Home » » Hoa xuyên Tuyết - Phần 3

Hoa xuyên Tuyết - Phần 3

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013 | 10:09

Mấy tháng qua, một số bè bạn ở Paris và một số tỉnh ở Pháp cũng như một số nhà báo Anh, ý,... hỏi tôi rằng: Sống dưới chế độ cộng sản, ông đã rút ra được những bài học gì sâu sắc nhất? Quả vậy tôi đã gắn bó với chế độ chính trị do đảng cộng sản lãnh đạo hơn 46 năm, tôi là đảng viên cộng sản từ tháng 3. 1946, đến nay vừa tròn 45 năm. Tôi ở trong quân đội do đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo từ tháng 9. 1945 đến tháng 10. 1982, tức là hơn 37 năm. Nhìn lại cả một quãng đời vừa trải qua, quả thật có nhiều điều sâu sắc và thấm thía. 
Từ khi trưởng thành, tôi luôn đặt cho mình một thái độ ngay thật và thẳng thắn, không cúi đầu nịnh bợ ai, cũng không muốn ai tán tụng tâng bốc mình. Điều này làdo sự giáo dục, dạy dỗ của cha tôi từ khi tôi còn nhỏ. Tôi không thể nào quên, cha tôi luôn nằm thẳng. Ngủ ban đêm hay ngủ trưa, đều một mực như thế. Hai tay chắp vào nhau đặt trên bụng. Suốt cả một đời người, ông luôn ngủ với một tư thế không thay đổi. Đi từ nhà trên xuống nhà dưới, đi bách bộ Ở hành lang, hay ở trong sân nhà, cha tôi bao giờ cũng đi đến góc, rồi rẽ phải hay rẽ trái, không bao giờ đi tắt. Tất cả đều thành nếp sống và nếp nghĩ. Cũng có thể có người cho là lẩm cẩm. Nhưng cái ngay thẳng của người "quân tử" là như thế, phải như thế. Không thể nhượng bộ cho chính mìmh. Tự đòi hỏi một cách khe khắt. Một cụ già hơn 90 tuổi gặp tôi ở huyện Xuân Thủy, Hà Nam Ninh, tháng 7. 1990, kể lại cho chúng tôi rằng, hồi 1927, thầy tôi đến nhậm chức tri phủ Xuân Trường, cái bảng đầu tiên yết ở cổng phủ là "Ai có việc hay đưa đơn, không được mang theo một lễ vật gì qua cổng này". Cả cuộc đời xử án, làm 12 năm thượng thư (là bộ trưởng) bộ tư pháp, xét duyệt cả chục ngàn vụ án lớn nhỏ, ông không hề nhận một đồng xu nhỏ hay bất cứ thứ quà cáp gì kiểu đút lót của bất cứ ai. Sự thanh liêm và thanh bạch thật là tuyệt đối.

Trên tinh thần ấy, tôi không thể quay ngoắt lại chửi bới đảng cộng sản, nói xấu đủ điều, phóng đại những sai lầm và tự phủ định chính mình về tất cả mọi mặt. Cho dù vừa qua, cơ quan lãnh đạo của đảng cộng sản đã chụp mũ tôi là phản bội, là bị đế quốc mua chuộc, lôi kéo và đã khai trừ tôi ra khỏi đảng, truất chức tôi... Tôi không tự ái, bực bội hay phiền muộn gì về chuyện này cả. Họ luôn là như thế, luôn hành động kiểu như thế dưới cái nhãn hiệu bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ, tôi chẳng mảy may lấy làm lạ. Điều hệ trọng là chính họ cũng chẳng tin mấy ở những điều ấy, và đông đảo đảng viên và nhất là nhân dân thì cũng chẳng tin gì ở những điều xằng bậy, thiếu công bằng, thiếu công minh như thế.

Bài học tôi tự rút ra sâu sắc nhất trong cuộc đời hoạt động gần 50 năm là: hãy luôn tự là mình! Xin chớ bao giờ thôi là mình. Xin chớ bao giờ đánh rơi mất bản thân mình! Cần luôn luôn tỉnh táo để suy nghĩ bằng cái đầu của mình. Chớ bao giờ bắt chước mù quáng bất cứ ai. Điều này cũng thật là khó. Lười một chút, e ngại một chút, nể nang một chút là đánh mất mình như chơi! Cái kiểu đua đòi chạy theo mốt thời thượng, a dua theo số đông là như thế.

Tôi còn nhớ, cách đây hơn 40 năm, từ những năm 1945 đến năm 1950, những năm đầu thật hào hùng và phấn khởi. Đảng cộng sản tự rút vào bí mật. Tinh thần dân tộc được phát huy cao độ, khi xây dựng chiến khu Việt Bắc và vùng giải phóng khu 4, khu 5, ý thức chiến đấu bảo vệ nền độc lập của tổ quốc thật là sâu đậm. Tình cảm anh em gắn bó chặt chẽ: Cán bộ và chiến sĩ, bộ đội và đồng bào. Đúng là truyền thống chống ngoại xâm là một gia tài quý báu của dân tộc ta, bất kể giầu nghèo, dân tộc, tôn giáo... Sau chiến dịch Biên giới cuối năm 1950, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam nối liền được với nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa vừa được thành lập tháng 10. 1949. Viện trợ quân sự và dân dụng từ Trung Quốc đưa vào Việt Nam ngày càng nhiêu, tạo thêm điều kiện cho kháng chiến Việt Nam lớn mạnh. Thế nhưng tình hình lại phức tạp hơn, có nhiều mặt căng thẳng hơn. Từng đoàn cố vấn Trung Quốc sang, có mặt ở mọi ngành, mọi cấp. Lúc đó (1952), tôi làm giám đốc của trường quân chính sư đoàn 304, cũng có 2 cố vấn Trung quốc đến làm việc. Họ nói cái gì cũng lạ, cũng mới, cũng hay cả! Có thể nói từ đại tướng đến lính trơn đều cắp sách đi học các ông cố vấn Tàu. Đảng cộng sản là gì, đảng cộng sản lãnh đạo toàn diện, thường xuyên, trực tiếp và tuyệt đối là như thế nào... đấu tranh giai cấp là khách quan, quyết liệt và tất yếu như thế nào. Thế nào là dân chủ tập trung, là lãnh đạo tập thể... Thế nào là chiến thuật Lâm Bưu, là tổ chức theo kiểu tam chế, là phương châm chiến thuật tứ khoái nhất mạn (4 nhanh, một chậm), là chiến thuật công kiên.. Rồi phương châm: chính trị là thống soái, chế độ chính ủy có quyền tối hậu quyết định... Công tác chi bộ và công tác đảng ủy và nhất là nội dung tư tưởng Mao Trạch Đông. Rồi nông dân là lực lượng cách mạng hùng hậu nhất ra sao. Và phương châm tổ chức lấy công nông làm cốt cán là như thế nào...

Ngọn gió phương Bắc ào ạt thổi xuống căn cứ địa Việt Bắc, rồi các vùng giải phóng trong cả nước. Sách dịch Tàu, phim ảnh Tàu, bài hát tàu "Kết đoàn", nhảy ương ca tàu, phong trào học chữ và học nói tiếng tàu lan ra rất rộng. Và từng đoàn cán bộ nối tiếp nhau sang tàu, lên Bắc Kinh, Thượng Hải, Nam Kinh, Nam Ninh, Quảng Châu để học. Bắc Dại (trường đại học Bắc kinh) mở rộng cửa đón hàng trăm cán bộ Việt Nam ta. Trung Quốc là hậu phương rộng lớn, bao la và hào hiệp cho cuộc kháng chiến Việt Nam, lợi thật là lớn và chúng ta phải trả giá cũng thật quá đắt! Vừa thoát khỏi đêm dài nô lệ của thực dân Pháp, chúng ta lóa mắt trước một nền văn minh mới của "cách mạng" Trung Quốc được ta suy tôn là đàn anh, mở đường, mẫu mực.

Chúng tôi tiếp thu một cách ào ạt, ngấu ngiến, không chút suy xét và càng không có một chút phê phán nào cả! Bài hát ca ngợi Mao Trạch Đông "Đông phương hồng", được coi là bài hát chính thức, cùng với "Tiến quân ca", bài suy tôn Hồ Chủ Tịch và bài Quốc Tế Ca. Và thế là ở Đại hội lần thứ hai của đảng cộng sản Việt Nam trên căn cứ địa Việt Bắc, trong cuốn Điều lệ đảng, ở ngay phần đầu được ghi rõ: cơ sở lý luận và tư tưởng của đảng là chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Không một ai nghi ngờ, và tất nhiên không một ai phản đối cả. Nó tự nhiên như ánh sáng, như hơi thở cần cho cuộc sống con người vậy! Cần nói thật rằng những tư duy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, của các vị Trường Chinh, Lê Duẩn, Phạm văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp... , lúc ấy đều coi tư tưởng Mao là mẫu mực, là chân lý. Thế mới biết khi đánh rơi mất bản thân mình, bản thân dân tộc mình, quyền tư duy tỉnh táo của mình, mọi người đều có thể phạm sai lầm cực lớn vậy! Gần như trên một trang giấy trắng, chúng ta đã đổ lên một lọ mực tầu đen và ngộ nhận đó là ánh sáng! Tôi còn nhớ sau đó ít lâu, một nhà báo Pháp hỏi Hồ Chủ Tịch: Sao cụ không viết các tác phẩm lý luận, thì được trả lời ngay rằng: "Tôi có gì để viết nữa, tất cả lý luận cần thiết Mao Chủ Tịch đã nghĩ đến và viết ra rồi!" Luồng suy nghĩ bao trùm lúc ấy là như thế.

