bác sĩ Trần Hữu Tước. Khi Trần Hữu Tước mất, ông nói: “Sao những người tử tế thì chết, mà mấy thằng đểu giả mất dạy thì cứ sống mãi!”.
Những người ông ghét khá nhiều. Theo tôi được biết, ấy là : Như Phong, Chế Lan Viên, Hoàng Trung Thông, Phùng Bảo Thạch, Hoài Thanh, Vũ Đình Liên, Vũ Ngọc Phan, Bùi Huy Phồn, Vũ Đức Phúc, Nam Mộc, Phan Cự Đệ, Anh Thơ, Huy Cận, Hoàng Văn Hoan, Trường Chinh ... Nhưng theo tôi, chỉ kể trong số người viết văn, ông ghét nhất ba người: Như Phong, Hoàng Trung Thông và Chế Lan Viên.
===
Để ngày mai tôi trích ra vài đoạn còn “ác liệt” hơn nữa.
NVT
Đây là địa chỉ để download: http://kazenka.googlepages.com/Hoi_ky_Nguyen_Dang_Manh.pdf

XUNG QUANH HỒI KÝ - NGUYỄN ĐĂNG MẠNH

'Tứ mã nan truy'
Chỉ có điều với Internet, với YouTube v.v..., không phải lúc nào một tín hiệu, thông tin phát ra là đã dễ bề thu lại được. Người xưa gọi đó là 'tứ mã nan truy' - ngựa quý đuổi theo cũng khó lấy lại được.
Do dễ bề khai thác và phát tán, một tín hiệu hay thông tin xuất hiện trên mạng Internet, rất dễ bề trở thành một sự kiện xã hội hay cộng đồng, gây ra các bàn tán, dư luận với các tính chất, cấp độ khác nhau.
Mặt khác, khi còn ở trong tay và tầm kiểm soát của người phát hay dự định phát ra tín hiệu, tính chủ quan của thông tin còn tương đối nhiều.
Nhưng khi tín hiệu đã xuất hiện và đưa lên trên mạng, như một thứ thông tin phát vào vũ trụ, thành sự kiện, thì ngay lập tức, nó có thể tạo lập tính khách quan về sự tồn tại của nó bởi chính quá trình được phát tán, xử lý và bàn tán, bình luận.
Điều đó gợi ý rằng, có những khía cạnh 'giá trị gia tăng' về mặt xã hội, mà con người đang ở thế kỷ 21, khi sử dụng mạng Internet, cần thận trọng.
GS. Trần Đình Sử
 Tôi nghĩ phải có một thời gian để sự việc lắng xuống, mọi người mới có nhận thức chính thức
 
Giáo sư Trần Đình Sử

Xin trở lại với bản thảo Hồi ký đưa lên mạng gần đây, được cho là ngoài ý muốn của Giáo sư kiêm nhà phê bình văn học Việt Nam, Nguyễn Đăng Mạnh.
Mấy tuần lễ gần đây, đồng loạt nhiều trang mạng, trang blog, các trang điểm sách, điểm báo tự do, cá nhân, thậm chí một số tờ báo in chính thức ở hải ngoại, trên mạng Internet v.v... liên tục đăng tải, trích dẫn và bàn luận từng phần hay toàn bộ nội dung bản thảo cuốn Hồi ký dày tới hơn 300 trang, gồm năm phần và gần 30 chương.
'Nhận định phân tán'
Giáo sư Trần Đình Sử, từ Đại học Sư phạm Hà Nội, một người được tác giả Nguyễn Đăng Mạnh nhắc tên trong bản thảo, đồng thời là bạn và đồng nghiệp của Giáo sư Mạnh, đánh giá bản thảo cuốn Hồi ký có "một số thông tin" nhưng cũng có "một số vấn đề".
Ông nói: "Tôi thấy nó cũng gây ra một số dư luận, có người tán thành, một số khen, một số chê, nhận định phân tán. Tôi nghĩ phải có một thời gian để sự việc lắng xuống, mọi người mới có nhận thức chính thức."
Giáo sư văn học Mai Quốc Liên, từ Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, một trong những người được cho là bị tác giả Nguyễn Đăng Mạnh phê phán trong bản thảo, cho biết cảm nghĩ:
"Tôi với ông Mạnh không có cái gì ác cảm với nhau lắm. Thông tin của ông Mạnh nói chung là nghe ngóng, hóng hớt, nguy hiểm... Khía cạnh luật pháp có vấn đề, không bảo đảm."
Giáo sư Liên không đồng tình với cách thức mà ông cho là tác giả bản thảo hồi ký đã làm về khía cạnh 'đạo lý', khi GS Nguyễn Đăng Mạnh tiết lộ các thông tin 'riêng tư', về thầy, bạn, đồng nghiệp.
'Kể chuyện có duyên'
PGS. TS. Trần Ngọc Vương (ảnh Talawas)
 Tôi có đọc. Chẳng có gì ghê gớm. Một số chuyện gọi là đụng chạm, thì ở một số cuốn sách khác, người ta đã đụng chạm hết rồi.
 