Và tất cả những người kháng chiến Việt Nam đều coi những tác phẩm: Bạch Mao nữ (trong chuyện và trong phim), Thượng cam lĩnh, Ngu công dời núi, anh hùng Lôi Phong... là những tác phẩm tuyệt đỉnh của loài người. Câu nói bất hủ của Mao: "Ba anh thợ da là một Gia cát Lượng", được coi là một chân lý, nêu cao tác dụng tập thể đối lập với cá nhân, phủ định sạch trơn khả năng và vai trò cá nhân đối với lịch sử và nhận thức của loài người. Con người riêng rẽ là bèo bọt, là yếu hèn, là tội lỗi, đó là hạt cát rời rạc, vô giá trị, giống nhau, để cho tập thể dậm chân lên trên. Tập thể là tất cả!

Có những chuyến nhìn lại vừa buồn cười, vừa xấu hổ vì quá ấu trĩ. Từ đầu năm 1952, tất cả các đơn vị, tiểu đội đều lập tổ tam tam, tổ 3 người, còn gọi là tổ tâm giao. Cứ chiều đến sau khi ăn cơm là tổ tâm giao sinh hoạt tư tưởng. Phải kiểm điểm công việc trong ngày, tự khai ra những tư tưởng không lành mạnh: ngại khó, ngại khổ, sợ chết, ghen tỵ, tư tưởng hưởng lạc, cầu an, địa vi... , nó có tác dụng giữ vững tinh thần, giữ vững kỷ luật, nhưng mặt khác nó đè nặng lên nhân phẩm và nhân cách, làm cho con người luôn mặc cảm tội lổi, phải ăn năn, hối cải.

Có thể nói thời kỳ lan tràn tư tưởng Mao Trạch Đông, sùng bái tư tưởng Mao sau năm 1951 là sự mở đầu của những mụ mẫm về nhận thức, và có những tác hại cho đến tận ngày nay. Chúng ta quên mát những gíá trị cố hữu của dân tộc, đánh rơi niềm tự hào tự tin dân tộc, chấm dứt thời kỳ phơi phới hồn nhiên đoàn kết quý trọng nhau trong cộng đồng dân tộc đi kháng chiến chống Pháp, để choàng vào cổ một cái tròng nhận thức và tư tưởng mang bản chất đặc nông dân. Một sự thụt lùi được ngộ nhận là khai phá và tiến lên! Thế là cải cách ruộng đất đến sau khi nghe hàng trăm vị cố vấn Tàu giới thiệu về quá trình" thủ ti cải cơ" (thổ địa cải cách) và những kinh nghiệm còn nóng hổi của Trung Quốc. Tôi còn nhớ nội dung của 8 bài học chỉnh huấn cải cách ruộng đất cho cán bộ trung cao cấp. Không một cán bộ nào được thoát khỏi cuộc chỉnh huấn này. Đây là một cửa ải, "vượt qua thì mọi con người sẽ lớn lên, trưởng thành, thành người cách mạng chân chính. " 8 buổi lên lớp, hàng chục buổi thảo luận tổ, tranh luận, giúp đỡ nhau để phê phán tội lỗi. Những cuộc tố khổ của nông dân, những cuộc kể lể, triển lãm về tội ác của địa chủ và đế quốc. Những buổi xem phim, xem kịch về địa chủ và nông dân. Mọi sự suy luận dạo ấy đều dẫn đến cực đoan: đã là địa chủ, dù chỉ có 2 mẫu ruộng thì đều là xấu, là tham, là ác, là tay sai đế quốc cả. Đã là cố nông thì đều là tốt, có tinh thần cách mạng, có kỷ luật, có tài năng cả. Sự suy luận bất chấp sự thật nhan nhản. Địa chủ đi kháng chiến, thì chỉ là "giả vờ kháng chiến" để phá hoại cách mạng. Tìm không ra trong một xã ít nhất là hai tên địa chủ ác bá thì là phát động chưa lên, phát mà chưa động, phải làm lại! Đã là học sinh tiểu tư sản thì bản chất luôn là bếp bênh, không vững chắc, chúa là địa vị hưởng lạc, cầu an, bảo mạng, phải gần gũi bần cố nông để học tập và tiến bộ.

Tôi có những anh bạn là chính ủy trung đoàn, tiểu đoàn trưởng, hồi ấy cao hứng theo thời thượng, xúc động tự thâm tâm, thán phục qua bắt rễ xâu chuỗi các anh chị bần cố nông "trong sạch và tuyệt vời", để rồi tìm kiếm trong đó một cô vợ "lý tưởng". Về sau sửa sai cải cách ruộng đất rồi, các chàng bị kẹt cứng, không thể nào sửa được nữa, và thế là ngậm bồ hòn làm ngọt suốt cà đời vì không sao hợp nổi về quan niệm, lối sống, về trí tuệ và tâm hồn với người bạn đời đã kén.

Mỗi một thời có một nhân vật là thời thượng. ê vào những năm 1954, 1955 ấy, giữa khi giông bảo cải cách ruộng đất đang mở rộng, nhân vật thời thượng là các ông đoàn ủy và các ông đội. Đội trưởng cải cách ruộng đất ở một xã thì là nhất thiên hạ rồi. Các vị đoàn ủy chỉ đạo cả một vùng, một huyện. Quyền sinh, quyền sát là trong tay các vị một cách tuyệt đối! Công cụ của các vị là điều lệ cải cách ruộng đất, là các đội cải cách, là tòa án nhân dân, xử án bằng giơ tay, không có luật sư, chẳng có luật pháp. Đội xử án là một tiểu đội súng trường được tuyển lựa trong du kích thuộc thành phần cô nông, mà phải là cố nông không có họ hàng, dây mơ, rể má gì với phú nông và địa chủ... Các vị đoàn ủy luôn giữ bộ mặt trang nghiêm, luôn khoác đại cán xanh mùa hạ, đại cán dạ mùa đông, đi giầy da lộp cộp, tay cắp cặp da đen bóng và đi xe com măng ca Bắc kinh của bác Mao. Tôi từng gặp một vị Ở huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An) hồi ấy chữ quốc ngữ viết chưa thạo, chỉ có chữ ký nguệch ngoặc to tướng, từng ký duyệt y án xử tử hàng chục nhân mạng: kẻ thù của giai cấp và kẻ thù của nhân dân...

Về sau này, khi vụ Mười Vân, giám đốc Công An tỉnh, thường vụ tỉnh ủy Biên hòa bị vỡ lở về tội tham nhũng, lừa bịp, cướp đoạt tài sản của công và hắn bị án tử hình năm 1982, tôi tìm ra được một chi tiết là Mười Vân phát lên từ một anh đội trưởng đội cải cách ở Hòa Bình hồi trước. Một chi tiết rất có ý nghĩa! Các ngành công an, tổ chức cán bộ, tòa án, bảo vệ trong quân đội luôn được coi là những ngành quan trọng nhất của chế độ, cần có lập trường vững vàng hơn cả. Theo phương châm công nông là cốt cán, cán bộ chủ chốt trong các ngành đó ắt phải là công nông. Công nhân thì ở nước ta không nhiều, phần không nhỏ lại là thợ thủ công, công nhân tự do, nên thường những người xuất thân từ bần cố nông là được chọn vào các chức vụ quan trọng nhất. Tôi không thể khẳng định tất cả những người ấy là kém cõi, dốt nát và hư hõng, vì vẫn có một tỷ lệ nào đó chịu khó học tập, vươn lên thành những cán bộ có khả năng. Thế nhưng tôi nghiệm thấy rằng, những cán bộ sa đọa, biến chất và hư hỏng sau ngày toàn thắng, khi chạm đến chiến lợi phẩm, tiền và gái thì phần lớn rơi vào những kẻ như Mười Vân. Khi là đội trưởng cải cách, hắn mới học lớp 4, do trình độ văn hóa quá thấp, hiểu biết về xã hội đơn thuần theo cảm tính, nên khi có quyền lực trong tay, hắn mặc sức tác yêu tác quái, thu vén cho mình nào là nhà lầu, vàng bạc, kim cương, phân phát cho họ hàng và bộ hạ, mặc sức rượu ngon và gái đẹp không còn có gì để tự kiềm chế nữa. Chỉ có những người có trình độ văn hóa nhất định mới hiểu được sự cần thiết phải xử sự Ở đời ra sao cho phải đạo, tránh những thái quá và cực đoan, giữ được đức liêm sỉ. Kẻ vô văn hóa thường tự cho mình cái "phép" làm được mọi việc xấu xa nhất. Chính hắn là tiêu biểu cho kẻ vô học mà thành đạt để có quyền lực (giám đốc công an một tỉnh lớn). Khi bộ Nội Vụ bật đèn xanh cho thi hành phương án 2 (tổ chức cho dân vượt biên để thu vàng cho ngân quỹ) mổi người định giá từ 3 đến 5 lạng vàng, thì ở tỉnh Biên Hòa hắn cho phép bộ hạ tăng lên đến 10, 12 lạng vàng một người, hắn còn tổ chức trấn lột thêm ở các bãi xuất phát ven biển. Vàng bạc, qúy kim, đồ trang sức, đô la, xe cộ của khách hàng vượt biên bọn chúng tước đoạt hết qua khám xét từng người để chia nhau. Mười Vân đã bị xử tử hình, nhưng còn biết bao tên như hắn, có thể còn cao tay hơn hắn, vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật...

Tôi cho rằng đó là cái giá phải trả cho việc mù quáng du nhập một chủ nghĩa ngoại lai, tôn sùng nó lên thành chân lý tuyệt đối. Cả một dân tộc đã đánh rơi mất những giá trị cố hữu và hiện có của mình để vồ vập lấy một tư tưởng thuần túy nông dân, thì ắt phải trả giá như vậy. Và trong cả khối dân tộc ấy quyền tự do, quyền dân chủ của mỗi công dân bị loại bỏ, cấm chỉ mọi sự hoài nghĩ, mọi ý kiến trái ngược. Mọi người phải cam chịu luật độc đoán vô hình ấy, không dám cãi lại, không dám nói lại cái lý của mình. Cái giá mọi người phải trả càng thêm nghiệt ngã!

Sau việc du nhập tư tưởng Mao là việc du nhập 9 quy luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội hồi 1956, việc du nhập phương thức kế hoạch hóa toàn bộ nền kinh tế kiểu Staline (đã có lúc báo chí khoe rằng đã kế hoạch hóa con số sản xuất cụ thể hàng năm bao nhiêu cái kim, bao nhiêu quần đùi, bao nhiêu bọc cao su tránh thai, bao nhiêu hộp tăm tre và tăm gỗ... ), du nhập cả đường lối ưu tiên công nghiệp nặng, hợp tác hóa toàn bộ. Tất cả đều được thực hiện với thái độ mù quáng dai dẳng, không chút hoài nghi và cân nhắc về đường đi, nước bước.

Tôi thấy bài học lớn nhất nên rút ra trong gần 50 năm nay là: Dân tộc Việt nam phải tự mình giải quyết lấy công việc của đất nước mình, không thể mù quáng bắt chước ai, không thể đánh rơi mất cái quyền tư duy và quyết định về số phận của nhân dân mình. Mọi giá trị bên ngoài chỉ được coi là gợi ý và tham khảo, để bồi bổ cho chính nhân dân và đất nước mình mà thôi. Và trong cộng đồng dân tộc phải chấp nhận đa nguyên chính kiến, đề xướng việc dân chủ đối thoại, tôn trọng quyền của mọi công dân được suy nghĩ và nhận thức theo cung cách và nội dung của riêng mình, kiên quyết chống lại việc gò ép và ra mệnh lệnh. Theo tôi việc quan trọng nhất là mỗi con người cần tự khẳng định mình: Không phải là một hạt cát vô tri, giống như đúc với những hạt cát khác thụ động nằm dưới ánh mặt trời, cho người ta dẫm đạp lên, mà phải là ngôi sao lấp lánh, với màu sắc khác nhau, tỏa ra những ánh sáng lung linh khác nhau, góp phần riêng để tạo nên một bầu trời chung đầy sao rực sáng...

Tôi có thể khái quát: đây là nổi đau của chủ nghĩa đồng phục.

Vâng ở đất nước ta hồi đó ai cũng mặc đồng phục- Nam là đại cán, nữ quần đen, áo đại cán. Tóc nữ để dài và kẹp lại, uốn tóc phiđê là tư sản, học đòi đế quốc! Và đồng phục từ ngoài vào trong. Tư duy, quan niệm cũng phải mặc đồng phục tuốt- Chủ nghĩa tập thể trên hết mà! Ăn nói, đi đứng, xử sự, viết lách, suy nghĩ đều phải giống nhau. Một trại lính: Một nhà tù tư tưởng? Khái quát là vậy. Đã đến lúc phải từ bỏ đồng phục để trả lại cho dân tộc mình những giá trị cố hữu, được bồi bổ thêm những giá trị mới của thời đại và trả lại cho mổi công dân mình cái quyền đơn giản và thiêng liêng nhất: được là chính mình, chỉ có thế thôi!

Bài học thứ hai tôi nghĩ đến, đó là trong cuộc sống của công đồng dân tộc cũng như cuộc sống riêng của những công dân phải công bằng và chân thật. Sự bất công và lừa dối là những tai ương khủng khiếp. Hai tội này gắn bó rất chặt chẽ với nhau. Do lừa dối nên bất công và sự bất công lại nuôi dưởng căn bệnh dối trá. Đã mấy năm nay, tôi thường dự những cuộc họp hàng tuần, hàng tháng của cơ quan, nghe những lời phát biểu của mọi người và luôn đưa ra lời phán đoán thầm ở trong bụng: Những ý kiến này là những ý kiến thật, những ý kiến kia là những ý kiến giả? Lúc này anh A mang bộ mặt thật, nhưng lúc khác anh ta lại mang mặt nạ! Cái căn bệnh ađua nói theo, nói hùa theo lãnh đạo luôn thành một cố tật trong một cơ chế khắt khe. Không nói hùa theo thì anh chỉ có thiệt, anh sẽ mang vạ vào thân, cho anh và cho cả gia đình cũng chưa biết chừng! Cho nên đã thành một thói chung trong xã hội là người ta thường nói ra những điều không thật sự là của mình, không đúng những điều mình nghĩ, mà chỉ đưa ra những cái điều mà chính mình không tin, chính mình không nghĩ đó là của mình!

Những người có quyền thế chi phối rất mạnh nhưng người thuộc quyền mình. Đó là quyền nhận xét hàng năm, quyền phân loại là cán bộ tốt hay xấu, cán bộ có triển vọng hay không có triển vọng, là cán bộ nguồn hay không là cán bộ nguồn (cán bộ nguồn có nghĩa là nằm trong diện được chọn để đề bạt và cất nhăc), là cán bộ sẽ được đề bạt trong đợt xét sắp đến hay chưa, là cán bộ dự định sẽ được đưa lên theo quy hoạch hay không, là cán bộ có được xếp trong quy hoạch bồi dưỡng, được cử đi học trường đảng sơ cấp hay cao cấp, đi học nước ngoài để có nhãn hiệu cần thiết cho đề bạt, cất nhắc hay không...

Rồi việc xét để cập nhà mới, tăng thêm diện tích nhà ở, từ 12 mét vuông lên 15 mét vuông, từ 16 mét vuông lên 19 mét vuông hoặc 21 mét vuông... cũng đều dựa vào nhận xét theo tiêu chuẩn định kỳ... Nếu chẳng may rơi vào số "cán bộ đang có vấn đề" là kẹt cứng, là mang họa. Và cái gọi là "đang có vấn đề" thì thường rất bâng quơ, cảm tính. Cậu này đang có vấn đề hình như đang ngủng ngoẳng với vợ, cô kia dạo này hay làm dáng, thích quần ống loe, lại thường rủ bạn đi khiêu vũ... Anh này dạo này uống bia hơi nhiều- Chú kia không hiểu tiền đâu chuyên hút thuốc lá 3 số 5. Hoặc quan trọng hơn cả là: hòai nghi về chủ nghĩa xã hội, có lần nói xấu lãnh tụ, nói xấu đồng chí Tổng bí thư... Rồi anh kia có vẻ thân thiết với một số Việt kiều về nước từ các nước tư bản... Chị kia thường nhận nhiều thư của bạn bè không rõ ràng từ thành phố Hồ Chí Minh... Tất cả đều có thể coi như là "đang có vấn đề", để chú ý theo dõi, để hãm lại mọi quyết định tăng lương, cân nhắc, đề bạt, cử đi học, để xếp ở bên rìa của những cỗ xe cơ chế đang chạy.

Trong không khí sống dò xét nhau: trên dòm xuống dưới bằng con mắt dọa nạt, ta đây có quyền, dưới nhìn lên trên e dè lo ngại và phải đối phó, cam chịu, cuộc sống luôn căng thẳng, phải dấu kín những điều tuy là ngay thật, chính đáng, nhưng có thể sinh hiểu lầm có hại cho bản thân...

Đầu năm 1990, nghị quyết Trung ương lần thứ 8 nhận định rằng sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là do âm mưu lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động trong và ngoài nước, của bọn CIA và nhà thờ VATICAN... Khi phổ biến ở báo NHÂN DÂN, mọi người đều im lặng tiếp thu... Thế nhưng khi gặp riêng, thì phần lớn đều cho rằng nhận định như thế là chủ quan, láo khoét, chính nhân dân các nước ắy đã vùng dậy, từ bỏ những chế độ quan liêu, thiếu dân chủ, độc đoán và tham nhũng, đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân. Tác dụng bên ngoài dù quan trọng không thể là quyết định. Trước đó tôi viết một bài trong số Nhân dân Tết âm lịch đầu năm 1990 với đầu đề: "Sắc xuân của dòng chảy", nhận xét rằng: Cái gì phải đến đã đến. Nhân dân Đông Âu đã phủ định những chế độ thiếu dân chủ và công bằng xã hội, họ không thể nào cam chịu mãi với bất công và nghèo đói, với chủ nghĩa xã hội hiện thực xa lạ với chủ nghĩa xã hội khoa học... Bài báo này của tôi bị coi là viết trái với nghị quyết của trung ương đảng. Nhiều anh chị em làm báo trẻ rất tán thành nhận định của tôi, bắt tay khen ngợi và hoan nghênh tôi về bài báo trên. Nhưng khi phát biểu trong tổ chức, khi những người trong tổ chức lên án tôi, thì họ ngồi yên lặng, không tán thành, không phụ họa với ý kiến ấy, cũng không lên tiếng phản bác. Tôi biết rằng với cơ chế này, anh chị em dù tốt cũng không thể làm gì hơn được. Con người không còn được là chính mình. Sự dối trá đã ngự trị quá vững bền rồi. Sự bất công là lẽ thường tình. Trừ khi phá bỏ được cơ chế quan liêu và độc đoán, thủ phạm gốc của tất cả những tội lỗi.

Khi việc truy tìm nguồn gốc của giai cấp, khi chủ nghĩa lý lịch công khai hoành hành, khi mọi "liên quan" đều được ghi vào sổ sách, tất nhiên con người phải đối phó để tránh mọi hiểm họa. Hơn 16 năm trước, có anh chị em ruột ở nước ngoài là một điều nguy hiểm và sỉ nhục. Cũng vào thời gian ấy, có bà con anh chị em sống trong Nam, nhất là làm việc trong cái gọi là bộ máy ngụy quân, ngụy quyền thì thật là khốn khổ, vì cái dấu hỏi "liên quan về chính trị". Thế là chi bằng dấu kín, không biết, không khai. Sau ngày thống nhất, cả một phong trào "miền nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng", hòa cả làng, xí xóa cả làng. Sự thật mới rõ ra là gần như gia đình nào cũng có người thân ở phía bên kia, vậy mà trước đó cứ phải kín như bưng. Bà con anh chị em ở nước ngoài cũng vậy. Sự dấu diếm một thời nói lên cả một cơ chế thành kiến, định kiến và suy diễn kiểu quan liêu về chính trị, bắt tội và kết tội nhau một cách vô lý, tạo nên sự xét nét, che dấu và dối trá lẫn nhau trên quy mô toàn xã hội.