PGS. TS. Trần Ngọc Vương

Giáo sư Liên cho rằng tác giả Nguyễn Đăng Mạnh có thiên kiến về phe phái và tự cho là người 'cấp tiến'. Tuy vậy, ông Liên cũng nhận xét những mặt tích cực:
"Ông Mạnh kể chuyện có duyên, hóm, kể vui, cũng có cái chính xác, không phải là sai hết."
Nhà phê bình ở thế hệ kế cận Giáo sư Mạnh, Phó Giáo sư Trần Ngọc Vương, từ Khoa văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội, nói với BBC Việt ngữ:
"Tôi có đọc. Chẳng có gì ghê gớm. Một số chuyện gọi là đụng chạm, thì ở một số cuốn sách khác, người ta đã đụng chạm hết rồi.Còn những chỗ tương đối mới mà gây sốc cho một số người thì lại toàn là chuyện đánh giá con người, đánh giá cá nhân thôi."
Trước câu hỏi đặt ra xung quanh một số quan ngại của dư luận cho rằng bản thảo Hồi ký có thể gây ra một số phương hại cho chính tác giả của nó, ông Trần Ngọc Vương nhận xét:
"Cũng chẳng hại gì nhiều. Vì theo nghĩa chính thống, thì cái gì cần được thì ông cũng được hết cả rồi. Ông là Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân, được Giải thưởng Khoa học Công nghệ Nhà nước."
Còn Giáo sư Mai Quốc Liên, thành viên Hội đồng Lý luận Văn học, Nghệ thuật Trung ương, đồng thời là Giám đốc Trung tâm Quốc học, cho biết không có chuyện ai đó trừng phạt tác giả bản thảo:
"Ông 78 tuổi rồi, trừng phạt gì. Hiện nay, người ta chẳng làm gì đâu. Nhưng báo chí cũng phản ánh một phần, có một số bài. Người bị xúc phạm, cũng có người căm tức."
"Cũng hơi tiếc, có những chuyện kể cũng đúng, cũng hay. Nếu viết dí dỏm, dừng lại ở mức độ vừa phải thì hay. Không nên đi vào vấn đề để câu khách, lấy tiếng rằng mình là người cấp tiến," Giáo sư Liên bình luận thêm.