Điềm tĩnh nhìn lại những ngày tháng và những cơ quan tôi đã sống và trải qua, tôi bỗng thấy rợn cả người. Biết bao giá trị chân chính, lương thiện của con người bị nhiễu loạn. Những anh nào khéo che đậy những nhược điểm và kém cỏi, lại biết xu nịnh thì ắt tiến thân được thuận lợi. Cả xã hội phải trả giá cho những sự tiến thân theo cửa sau như thế. Vị trí xã hội không được xếp đúng theo tài năng và nhân cách thật sự, mà theo sự lừa dối, nịnh hót và những thủ đoạn tiến thân...

Sau ngày miền Bắc giải phóng năm 1954, hàng nghìn các em trai và gái thuộc các gia đình tư sản bị phân biệt đối xử. Đó là những gia đình tư sản dân tộc, mức sống chẳng hơn gì loại tiểu tư sản ở các nước phương Tây- Vậy mà bị coi thuộc thành phần xấu (bóc lột), thành phần có tội! Thật khổ cho các em đó. Người ta nói: có thể chọn bạn bè chứ ai có thể chọn được cha mẹ! Các em phải đi lao động ở các công trường, nông trường. Thi vào đại học rất khó. Mặc dầu trong các em có rất nhiều người có chí, có nghị lực, biết thân phận mình nên càng gia công học rất giỏi. Các em thường đỗ với điểm cao, nhân cách tốt, thế nhưng cái thành phần giai cấp "xấu" cứ như gông đeo mãi vào cổ, không sao ngóc đầu lên được. Số này rất ít người được đi học ở nước ngoài, không được tin cậy giao công việc, luôn ở vị trí điếu đóm, thừa hành... Những tài năng trẻ ấy cứ bị mai một mãi. Cho đến sau thống nhất, tuổi trẻ ở miền nam cũng lại có một bộ phận gọi là thuộc gia đình ngụy quân, ngụy quyền. Họ vấp phải tình trạng tương tự, làm hao phí biết bao tài năng của đất nước! Sự bất công đối với con người, nhân danh một kiểu đấu tranh giai cấp cực đoan và phi lý đã đưa đến biết bao đau khổ và bất hạnh cho tuổi trẻ, và làm thiệt thòi không ít cho toàn xã hội.

Bất công và lừa dối gần như thành nếp sống! Dở lại những chồng báo cũ, chúng tôi cảm thấy xấu hổ. Cả một thời báo chí đăng tin năng xuất cực cao 1 hec- ta đến 100 tấn, rồi 200 tấn của các thửa ruộng thí nghiệm ở Trung Quốc, đăng cả những tấm ảnh (bịp) các diễn viên ương ca Trung Quốc nhảy múa trên những thảm lúa ken nhau chật cứng, và lừa bịp đến mức độ ca ngợi lên tận mây xanh ý kiến của "Chủ tịch Mao Trạch Đông vĩ đại" là nghề nông sẽ trở thành một nghề dể ợt kiểu làm vườn, làm vườn mà chơi! Thật là một tấc đến trời! Mà vẫn không được phép hoài nghi và phê phán.

Có những lầm lẫn to lớn, mà lại lầm lẩn theo kiểu trịch thượng kia, phạm rồi không cần xin lỗi ai cả! Đó là số báo Nhân dân kỷ niệm đặc biệt 600 năm ngày sinh của nhà văn hoá lớn của dân tộc Nguyễn Trãi, ra cuối năm 1980, đăng lại Đại cáo bình Ngô và một bức ảnh cực lớn đóng khung ở ngay trang 1. Thế mà cái ảnh ấy lại là sai! Không phải ảnh cụ Nguyễn Trãi, mà là bức ảnh của cụ Dương Khuê mặc triều phục của triều Nguyễn cuối thế kỷ 19, nghĩa là cách nhau đúng 5 thế kỷ! Vậy mà đến nay vẫn không một lời xin lỗi bạn đọc!

Cứ như là không có gì xẩy ra hết! Thật đáng sợ!



Khi những nhà cầm quyền không còn khả năng xấu hổ nữa thì thật là đáng sợ. Một số người lãnh đạo và báo chí kịch liệt lên án bí thư tỉnh ùy Vĩnh phúc Kim Ngọc một cách vũ đoán, thế rồi sau đó cuộc sống chứng minh chính kiến của ông ta là đúng, nhưng không một ai xin lỗi ông ta (đã mẫt trong tủi nhục)và gia đình ông ta cả!

Và có cả những sự lừa dối đến độ trơ tráo. Mẹ và chị của nghệ sĩ Đặng Thái Sơn đã kể cho tôi nghe câu chuyện về Đặng Thái Sơn thành tài. Cái chính là do bố mẹ khuyến khích, dạy dỗ Sơn từ tấm bé. Vì bố Sơn là nhạc sĩ Đặng Đình Hưng bị định kiến nên Sơn cũng bị kẹt, sang Liên Xô học cũng là nhờ thầy giáo Liên xô phát hiện và kèm cặp. Đi thì ở Ba Lan cũng do Sơn và thầy giáo tự chạy, sứ quán Việt nam ở Matxcơva chẳng giúp sức gì thêm cả, bỏ mặc Sơn tự lo lấy mọi chuyện. Đến khi giật giải rồi thì khác hẳn. Sứ quán họp báo, Bộ Văn Hoá họp báo. ủy? ban liên hiệp văn hóa nghệ thuật, hội nghệ sĩ âm nhạc họp báo, vơ vào một cách không chút ngượng ngùng rằng: Đây là kết quả của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, phát hiện và vun trồng những mầm non của đất nước từ nơi sơ tán dưới bom đạn Mỹ, được chủ nghĩa xã hội ưu đãi chăm sóc, để thành tài ở Liên Xô và giật giải ở Vác Xô vi, vân vân, và vân vân... Nói lấy được, cứ như sự thật quả là như vậy!

Đặc quyền, đặc lợi có những biểu hiện lắm vẻ. Sau năm 1975, Văn phòng trung ương và Ban Tài chính Quản trị trung ương (cũng là cơ quan tài chính của đảng) đi thống kê và phân phối những công thự, biệt thự Ở các tỉnh phía nam. Bộ Chính trị được họ xí những nhà sang trọng nhất. thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Vũng tàu, Nha Trang... họ dành những biệt thự loại A1 cho Bộ Chính trị, thường là cho từng ủy viên Bộ Chính trị. Đó là nhà của anh Ba, anh Năm, anh Sáu... thường là đóng im ỉm, có người quét dọn, trông coi quanh năm, những "ông chủ" chỉ dạo qua vài ngày trong cả năm!

ê vực Quảng Bá bên Hồ Tây, nhà họp con Rùa (mái nhà hình mai rùa) với hơn một chục biệt thự vây quanh là một khu cấm, canh gác cẩn mật. Nhà họp Con Rùa ấy trên công văn của văn phòng Trung ương mang tên nhà họp của Bộ Chính trị. Mỗi biệt thự đều mang những tên ông chủ của nó: 12 hay 14 Uy viên Bộ Chính trị đương chức. Từ năm 1988, nó đã được chuyển thành cơ sở kinh doanh du lịch của Công ty Hồ Tây do Ban quản trị Tài chính trung ương đảng quản để kiếm lời.

Phía Bắc thành phố Hồ Chí Minh, vùng Tân Uyên thuộc tỉnh Sông Bé có một khu rừng cao su rộng xen với những bãi đào lộn hột. Đậy là khu săn bắn rất được ưa thích của các quan chức cơ quan thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Mổi khi có khách trung ương vào hay ở thành phố lên là cả vùng nhộn nhịp hẳn lên. Giám đốc nông trường cao su phải huy động từ hai đến bốn đội sản xuất bỏ công việc của mình đi lùa thú rừng vào "bẫy"... cho các cụ bắn. Các quan chức cấp cao ngồi trong những ngôi nhà nhỏ lợp tranh chống nắng, giương súng giữa những hớp rượu qúy và những làn khói thuốc lá thơm để hạ thú: lợn rừng, nai, chồn, cầy hương, kỳ đà... Quanh những ngồi nhà ấy là suối tự nhiên. Chiếc cầu gỗ nối liền căn nhà được kéo lên để bảo đảm an toàn khi các nhà "thiện xạ" đã yên chỗ. Một kiểu đi săn qúy tộc. Qúy vị đâu có cần biết anh chị em công nhân nông trường vất vả ra sao, nông trường bị lỗ lãi thêm như thế nào do phải phục vụ những "đầy tớ của nhân dân" theo kiểu như thế, giữa sự đói nghèo đến cùng cực của đồng chí, đồng bào.

Lại có kiểu đặc quyền đặc lợi do dưới thực hiện với trên đã thành nếp. Trước khi đoàn của Tổng bí thư và gia đình rời Đà Lạt, tỉnh ủy Lâm Đồng tặng cho tất cả thành viên của đoàn hơn 30 người, mỗi người một gói quà khá lớn, có chè Bảo Lộc, cà phê Buôn mê Thuột, rượu bổ cùng mấy gói cao ác ti sô. Phu nhân, con trai, con gái, cho đến cháu nội, cháu ngọai... mới 3, 4 tuổi của vị lãnh đạo đều có phần của mình như nhau. Các cậu ấm, cô chiêu vừa ngỏ ý muốn nếm thịt rừng là ngay đêm ấy Văn phòng tỉnh ủy cử ngay một số đi săn băng rừng lội suối cố lôi về một con hoẵng...

Cho đến gần đây, nhân kỷ niệm ngày thành lập đảng cộng sản Việt nam 3. 2. 1930- 3. 2. 1991, người lãnh đạo cao nhất của đảng vẫn còn nói: Cán bộ là người lãnh đạo, đồng thời là người đầy tớ của nhân dân. Chắc chắn nhân dân nghe được phải lên cơn sốt vì dị ứng. Thà không nói còn hơn vào lúc này, vì thực tế cuộc sống diễn ra khác hẳn. Cán bộ càng ở trên cao càng có nhiều đặc quyền, đặc lợi lộ liễu và tinh vi, từ nhà ở, xe cộ đến ăn uống, vợ con, dâu rể, cháu chắt đều được hưởng chính sách "chiếu cố". Lại còn quà cáp, biếu xén, khen thưởng đủ loại, cộng với lợi ích đặc biệt khi đi công tác nước ngoài. Thà đừng nói. Còn cứ nói bừa ra thì thật coi thường dư luận và nhân dân, không còn biết liêm sỉ là gì nữa.

Nhân dân mĩa mai bằng những câu thơ vỉa hè:

Tôn Đản là chợ vua quan

Nhà thờ là chợ trung gian nịnh thần,

Đồng Xuân là chợ thương nhân,

Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng,

hay

Đầy tớ thì đi Vôn- ga

Bố con ông chủ ra ga đợi tàu,

Đầy tớ thì ở nhà lầu,

Bố con ông chủ giấy đầu che mưa

Đầy tớ tiệc rượu sớm trưa,

Bố con ông chủ rau, dưa qua ngày...

Vấn đề nhà cửa là vấn đề gai góc và bất công bậc nhất còn tồn tại. Đã có hàng nghìn lá đơn kiện tụng, hàng trăm bài báo yêu cầu phải làm rõ vấn đề này. Họ phát hiện những hộ cán bộ chiếm lĩnh những 2, 3 biệt thự Ở thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu... cho bà con, anh em, thân thuộc, bạn bè, dành cho dâu và con rể, cho cả cháu chắt nữa. Bao nhiêu việc cấp, mua bán, nhượng lại kiểu móc ngoặc, đút lót trong ngành nhà cửa, đất đai hay trong cơ quan chính quyền và cấp ùy đảng? Đây là một nét bất công lớn, vì cũng ở một cấp như nhau, một hoàn cảnh tương tự, mà người được cấp không nhà cao, cửa rộng, trị giá bằng tiền lương hàng trăm năm làm việc, người thì không được gì cả! Các Hội đồng phân phối nhà, các công đoàn bị qua mặt hết. Nhiều vị thủ lãnh ở trên rất lo sợ chuyện nhà cửa bị đổ bể, bị đưa ra ánh sáng công luận và luật pháp, nên họ cùng nhau thỏa thuận ém nhẹm vấn đề này, làm như trời yên, biển lặng. Họ lo sợ sự phẫn nộ của nhân dân sẽ chụp lên đầu họ. Đây có thể là một điều thử thách cực lớn cho những ai nắm quyền sau đại hội đảng 7.

Theo tôi được biết qua những cán bộ công tác trong nghành nhà đất ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, việc cấp nhà, cấp đất suốt một thời gian dài hết sức tùy tiện. Vì chưa có luật về bất động sản, về nhà đất và các văn bản pháp quy lại thay đổi luôn luôn nên sự vận dụng rất lỏng lẻo. Có thể nói hàng nghìn vụ cấp nhà đất là vô nguyên tắc, là không qua thủ tục nghiêm cách, mà chỉ là qua thư tay của những người có quyền lực, của anh Hai này, ông Ba nọ, chị Tư kia, phần lớn là trong cấp ủy, nhất là của các bí thư tình ủy, bí thư thành ủy... Đây là một kiểu chia chác tài sản quốc gia một cách bí mật, âm thầm trong đêm tối. Hiện các vụ kiện cáo về nhà cửa là vào loại lớn và nhiều nhất và bất công về mặt này cũng lớn nhất. Có hộ người không ở hết được diện tích, rộng thênh thang, còn có nhà "dự trữ". Có hộ chen chúc nhau một cách thảm hại!

Hồi tháng 8. 1990 tôi gặp bà Trịnh Văn Bô tại nhà bà ở phố Nguyễn Gia Thiều. Bà là nhà tư sản yêu nước đã góp cho cách mạng, cho "tuần lễ Vàng" hồi cuối năm 1945 hơn 3000 lạng vàng và cũng cho nhà nước mượn nhiều nhà cửa lớn (với cam kết khi cần sẽ trả lại gia đình bà), trong đó có ngôi nhà 46 phố Hàng Ngang nơi chủ tịch Hồ Chí Minh ở và viết Tuyên ngôn độc lập, nay trở thành nhà lưu niệm của nhà nước. Do con cháu đông và sinh trưởng thêm, hiện bà và gia đình ở rất chật chội, rất cần nhà, muốn "xin lại" một nhà với vài phòng ở, mà chạy hết nơi này đến nơi khác, không ai giải quyết cả. Gần đây phải kêu với Chủ tịch Hội đồng nhà nước, mà cũng mới chỉ được giải quyết trên nguyên tắc, trên giấy tờ. Nghe bà kể, tôi nghĩ chính bà đã từng là bộ trưởng bộ tài chính" trên thực tế của chính phù lâm thời hồi chính quyền còn trong trứng nước, công thật là lớn, thật là một tấm lòng vàng. Đến nay, người ta không còn muốn nhớ đến đóng góp của bà trong thời điểm hệ trọng ấy. Một sự vô ơn, bạc nghĩa, một thái độ bất công dai dẳng, trong khi những người phát ngôn của chế độ luôn nói đến đạo đức, đến đạo lý, đến lẽ công bằng, đến tình nghĩa của con người mới!

Lừa dối và bất công đã mang lại biết bao nhiêu điều bất hạnh cho công dân trong xã hội. Ngay thật và công bằng xã hội là yêu cầu khẩn thiết của nhân dân. Một thất bại cay đắng của những người cầm quyền vừa qua là: Việc làm không đi với lời nói, nhân dân không sao còn có thể gửi niềm tin ở những người nói một đằng, làm một nẽo, ngày càng làm cho xã hội xơ xác, tiêu điều, những người lương thiện, ngay thẳng bị dồn vào thế cùng cực của bất hạnh, nghèo khổ và tủi nhục. Tôi tự hào về cuộc sống chiến đấu và làm việc hơn 40 năm qua. Tôi không chối bỏ quá khứ mình và yên lòng là đả xử sự như mợt người yêu nước thực lòng, góp một phần nhỏ nhoi vào sự nghiệp chống ngoại xâm. Trong cái cơ chế giáo điều, quan liêu, cố hủ, duy ý chí ấy có phần đóng góp của tôi. Đó là tội lỗi, là sai lầm. Nhất là trong gần 10 năm nay, tôi đã từng lên lớp, viết bài, rao giảng những quan điểm giáo điều, duy ý chí, có khi mang màu sắc cực đoan. Mặc dầu gần ba năm trở lại đây tôi đã nhìn nhận lại những việc làm của mình, dám nói những tiếng nói mạnh bạo. Ở báo Quân Đội nhân dân và báo Nhân Dân, tôi có chân trong cấp ủy, tham gia Ban Biên tập, trên chiếc ghế ấy, tôi đã tham gia xét duyệt biết bao nhiêu trường hợp. Từ khen thưởng, kỷ luật, kết nạp đảng viên, cất nhấc, đề bạt... đến chuyện xét cấp nhà, nhận xét cán bộ và nhân viên cấp dưới.

Qua đó tôi góp phần vào không ít những vụ vô lý, oan trái, kiểu thành kiến, định kiến, khuyết điểm nhỏ xé ra to, phê phán, chụp mũ, thiếu công bằng và khách quan. Tôi đã xuôi chiều, ađua theo số đông, nghĩ rằng, mình không sức nào chống chọi lại cái cơ chế này. Một số anh em bị đối xử ác độc, bắt ngồi chơi xơi nước, không cho viết bài, bị vô hiệu hóa chỉ vì có một số chính kiến riêng. Bản thân tôi trong thâm tâm không đồng tình với cách đối xử ấy, rất thông cảm với anh em đó, nhưng mũ ni che tai, không công khai bênh vực và đấu tranh cho lẽ phải. Đây là sự hèn nhát của kẻ sống ích kỷ, có thể nói là của kẻ tòng phạm. Có những lần Ban biên tập góp ý về những người trong cơ quan nên xét kết nạp vào đảng, tôi thấy rất rõ đây là chuyện vớ vẩn, vô tích sự, vì những người tâm huyết tài năng, sống chân thực thường bị định kiến và chụp mũ là sống không thuần, tự kiêu hoặc lập dị để gác lại, còn những người dễ bảo, gọi dạ bảo vâng, tròn trịa không có chút góc cạnh, theo tác phong công chức, lại biết lấy lòng các "quan trên"... thì được khen là sống thuần!, có đạo đức!, có triển vọng và thường được chọn vào đảng. Đưa toàn những người mờ nhạt, dể bảo kiểu công chức như thế thì đảng đâu còn được tính tiền phong, đâu còn là đảng của trí tuệ và tài năng nữa! Tôi biết vậy nhưng xuê xoa cho qua chuyện, cảm thấy mình không cưỡng lại nổi cơ chế, cứ để mặc cho yên chuyện. Do cố thủ, xuê xoa, thỏa hiệp như thế, nên tôi cũng góp phần làm cho cái cơ chế cổ hủ ấy có được sức sống chi phối một cách tai hại tập thể hơn ba trăm con người. Cái phản ứng của tôi mấy năm sau này phần lớn chỉ âm thầm phê phán, âm thầm chống đối, âm thầm phản kháng! hoặc chỉ nói lên sự bực dọc của mình trong nhóm nhỏ, ở bên lề các cuộc họp chính thức.