Không nêu tên
Em là một học sinh lớp 11 văn. Quả thật khi đọc xong phần hồi ký về Hồ Chủ tịch của thầy, em rất
sốc. Cho em xin được gọi Chủ tịch là Bác. Bởi vì dẫu sao trong em, Bác vẫn luôn là một con người rất đáng trọng. Có lẽ từ lâu rồi, chúng ta vẫn luôn tôn thờ Bác và tồn Bác lên như một vĩ nhân. Thế nhưng bây giờ một số học giả khác đã đặt ra một cách nhìn mới. Có vẻ với cách nhìn này thì Bác hay tất cả mọi người khác đều trở thành những con người tầm thường hơn và trở về với phần bình dân.
Thực sự em rất kính phục thầy Mạnh khi thầy có thể có một cách nhìn mới như vậy. Mặc dù với những thông tin này, một số cá nhân và phần đông có thể suy diễn một cách khá dễ dàng theo một nghĩa không tốt. Thế nhưng đó chính là sự thật. Có điều là sự thật này có nên phô bày ra một cách công khai hay không? Đây là một điều rất khó nói! Chúng ta phải dám nhìn thẳng, nhìn thật và sự thật. Nhưng nếu đánh mất một hình tượng mà chính chúng ta đã xây dựng và ca ngợi mấy chục năm qua, liệu có nên không?
Và nói ra những vấn đề có vẻ như rất tế nhị và một con người rất đáng thương như vậy liệu có nên không? Dù sao em cũng rất kính phục thầy Mạnh khi đi trước mọi người và nói ra những điều như vậy. Dù đây còn là vấn đề của thời gian. Phải để thời gian nói ra những điều này.
Sapa
Tôi đã đọc toàn bộ hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh, nhiều đoạn đọc đi đọc lại. Tôi đánh giá cao bản viết của ông.
Ông đúng là có phẩm chất nhà giáo, lại rất người. Tôi chưa bao giờ gặp ông, tôi nghĩ rằng người Việt ta cần nhiều hồi ký như của ông Mạnh.
Qua hồi ký, tôi nghĩ thương các nhà văn, thơ chân chính. Tôi đau xót cho bao nhiều những con người mà "nghiệp" của họ là về nhận thức , tư duy, muốn sáng tạo... lại phải sống thiếu đói cả vật chất; chật chội, khiên cưỡng tư tưởng (túng thiếu thê thảm bầu trời tự do tư duy sáng tạo).
Không nêu tên
Có lẽ không nhiều lắm những người từ chối, không muốn biết sự thật. Dù cay đắng chúng ta cũng cần biết sự thật để hạn chế nhầm lẫn trong nhận thức, hành động sẽ đúng hơn, sẽ không ảo tưởng và hụt hẫng khi những thông tin ta tiếp nhận trần trụi va minh bạch.
Chỉ đọc lướt qua "Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh", chúng ta đã có thể thấy một phần bức tranh của các học giả, nhà văn, nhà thơ, các phe phái, các xung đột ý thức tập thể hay cá nhân và sự lãnh đạo của đảng thông qua một số nhân vật cốt lõi như Lê Đức Thọ, Tố Hữu với nền văn hóa đất nước.
Độc giả
Mỗi người đều có cách nhìn nhận và đánh giá về sự vật, hiện tượng theo cách của mình.GS Mạnh có cái nhìn về một ai đó như thế nào là cách nhìn của GS Mạnh.
Có thể họ là người tốt trong con mắt của GS Mạnh nhưng chưa hẳn đã là người tốt trong con mắt của người khác và ngược lại.
Bởi vậy Hồi ký của ông đương nhiên là có người khen, người chê. Đó là chuyện bình thường. Trong xã hội một vấn đề có nhiều quan điểm không thuận nhau mới là cái đáng nói. Nếu vấn đề đặt ra mà không ai có ý kiến gì thì có gì để mà bàn, như vậy thì chán ngắt.
Ở tuổi GS Mạnh những điều ông nói ra không phải để cho vui mà có thể là những gì ông chất chứa từ lâu, nay mới viết ra.
Bạn đọc HY
Chúng ta cần tôn trọng tác giả cuốn sách. Ở tuổi của ông, tôi cũng sẽ viết sự thực về đời mình. Phải luôn sống với sự thật thì mới được thanh thản.
TTT, Sài Gòn
Cho dù ai đó muốn lấy tiếng là cấp tiến thì có gì không tốt? Chỉ có mấy ông xấu tính ghen ghét mới không thích thôi.
Vẫn biết rằng có những sự thật nguy hại nặng nề, nhưng chẳng phải con người ta đang cố gắng giảm nhẹ sự nặng nề và giảm thiểu những sự thật như thế sao? Chẳng phải con người đang hướng đến một thế giới không còn những sự thật bị che giấu sao? Ở VN này, quá nhiều người sợ nói ra sự thật vì nhiều lí do.
Thật chán khi nói chuyện với những người ba phải nhút nhát như thế. Ủng hộ ông Mạnh nói ra những điều thật bụng cho những kẻ sợ sốc biết, sốc cũng chẳng có gì đáng sợ nếu đã quen tai!