Hồi năm 1961, tôi được tất cả sĩ quan và quân nhân ở cơ quan khu bộ quân khu 4 đóng ở Vinh bầu làm Chủ tịch Hội đồng quân nhân của cơ quan này. Chức trách của Hội đồng là đại diện quyền lợi quân nhân trong các vấn đề: xét kỷ luật, xét khen thưởng, bảo vệ quyền lợi vật chất của anh em, kiểm tra chi tiêu các khoản chi phí phụ cấp xã hội, kiểm tra chi tiêu và vệ sinh các nhà bếp, nhà ăn tập thể... Suốt hai năm, tôi thường làm Chủ tịch ủy ban bầu cử của cơ quan, khi bầu đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An và thị xã Vinh. Tôi được người của Ban bảo vệ quân khu gài vào ban bầu cử cho biết "theo lệnh trên", một số phiếu bầu được phân phát đã được đánh dấu riêng nhằm theo dõi một số người tình nghi là không hài lòng với chế độ, bất mãn, họ gạch tuốt tất cả danh sách ứng cử trong lần bầu trước. Tôi biết như vậy là trái với nguyên tắc bỏ phiếu kin, vi phạm quyền lựa chọn của cử tri, nhưng cứ để cho họ làm, lại còn nghĩ rằng đây là một việc cần thiết để bảo vệ trong sạch hàng ngũ quân đội!

Cũng trong thời gian này, tôi được cử làm thẩm phán quân nhân tại tòa án quân sự của quân khu 4. Chánh án thường là phó tư lệnh Quân khu, thẩm phán chuyên nghiệp là cán bộ của Ban quân pháp. Các phiên tòa thường xử các tội biển thủ công quỹ, ngộ sát do dùng vũ khí tùy tiện hoặc tai nạn của vận tải quân sự, tự sát thương để xuất ngũ... Những vụ xét xử nói chung đều nghiêm, hợp luật. Chỉ có là tất cả các mức tuyên án đều được định trước và báo cáo cho Quân khu ủy, theo nguyên tắc đảng lãnh đạo thường xuyên, tuyệt đối và toàn diện! Hồi ấy tôi cho đó là đìều tất nhiên. Nay nhìn lại, thì ra bản thân cũng góp phần làm cho vai trò của đảng trùm lên vai trò của nhà nước, trái với hiến pháp và luật pháp, trái với nguyên tắc của một chế độ dân chủ thật sự. Có nhìn lại mới thấy phải từ bỏ tất cả những quan niệm cũ, đổi mới thật sự để thực hiện một nền dân chủ chân chính.

Nhìn lại cuộc

đời mình, sống trong một chế độ quan liêu và hà khắc gần 50 năm, bài học lớn thứ ba của tôi có thể rút ra là: Trí tuệ và tình thương là hai yếu tố gần bó những thành viên cuả xã hội, thiếu hai điều ấy, xã hội ắt phải rã rời. Những người lãnh đạo của đảng và nhà nước ngày càng tỏ ra kém hiểu biết so với yêu cầu của trách nhiệm. Họ chỉ có trình độ học vấn ở mức trung bình, trong khi trong xã hội đã có hàng ngàn tiến sĩ, hàng chục vạn cử nhân và hàng triệu tú tài... Người kém hiểu biết lại thường hay chủ quan, không thấy cái dốt nát, kém cỏi của chính mình Cho nên cái rất yếu của các vị ủy viên Bộ chính trị là rất ít lắng nghe, không chịu lắng nghe! Đã thế, gặp vấn đề gì họ cũng nói, lại nói quá nhiều, nói thao thao, bất tuyệt, họ quá quen ra mệnh lệnh, chỉ thị. Hồi giữa năm 1987, tôi thấy rất phấn khởi thấy tại cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ và trí thức suốt hai ngày Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh chỉ nói có 10 phút mở đầu và 40 phút kết luận, còn hơn 10 giờ là lắng nghe. Nhưng đó là buổi duy nhất ông ta làm như thế. Càng về sau, rồi gần đây, ông ta nói càng nhiều và không còn lắng nghe người khác! Tư duy con người cũng như một bộ pin, phát ra mãi mà không nạp thêm năng lượng thì hiểu biết ngày càng cạn, suy luận ngày càng cùn, sức hấp dẫn ngày càng kiệt. Càng nói dai và nói dài thì chỉ phơi bày sự nghèo nàn về trí tuệ. Lắng nghe chính là tích thêm năng lượng cho hiểu biết.

Coi thường kiến thức, trí tuệ của người ngoài Đảng là một điều tệ hại của cơ quan lảnh đạo. Có nhiều vị nhân sĩ, trí thức ngoài Đảng, có hiểu biết, có lương tâm, có phẩm chất chính trị và đạo đức hơn hẳn nhiều người lãnh đạo đảng cộng sản. Đó là những ông Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Xiển, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Văn Hiếu, Tôn Thất Tùng... Trong điều kiện sống khó khăn, nắm trong tay quyền lực, họ đều giữ đức tính giản dị, liêm khiết. Chính cốt cách văn hóa đã kìm giữ các vị khỏi những cám dỗ vật chất thấp hèn mà nhiều cán bộ cộng sản cao cấp không vượt qua nỗi. Cũng có những trí thức đảng viên có tâm huyết, trong sạch và hiểu biết. Họ đều ở những vị trí thấp kém vì không chịu hạ mình luồn cúi, luôn giữ nếp sống thanh bạch. Đó là các ông Bùi Công Trừng, Chủ nhiệm ủy ban khoa học nhà nước những năm 1950, nhà luật gia Trần Công Tường, ông Lê Văn Hiến chẳng hạn. Nếu những kiến nghị của ông Bùi Công Trừng được lắng nghe: không chạy theo sản xuất lúa gạo đơn thuần, tự túc lương thực một cách hình thức, cần phải sản xuất nhiều lương thực hàng hóa, kết hợp thị trường trong nước với thị trường nông sản thế giới, thì nông nghiệp ta đã khác hẳn. Vì lúc ấy hai chử hàng hóa và thị trường là cấm kỵ. Hoặc như những đề nghị kiên trì của ông Trần Công Tường từ những năm 1950, 1960 về xây dựng luật pháp và ngành tư pháp, lập Bộ Tư Pháp, và trường Đại học luật khoa đã không được lắng nghe. Đất nước thiếu luật pháp nặng nề, Bộ Tư Pháp mới được thành lập gần đây và hiện vẫn chưa có trường Đại học luật (mới chỉ có một khoa đại học pháp lý).

Tôi đả nghe ông Lê Văn Hiến kiến nghị về hệ thống thu thuế mới, cho phép tư nhân kinh doanh hợp lý vá nộp thuế. Tổng bí thư Lê Duẩn bác bỏ thẳng thừng: "Không, không được, không thể làm như bọn tư bản! Các đồng chí yên tâm, thuế nước ta sẽ lấy chính ở nền sản xuất ưu việt của các cơ sở quốc doanh! Đó là nguồn thu chính, rất dồi dào, rất vững chắc của các nước xã hội chủ nghĩa chúng ta!" Trên thực tế thì hầu hết các ngành và các cơ sở quốc doanh đều thua lỗ dài dài. Đến nay mới nhìn ra thì là quá chậm.

Giáo sư Tạ Quang Bửu bị mất chức bộ trưởng Đại học chỉ vì ông tỏ ra không thông với kiểu "chủ nghĩa lý lịch" được áp dụng trong công tác tuyển học sinh đại học và tuyển đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Vị trí thức cỡ lớn này mất trong cảnh bần hàn, nhưng được sự quý mến của đông đảo học sinh đại học, của tuổi trẻ, của giáo giới cả nước. Những người lãnh đạo luôn tự cho rằng mình giữ độc quyền về hiểu biết, không cần nghe ai khuyên bảo, đề đạt ý kiến!

Đã vậy tình thương lại tỏ ra hiếm hoi! Người cầm quyền không thể độc ác được! Từ hồi năm 1975, tôi gặp hơn 40 viên tướng Sài Gòn đi cải tạo, gặp gần 100 nhân viên cấp cao ra trình diện, và sau đó tôi đi khắp các trại ở Long Thành, Thủ Đức, Bà Rịa, Long Khánh, Tây Ninh, rồi ra Bắc đi lên tận vùng Tân Phú ở Tuyên Quang... Tôi băn khoăn không thể lý giải được rằng: người cộng sản thường tự nhận là con người nhân ái, sao lại có thể chủ trương đầy ải hàng loạt, hàng chục vạn con người trong cảnh thật sự là tù đầy cực nhọc đến thế này? ở trại Thủ Đức, các chị em nữ sĩ quan nằm la liệt trên săn xi măng, trải ni lông mỏng mà không có chiếu, có màn. Ở Tuyên Quang có nhiều người bị giam tuổi 68, 70, 78 tuổi, ăn không đủ chất, thiếu sinh tố, mù mắt, suy kiệt. Để làm gì? Họ có thật sự được cải tạo, hiểu ra lý lẽ về cuộc chiến tranh này, hay họ thêm nản lòng và cay đắng với chế độ mới? Tôi đã xem tài liệu học tập cho các viên tướng Sài Gòn và bài chuẩn bị lên lớp của người quản giáo ít tuổi. Tôi thấy rõ việc dạy và học đều là miễn cưỡng, hình thức, không tạo được kết quả mong muốn. Tôi đã nói lên chính kiến của mình cho ông thứ trưởng Bộ Nội vụ Viễn Chi, đại diện của bộ Ở miền Nam. Ông ta chỉ cười nhạt và im lặng. Tôi không thể hiểu đầy đủ chính sách trên đây là do ý kiến của ai đề xuất, đã thảo luận, cân nhắc kỹ lợi hại, nên và không nên chưa? Vì đây là một chính sách quốc gia, đụng chạm đến hàng chục vạn con người và gia đình, đến hàng triệu thân thích và bạn bè, có tác dụng về tinh thần và tâm lý đến toàn bộ xã hội, nhất là miền Nam. Gọi là trại học tập nhưng thật sự đó là những trại giam. Do số lượng quá đông, nên tình hình các trại thật là tồi tệ. Trong trại, việc quản lý rất yếu, có thể nói là cổ hủ, thường dùng người này để kiểm soát người khác, trái hẳn với việc cải tạo ở những trại giam hiện đại, có sư phạm hẳn hoi để giáo dục những trẻ em hư, những tội phạm giết người, những người nghiền ma túy lâu năm... Có người sẽ cãi tôi đó là một việc làm cần thiết, không đem đi bắn, không đánh đập chửi bới họ là tốt quá rồi, còn muốn gì hơn nữa? Cũng có người sẽ nói rằng đó là những tên tội phạm chiến tranh, chịu trách nhiệm về cái chết của hàng triệu đồng bào và đồng chí ta, đạo lý đâu dễ mà thương xót chúng? chiến tranh là thế, đó là quy luật của người chiến thắng, xót thương phải để giành cho phía ta, hơi đâu hoài phí cho kẻ thù, những kẻ ở bên kia trận tuyến? Cũng lại có người cho tôi là kẻ lập trường không vững, nhìn nhận không khách quan. Chẳng phải trong số trên dưới 1 triệu gọi là ngụy quân, ngụy quyền thì số bị đi cải tạo dài hạn chỉ bao gồm trên 10 vạn người, nghĩa là chừng 1 phần mười, còn 9 phần mười đã được hưởng quyền công dân ngay từ đầu rồi là gì? Chẳng phải đã có ông chuẩn tướng Nguyễn Văn Hạnh tham gia mặt trận Tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Xuân Oánh, quyền thủ tướng cũ được bầu làm đại biểu quốc hội rồi là gì? Tôi vẫn nghĩ khác. Tất cả những nỗi đau khổ của con người không đáng để cho ta quan tâm hay sao? Nỗi đau khổ của bên này hay bên kia trận tuyến, nhất là một khi chiến tranh đã chấm dứt, có nên vẫn thuộc những thang giá trị khác nhau chăng? Nỗi đau này thì đáng quan tâm, nỗi đau kia thì không đáng quan tâm, cần dửng dưng ư? Có nên lấy những chuyện tàn sát dã man ở nước này, nước khác ở những thời điểm đã qua để biện hộ cho chính sách của mình là vừa phải, là độ lượng quá rồi, là khoan hồng quá rồi không? Tôi vẫn giữ nguyên chính kiến là đã có chủ trương và hành động trừng phạt quá nặng nề và kéo quá dài, không cần thiết đối với một số khá lớn người thuộc chế độ cũ, trái với chủ trương hòa giải và hòa hợp dân tộc đã được công bố, trái với chính sách độ lượng của người chiến thắng sau khi chấm dứt chiến tranh. Điều này khơi sâu thêm những tỵ hiềm và thù hằn đáng lẽ cần làm dịu bớt để xóa bỏ, làm cho nỗi đau của khá nhiều người, nhiều gia đình tăng thêm một cách rất không cần thiết, hơn nữa, lại rầt có hại. Chính sách ấy là một chính sách thiếu lòng nhân ái truyền thống của dân tộc, một chính sách thiếu sáng suốt và thiếu khôn ngoan, làm lòng dân không yên, làm hao hụt và mất mát biết bao tài năng và nghị lực để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, làm nãn chí và thất vọng bao nhiêu người có thiện chí đối với đất nước và quê hương! Cách nhìn nhận và đề ra chính sách kiểu lên gân, dựa trên quan điểm đấu tranh giai cấp thô sơ và cực đoan kiểu ấu trĩ luôn tác hại đến cục diện chính trị và sức lực của dân tộc... Sao người ta cứ hay nhìn xuống để so sánh với những việc làm xấu hơn, tồi tệ hơn, ác độc hơn của những người khác, để bảo vệ những chủ trương thiếu nghiã tình và thiếu khôn ngoan của mình, mà lại không chịu nhìn lên để học hỏi cách làm có nhân, có nghĩa và trí tuệ hơn? Đời Trần thướ trước, cha ông ta sau khi kết thúc chiến tranh đuổi quân giăc về thực hiện hòa hợp và hòa giải, công bố đại ân xá cho những kẻ từng hợp tác với ngọai bang, đốt hết những giấy tờ cũ để mở ra một thời kỳ hòa ái và thịnh trị. Bắt đầu tự đó ai phạm tội đều bị xét xử công minh. Xét cho cùng tất cả đều là nạn nhân cả, nạn nhân của những điều kiện lịch sử, địa lý, xã hội cụ thể.

Tôi nhớ đến một sự việc diễn ra tháng 9. 1975. Bọn Khơ- me đỏ quấy phá ở vùng biên giới sát thị trấn Hà Tiên, dọc kênh Vĩnh Tế. Chúng bị bộ đội Việt Nam đánh lui, cụm lại trong một khu rừng nhỏ. Theo yêu cầu của quân khu 9, bộ tổng tham mưu ra lệnh cho không quân ném bom xuống khu rừng ấy. Ba chiếc F5 được huy động. Do không quân thiếu người chuyên môn về F5 nên 3 sĩ quan không quân Sài Gòn cũ được tìm đến để cùng sĩ quan không quân của 3 chiếc F5 ra trận. Đó là một cơ giới, hai hoa tiêu kiêm thả bom. Cuộc oanh tạc đạt kết quả- trở về Tân Sơn Nhất, một cuộc liên hoan vui vẻ diễn ra. Ba anh em của không quân Sài Gòn cũ xiết bao vui mừng, vì được tín nhiệm, cùng đi đánh kẻ thù. Một cuộc hòa hợp thú vị và xúc động. Đại tướng Võ Nguyên Giáp rất hài lòng về việc này. Thế mà chỉ 3 tuần sau, có chỉ thị từ tổng cục chính trị (cục bảo vệ) tuyệt đối cấm không được dùng lại bất cứ một nhân viên quân sự "ngụy" nào, coi đó là nguy hiểm, mất cảnh giác nghiêm trọng...

Tôi vừa gặp một ông giáo sư người Việt dạy môn Hoá ở trường Đại học Sài Gòn trước kia. Ông chọn ở lại Sài Gòn năm 1975, những mong được góp sức cho việc đào tạo nhân tài của đất nước. Thế nhưng ông nản chí ngay sau đó, và đến năm 1980 thì chán ngán không chịu đựng nỗi, xin trở về Pháp một cách hợp pháp. Việc giải phóng được thực hiện gần như một sự chiếm đóng, một cuộc thôn tính! Các anh chị em ở miền Bắc vào chẳng mấy quan tâm đến việc bảo quản, xử dụng những thiết bị để nâng cao chất lượng giảng dạy sinh viên. Họ được giữ những quyền lực chủ chốt mà không có khả năng điều hành, lại kèn cựa với nhau, bới móc, đấu tố nhau, còn chủ trương cho tháo gỡ những thiết bị tốt đưa ra miền Bắc. Đây không phải là sự san xẻ hợp lý khi một bên thừa, một bên thiếu mà thực chất là đập phá hết, lại còn mang đi bán để lợi dụng cho cá nhân. Ông tâm sự cả một buổi với tôi: "Qua quan sát ngẫm nghĩ hơn 5 năm sau giải phóng, tôi thấy cách mạng cũng có người cách mạng thật và có người "ngụy cách mạng", và phía chúng tôi cũng có người "ngụy thật" và người "cách mạng ngụy", cái sai của các ông tự hồi ấy cho đến nay vẫn là không nhìn ra điều đó, nhìn theo lối chủ quan vơ đũa cả nắm! đã là "ngụy" là kém hết, không tin được ai hết, bỏ đi cả. Và đã là cách mạng thì ai cũng đều tốt hơn bất kỳ người nào thuộc chế độ cũ! Đã thế còn nhìn con cháu họ với cái kiểu nhìn cứng nhắc đó. Thấm nhuần lập trường giai cấp "vững vàng" như thế thì làm sao xã hội có thể ổn định, lòng dân có thể yên và đất nước có thể phát triển được!"

Tôi đã dự hàng mấy trăm, có thể nói đến cả ngàn cuộc phê bình và tự phê bình, được coi là sự phát triển của con người và xã hội. Hồi những năm 1956 đến 1964, khi tư tưởng Mao còn thịnh hành và ngự trị, trước khi có cuộc cách mạng văn hóa vô sản kỳ quặc, ở tất cả mọi cơ sở đảng, cứ chiều thứ bảy là "đảng nhật", có nghĩa là ngày của đảng, dành cho sinh hoạt đảng. Cả chi bộ hay tổ đảng họp lại, đọc báo đảng, tự phê bình và phê bình người khác... Tư tưởng ra sao, nhận thức ra sao, công việc ra sao, các mối quan hệ (trên dưới, đồng cấp, bạn bè, gia đình, quân dân... ) ra sao, ưu khuyết điểm những gì, đều ghi vào sổ tu dưỡng. Nó có tác dụng đề cao tinh thần, ý chí cách mạng, tất cả vì tập thể, vì nhân dân mình, "mình vì mọi người". Trong chiến tranh, ý thức con người còn tốt. Và người tốt rất nhiều, đức tính tốt nẩy nở cũng nhiều. Tôi còn nhớ hồi chiến tranh phá hoại, hàng hóa để đầy các sân bãi, hai bên lề đường, ở cạnh các ga, nào là gạo, thịt hộp, thuốc men, đường sữa... ấy vậy mà hầu như không hề suy xuyển. Bà con đi sơ tán về nông thôn, có khi không khóa cửa, chỉ buộc sợi dây thép đơn sơ mà không hề bị mất trộm. Chị em phụ nữ đi tiếp tế cho con ở nơi sơ tán, cách xa 30, 50 km là thường, đi xe đạp ban đêm, tối mù mịt mà vẫn an toàn. Ở nông thôn bà con quý mến, tận tình giúp đở mọi gia đình sơ tán đến tản cư. Tôi cứ nghĩ nhân dân mình, chiến sĩ mình thật là tốt. Tấm lòng thương yêu, đùm bọc nhau thật sâu đậm. Công bằng mà nói, đó là truyền thống, là bản chất, là nghĩa tình và đạo lý vốn có, không phải Mác- Lê Nin, chủ nghĩa xã hội hay đấu tranh giai cấp mang lại như người ta cố nói lấy được để vơ vào. Những cuộc phê bình và tự phê bình dù sao cũng có góp một phần nuôi dưỡng những đức tính ấy. Thế nhưng từ sau thống nhất, tình hình thay đổi rất nhanh. Con người sống thực dụng hơn, vụ lợi hơn, ít tình nghĩa hơn. Phải chăng đó là do ý thức hệ cùa chế độ miền Nam tràn ra miền Bắc cùng với hàng hóa của chủ nghĩa tư bản, theo phương châm "miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng"?