CHẤT ĐỘC HẠI TRONG MỘT CUỐN HỒI KÝ

Cuốn hồi ký của giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh dù chỉ mới xuất hiện trên mạng cũng gây chấn động bạn đọc cả nước. Báo Văn Nghệ Trẻ đã nhanh tay bình luận liên tiếp mấy kỳ, và có vẻ cũng bán được báo. Thế nhưng, gần đây có những bài gai góc hơn rất nhiều, mà tiêu biểu là “Về hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh” của Chu Giang - Nguyễn Văn Lưu in dày kín 4 trang báo Hồn Việt, và bài “Chất độc hại trong một cuốn hồi ký” của Thượng Nguyên in trên An Ninh Thế Giới. Báo Hồn Việt chưa có trang điện tử nên lethieunhon.com chỉ copy được bài trên báo An Ninh Thế Giới với điều tiếc nuối là giá như tác giả ký tên thật thì hay hơn. Mời bạn đọc hít thật sâu để lấy bình tĩnh trước khi theo dõi sự "khai đao"...


CHẤT ĐỘC HẠI TRONG MỘT CUỐN HỒI KÝ
THƯỢNG NGUYÊN
Từ mấy tháng nay, người ta xầm xì bàn tán vì cuốn hồi ký của ông Nguyễn Đăng Mạnh (Giáo sư, Nhà giáo nhân dân, giải thưởng Nhà nước về Văn học - Nghệ thuật). Có người còn nói nhỏ với tôi một cách khái quát như thế này: "Khủng khiếp lắm! Bạo phổi lắm! Toàn chuyện thâm cung bí sử. Phải gan hùm mật gấu mới dám viết như vậy...". Là người gắn bó nhiều năm với công tác nghiên cứu, nhưng lại mê cái món văn chương, nên vội vã đi tìm mua cuốn hồi ký đó. Vòng vèo mấy hiệu sách to đùng đều không có. Lần về trung tâm Tràng Tiền mới té ngửa: "Không có đâu chú ơi! Tác giả xuất bản trên mạng. Chú cứ về mở mạng ra là có". Cô nhân viên quầy sách văn học vui vẻ cho biết vậy.

Bao năm làm cái nghề nghiên cứu, chỉ quen đọc tài liệu có sẵn, người ta chuyển tới, ngồi phân loại rồi đọc thành ra cái khoản mạng mung kể như mít tịt. Đành phải nhờ đứa cháu làm tin học ở một tờ báo nó lôi trong mạng ra cho. Tài liệu dày quá. Tới mấy trăm trang giấy A4, chi chít chữ. Bị kích động bởi cái tính tò mò, mày mò của một "con mọt" tài liệu quản chi ngắn dài, dày mỏng. Tôi đọc nghiến ngấu ngay trong đêm hôm đó. Có chương, có đoạn phải đọc tới hai lần. Mệt nhoài. Vã mồ hôi giữa tiết đông Hà Nội. Quả đúng như lời rỉ tai của anh bạn tôi: "Khủng khiếp quá. To gan quá!...".
Với cảm nhận của tôi, ngoài hai ý trên, nó còn hàm chứa cả sự ti tiện, hồ đồ, bẩn tính... làm ô danh một người mà bấy lâu nay tự cho là "sĩ phu Bắc Hà" như ông. Tại sao lại có thể tuôn ra từ ngòi bút của Nguyễn Đăng Mạnh - một Nhà giáo nhân dân, một giáo sư tên tuổi của nước nhà? Tập hồi ký gồm 26 chương. Nếu in thành sách có nhẽ cũng tới ba, bốn trăm trang. Kể ra, cả cuộc đời một vị giáo sư từ ấu thơ cho tới nay đã ngót nghét "bát tuần", với chừng ấy trang hồi ký thì đâu phải là dài. Có điều, chỉ chừng ấy con chữ thôi, ông đã để lại bao nỗi băn khoăn, day dứt, phẫn nộ trong không ít người đọc.

Ông miệt thị và bôi bác bao miền quê đất Việt; ông bôi nhọ, đả kích, bài bác nhiều người ở nhiều lĩnh vực mà trong đó có không ít người cùng giới văn chương với ông. Tiếc thay, nhiều điều ông viết ra lại ở loại "lượm lặt gần xa", "nghe hơi nồi chõ", nó lạc đề với thể hồi ký. Bởi chỉ "nghe ông này nói, nghe bà kia kể, nghe ông nọ cho biết...” mà rất nhiều người trong số đó đã trở thành thiên cổ thì người đọc làm sao kiểm chứng? Nhưng thôi, tác giả đụng chạm tới ai hoặc địa phương nào thì người đó, nơi đó họ xem xét, có nhời với ông. Chỉ thương cho những người quá cố, họ làm sao sống lại để chối hoặc kiện ông về cái tôi bịa đặt, vu khống... Nhưng cũng không sao. Ông trốn được người đã khuất, nhưng làm sao trốn được thân nhân của họ. Tỉ như gia đình ông Trần Quốc Hoàn, cố Bộ trưởng ngành Công an, gia đình cựu Tổng cục trưởng Tổng cục Thể dục - Thể thao Tạ Quang Chiến, là 1 trong 8 cán bộ cận vệ đã góp phần bảo vệ an toàn lãnh tụ Hồ Chí Minh trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến.