Theo tôi, hoàn toàn không như vậy. Điều cơ bản là sau ngày thống nhất sự lãnh đạo đã lỏng lẻo, say sưa và ngây ngất với chiến thắng, thói tự mãn và kiêu ngạo lộng hành. Những người lãnh đạo phần lớn đã ở tuổi lục tuần, bắt đầu nghĩ đến gia đình, tài sản, nhà cửa con cái... Điều này cũng dễ hiểu vì tất cả đều là con người, không ai là thần thánh. Thế nhưng cuộc khủng hoảng về văn hóa là ở đây. Ớt người cưỡng lại được với những cám dỗ vật chất. Và do không có trình độ văn hóa làm cơ sở cho nhân cách, nên họ tự cho phép buông thả, không có sức gì kiềm chế. Do thiếu văn hóa theo nghĩa rộng, họ giữ một cách sống đạo đức giả. Nghĩa là vẫn nói theo đạo lý, nhưng tự cho mình sống khác một chút. Vâng, chỉ một chút! Mỗi ngày một chút, sự sa ngã không rõ làn ranh không gian và thời gian... Họ lập luận: tù đầy còn không ngại, án tử hình còn không ngán, bom đạn còn không sợ, hy sinh gần trọn cuộc đởi thì có hưởng một chút "lộc" cũng là phải, là thỏa đáng thôi. Và họ nhìn nhau. Các vị žy viên bộ chính trị nhìn Tổng bí thư. Các ỷy viên trung ương nhìn bộ Chính trị. Các đảng viên khác nhìn các vị Trung ương, "nhìn" kiểu này rất nhanh, rất nhạy, chẳng phải mở lớp học phổ biến gì cả! Qùa cáp biếu xén từ đó. Quan to gói nhỏ (tiền, đô la, vàng bạc: giá trị lớn), quan nhỏ gói to (nhưng là hàng ít giá trị hơn), quan to xe nhỏ (xe du lịch, xe riêng), quan nhỏ xe to (đi xe chung), cho đến: quan to ở nhà nhỏ (biệt thự riêng), quan nhỏ ở nhà to (nhà tập thể)... được coi là nếp sống được chấp nhận.

Tình nghĩa chẳng còn mấy. Người ta bon chen, người ta hối hả kiếm chác, người ta vội vàng chụp giật. Nhà cửa, biệt thự, vị trí cho con cái đi học, đi xuất khẩu lao động, đi Tây, mua bán hàng hiếm, hàng phân phối, mọi cái có đi có lại, qua thư trao tay, qua thư móc ngoặc, cứ thế thành luật pháp không thành văn. Trong khi luật pháp của đất nước đang phải chờ đợi chán chê để "thành văn".

Nhà dột từ nóc trở xuống là thế- Thượng bất chính, hạ tắc loạn là thế.

Các cuộc rửa mặt hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, các cuộc phê bình và tự phê bình trở nên xa xí phẩm, không cần thiết nữa cho các cơ quan ở bên trên. Trong khi ở bên dưới vẫn phải tiến hành theo quán tính, để còn bầu cá nhân tiên tiến và cá nhân ưu tú hàng năm và 6 tháng một. Điều này vẫn thành nếp, vì từ 1980 đã có quy định thưởng cá nhân tiên tiến là 10. 000 (năm 1990) và cá nhân ưu tú là 20. 000 đồng (1990), nghĩa là bằng 20, và 40 kg gạo cho cả năm hoặc nửa năm phấn đấu. Ai cũng cho việc bình bằu tiên tiến và ưu tú là hình thức đến mức nhảm nhí, nhưng nó vẫn tồn tại bền bỉ- Vì ở mọi nơi, trong thời đại mới này, đã có quy ước ngầm là làm cho xong chuyện, và thế là cả làng đều là tiên tiến hết, 100 phần 100 tiên tiến là chuyện bình thường!

Phê bình và tự phê bình còn lại chỉ là chuyện đối phó, hời hợt, chẳng còn chút thực tâm rèn luyện. Ông phê tôi mạnh, thì tôi phê lại ông mạnh- Ông thể tẫt cho tôi, tôi thể tất cho ông. Thành phe, thành phái- Vào hùa với nhau. Rồi gây dư luận, bới móc, tung tin, dựng đứng, xuyên tạc, vu khống đủ mọi chuyện, ở mọi nơi. Nhưng khi ngồi vào bàn thì nói dẻo kẹo: "Giúp đỡ nhau thân ái vì mục đích chung, xây dựng cho nhau để tiến bộ, có thương yêu, quý trọng nhau mới góp ý thẳng thắn cho nhau". Và đến khi gay gắt, không còn tình nghĩa gì nữa thì mới xoay ra gọi nhau bằng "đồng chí". Tôi nghiệm ra một điều: Khi sự lãnh đạo không còn được tín nhiệm, khi xã hội băng hoại trong sự sa sút về đạo đức của những người cầm quyền, thì tất cả những chuyện bày đặt ra theo "đạo lý" như trên chỉ còn là những trò đạo đức giả, xúc phạm nhân cách và lòng tư trọng của con người, khuyến khích những kẻ tham quyền cố vị, ham danh lợi cô lập và sát phạt những con người lương thiện, có công tâm và hiểu biết. Cái ác của con người đối với nhau để sát phạt nhau đang lan rộng.

Ai cũng kêu nền giáo dục xuống cấp quá thể nhưng anh làm gì để cứu vãn nó, thì chẳng có biện pháp nào đạt hiệu quả. Thầy giáo, cô giáo sống khốn đốn, lương giáo viên chỉ đủ sống trong một tuần. Trường học tiêu điều, học sinh chán học- Đức tính hiếu học truyền thống tiêu tan nhanh. Một nguyên nhân chính là những người cầm quyền không coi trọng trí thức- Những người tài giỏi không được quý trọng và sử dụng. Đã vậy những kẻ nắm quyền lại làm những chuyện tệ hại. Cơ quan tổ chức cán bộ đã cho bao nhiêu người "con ông cháu cha, còn gọi là các cậu 4c (con các cụ cả), đi học chui, không qua quy chế của bộ Giáo dục và đào tạo? Và số đó khi đi học thì làm gì? Đi buôn, đi ăn chơi, để rồi bỏ tiền ra thuê người thi hộ! Có bao nhiêu kẻ sang Liên xô học, làm luận án hẳn hoi về nước mà vẫn không nói sõi được tiếng Nga? Và rồi họ sẽ làm được gì khi nhận chức vụ và quyền hành? Tôi có một mong muốn theo lương tâm công dân: Quốc hội sẽ giao cho một ủy ban điều tra về việc đã tiến hành đào tạo nhân tài mờ ám và phi pháp ra sao trong vòng 15 năm qua. Có vô số trường hợp cơ quan tổ chức cán bộ thay thế kẻ này, đội danh người khác cho đi học nước ngoài, đi làm nghiên cứu sinh. Và bao nhiêu trường hợp học không ra học mà vẫn đỗ, có biết bao nhiêu "tiến sĩ giấy" như thế nghiễm nhiên tồn tại và lộng hành, trong khi không ít trí thức có trình độ, có công tâm, có lao động bền bỉ, có công trình nghiên cứu thật sự thì bị đặt ở ngoài lề xã hội, bị coi thường, bị định kiến và còn bị trù dập để vô hiệu hỏa, làm tổn thất ghê gớm cho toàn xã hội.

Và còn ai thật sự động lòng trước thảm cảnh vô vàn của xã hội: trẻ em bị còi xương vì thiếu ăn hàng loạt, càc bà mẹ mới sinh con mất sữa, hơn 1 triệu thương binh sống cơ cực, người về hưu leo lắt tồn tại, có chị em lao động và cả phụ nữ trí thức phải bán mình để sống tủi nhục qua ngày... Trí tuệ và tình thương đang kêu cứu!

Tôi đã đến trại anh chị em bộ đội cũ bị tâm thần nặng ở Nghệ An và Hà Nam Ninh, thăm những gia đình thương binh nặng ở Hải Hậu (Hà Nam Ninh), Nam Đàn (Nghệ An)... Rõ ràng đảng và chính quyền còn một món nợ rất lớn đối vối gần 1 triệu anh chị em đã đổ xương máu, hy sinh một phần cơ thể và cả cuộc đời thanh xuân của mình cho đất nước- Thật là phẫn uất khi thấy những kẻ cầm quyền lợi dụng chức vụ trong đảng và nhà nước để kiếm chác, phất lên, nhà cao, cửa rộng, con cái đề huề, sống quá ư là sung túc, còn say sưa phè phởn tối ngày để mặc cho anh chị em thương binh sống trong cảnh khốn cùng. Một sự vô ơn bạc nghĩa! Một tội ác lớn! Một món nợ xã hội không thể chối bỏ!

Riêng những anh em thương binh ở Cămpuchia về, tôi từng đi với một số anh em hầu hết là bị cụt chân vì mìn, Máy bay Liên xô mỗi tuần hai lần cho họ về Sài Gòn. Thật là thương tâm! Cứ mỗi ngày có từ 10 đến 30 trường hợp bị mìn như thế! Suốt gần 10 năm ròng! Mà có ai là con cán bộ, đảng viên như hồi trước đâu! Toàn là những con nông dân và thường dân ở thành thị, thấp cổ bé họng