Bởi thế, người viết bài này chỉ xin đề cập tới cái phần nhỏ nhoi còn lại. Vì nó liên quan tới bản thân mình, gia đình mình, dân tộc mình và cả loài người tiến bộ (vì từ năm 1990, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thế giới công nhận là Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới). Nó nằm trong chương VII (bảy) hồi ký của ông, chương nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ở chương này ông ưu ái dành cho Cụ Hồ tới 10 trang. Cuối mỗi trang đều đề ngày 12/4/2008.
Xác định nguồn tài liệu để ông Nguyễn Đăng Mạnh viết chương này. Theo lời Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thể hiện trong cuốn hồi ký thì toàn bộ nội dung chương này, những chi tiết độc nhất, ác nhất, xấu nhất... nói về Bác Hồ và những người dưới quyền và bảo vệ Bác Hồ thì hoàn toàn ông nghe người ta kể. Mà những người kể đó không có một ai đã từng được sống gần Cụ Hồ. Tỉ như Vũ Thư Hiên (một người lưu vong ở nước ngoài), Dương Thu Hương (nữ văn sĩ sinh năm 1947); một vị GS ở Đại học Sư phạm Hà Nội (không nêu tên), rồi tới GS Ngô Thúc Lanh (không nói rõ địa chỉ). Nhưng buồn cười ở chỗ ông Lanh lại nghe ông Văn Tân kể cho người khác và truyền đạt lại... Cuối cùng, chính thức ông GS Nguyễn Đăng Mạnh tận mắt thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có 2 lần. Đó là từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, Bác Hồ về thăm Bắc Ninh. Lúc đó ông Nguyễn Đăng Mạnh dạy học cấp II ở Trường Hàn Thuyên (trong khối học sinh vẫy cờ chào đón Bác). Lần thứ hai vào khoảng năm 1961 hoặc 1962 khi Bác Hồ về thăm Nghệ An. Lúc đó ông Nguyễn Đăng Mạnh công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh. Như thế có nghĩa là 2 lần ông được tận mắt nhìn thấy Cụ Hồ, không liên quan gì tới những nội dung vớ vẩn, bậy bạ ông thể hiện trong chương VII này.

Trở lại vấn đề là xác định nguồn tài liệu mà tác giả "nghe hơi nồi chõ" sử dụng trong chương VII cuốn hồi ký của mình. Bởi làm công tác nghiên cứu nên tôi có may mắn được tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu. Đặc biệt là nguồn từ Cơ quan Tình báo, An ninh (chủ yếu xâm nhập từ nước ngoài vào và quần chúng trong nước khi nhận được đã giao nộp cho Cơ quan An ninh). Tôi nhớ cách nay trên 10 năm, lục trong cái đống hổ lốn tài liệu phản động ấy thống kê lại, có tới mười mấy phần trăm là tài liệu mà kẻ địch và phần tử xấu tập trung đả kích, bôi nhọ uy tín lãnh tụ Hồ Chí Minh, mà trong đó một số bản có những chi tiết giống như trong chương VII cuốn hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh. Hồi đó, tôi nghe nói các cơ quan chức năng đã tiến hành truy tìm nguồn gốc tài liệu này, nhưng không rõ kết quả ra sao?

Những đánh giá về nguyên nhân xuất hiện nhiều tài liệu xấu, bôi nhọ uy tín Chủ tịch Hồ Chí MinhNhư chúng ta đều biết, sau khi các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động "Diễn biến hòa bình", tập trung tấn công vào các nước XHCN còn lại, mà Việt Nam trở thành trọng điểm tấn công. Hồi đó các cơ quan chức năng đã tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo đánh giá về việc này. Tôi rất tâm đắc với bản tham luận của một vị Đại tá thuộc Cơ quan An ninh. Theo vị Đại tá này thì: "Việc xuất hiện nhiều tài liệu phản động tập trung bôi nhọ uy tín Chủ tịch Hồ Chí Minh, xuất phát từ âm mưu cực kỳ thâm độc của các thế lực thù địch. Theo họ, quy luật tất yếu sẽ xảy ra là sau khi các nước Cộng sản tiến hành công cuộc đổi mới, cải tổ, cải cách thì Việt Nam sẽ là quốc gia sụp đổ đầu tiên. Trớ trêu thay, Việt Nam không những không sụp đổ mà vững vàng đi lên, trở thành tiêu điểm để nhiều quốc gia tham khảo về kết quả trong tiến trình đổi mới.
Cũng theo đánh giá của họ, sở dĩ cái điều "trái quy luật" ấy diễn ra ở quốc gia nhược tiểu này, ấy là Việt Nam đã bám được "cái phao" tư tưởng Hồ Chí Minh "xây dựng CNXH trên nền tảng học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh". Vì vậy, muốn cho Việt Nam sụp đổ, biện pháp hữu hiệu nhất là phải chọc thủng cái phao đó bằng việc tăng cường các chiến dịch bôi nhọ uy tín Hồ Chí Minh, bằng tất cả các thủ đoạn, biện pháp, kể cả những thủ đoạn đê hèn nhất - xuyên tạc, bịa đặt, vu khống...".

Biện pháp xử lý nào trước sự việc trên?
Mấy tuần nay đã có nhiều bài viết phê phán tác giả cuốn hồi ký trên. Tôi không có nhiều báo nên không có điều kiện thống kê, mới chỉ đọc 4 bài: "Bệnh thường tình mà nên tránh" của nhà thơ Đặng Huy Giang đăng trên Văn nghệ trẻ ngày 23/11/2008; "Về hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh - Tác giả sách giáo khoa Văn" của Nguyễn Hữu Thăng (Văn nghệ trẻ ngày 30/11/2008; "Một cuốn hồi ký lẫn nhiều sạn" của nhà thơ Đỗ Hoàng (Tạp chí Văn của Hội Nhà văn Việt Nam tháng 11/2008) và bài "Tâm sự đường đời hay nơi trút hận?" của Thanh Trúc (An ninh thế giới Giữa tháng, phát hành ngày 8/11/2008).
Tôi rất đồng tình với 4 tác giả trên. Xin bày tỏ tâm đắc với phần kết trong bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang: "Đã là người văn minh thì cũng chẳng có ai đi viết hồi ký kiểu Nguyễn Đăng Mạnh. Bôi nhọ nhau, hạ thấp nhau, lại không có chứng cứ, dễ bị đối mặt với pháp luật lắm chứ" và, trong bài viết của Thanh Trúc cũng đề cập tới yếu tố này: "Tồn tại công khai của cuốn hồi ký trên Internet đã đặt Giáo sư vào tình thế không thể gọi là "vô can", cho nên dù thế nào thì Giáo sư cũng phải chịu trách nhiệm với cuốn hồi ký được công bố ngoài ý muốn của ông (cứ cho là như vậy)”.
Tôi cũng được nhiều bạn đọc của mấy tờ báo trên trao đổi, họ phẫn nộ trước thái độ phân bua, chối lỗi của ông Nguyễn Đăng Mạnh trên RFI. Họ đòi hỏi cơ quan chức năng cần phải có biện pháp xử lý dứt khoát vụ này để đảm bảo tính công bằng của quy chế, pháp luật đối với mọi công dân. Chẳng lẽ một người dân, một cán bộ công nhân viên, một nhà văn, nhà báo... có lời nói, tác phẩm, bài viết vi phạm thì bị xử lý (kể cả bằng luật pháp), còn ông Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh thì lại bỏ qua những việc làm của ông vì đã vi phạm nghiêm trọng Luật Xuất bản và Luật Hình sự nước CHXHCN Việt Nam.

Thử đi tìm sự ra đời cuốn hồi ký của Nguyễn Đăng MạnhSuy nghĩ mãi, day dứt mãi bởi một câu hỏi: "Tại sao ông Giáo sư họ Nguyễn này lại cả gan như vậy? Lại trút tất cả bất mãn cuộc đời lên ngòi bút của mình như thế?". Sau khi đọc bài của tác giả Thanh Trúc với tiêu đề "Tâm sự đường đời hay nơi trút hận?", tôi thở phào nhẹ nhõm. Rất có lý. Có thể đây là nơi để vị Giáo sư này trút hận (?). Nhưng lạ nhỉ?! Ông hận ai đã từng ác ý với ông, là lẽ thường tình. Nhưng sao ông lại ác ý, trút hận lên Cụ Hồ, người đã đem lại hạnh phúc cho dân tộc mà trong đó có ông. Với học hàm Giáo sư, danh hiệu Nhà giáo nhân dân, Giải thưởng Nhà nước về VHNT... đã thừa nói lên điều đó.
Vậy thì còn có thể là nguyên nhân thứ hai là ông hận chế độ này bởi sự đãi ngộ chưa xứng tầm với tài năng, trí tuệ của ông chăng (?). Nói thế thôi chứ thực lòng tôi rất thông cảm, chia sẻ với những day dứt trong ông, trong nhiều người chúng ta trước hiện tượng tham ô, tham nhũng, tiêu cực (trong đó có vấn đề mua quan bán chức của một số phần tử cơ hội) mà lâu nay chúng ta vẫn từng lên án là "quốc nạn". Song, không phải vì thế mà chúng ta lại "trút hận" lung tung. Người trí thức chân chính ai lại làm như vậy. Thái độ đúng đắn của tất cả chúng ta là phải góp phần triệt tiêu nó. Xét cho cùng, hiện tượng tiêu cực trên nó có thể xuất hiện ở tất cả mọi chế độ xã hội (trở thành bệnh xã hội). Ngay từ khi chưa có mầm mống chế độ XHCN mọc trên hành tinh này.
Ông là giáo sư Văn chương hẳn ông thừa nhớ cái thời "Xuân Thu Chiến Quốc" cách chúng ta trên 20 thế kỷ. Bất bình với hiện tượng tiêu cực dưới triều đại Sở Hoài Vương mà vị quan tả đồ (dưới chức tể tướng) là thi sĩ Khuất Nguyên đã phải thốt lên rằng "Chuông đồng đúc bỏ không dùng tới/ Mảnh chĩnh dè sớm tối gõ khua/ Đề cao những kẻ nịnh thưa/ Anh hùng bỏ xó nắng mưa bẽ bàng".
Tôi không phải là học trò của ông, mà là lớp đàn em đã một thời thích những tác phẩm phê bình văn học của ông. Nhân sự kiện cuốn hồi ký tai tiếng của ông vừa được tán phát trên mạng, xin góp ý một lời chân tình. Không nên dằn vặt cuộc đời như thế. Không nên "chơi trội" như thế để mang tiếng với đời là "giận cá chém thớt", "ăn cháo đá bát"... để đánh mất mình - Một Nhà giáo nhân dân, một giáo sư văn chương, Giải thưởng Nhà nước đã từng vang bóng một thời.
Theo thiển ý của tôi, để thanh thản quãng đời còn lại, tốt nhất là ông nên trả lại những gì người ta đã dành cho ông (học hàm, học vị, danh hiệu, giải thưởng). Ôm nó làm gì để trong lòng canh cánh bao nỗi hận. Và, nếu có thể, hãy tìm đến một nơi nào đó trên hành tinh này, mà ở đó người ta có thể ban thưởng cao hơn, xứng tầm với trí tuệ của ông.

Việc ông Nguyễn Đăng Mạnh viết và đưa "Hồi ký" lên mạng đã vi phạm các quy định sau:- Vi phạm Chỉ thị 25-CT/TW ngày 25/12/1997 của Bộ Chính trị về việc "Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước".
- Vi phạm Chỉ thị 48-CT/TW ngày 14/2/2005 của Bộ Chính trị về "Bảo vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn và sử dụng bảo quản thông tin, tài liệu trong tình hình mới".
- Vi phạm khoản 3 "Tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định", khoản 4 "Xuyên tạc sự thật lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, vĩ nhân, anh hùng dân tộc; vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân" thuộc Điều 10, Luật Xuất bản, với hình thức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng và tịch thu toàn bộ tang vật vi phạm (theo khoản 3, Điều 21 Nghị định 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa thông tin).
- Vi phạm điều 271 Bộ Luật Hình sự của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam "Tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác".


Nguồn: ANTG

 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved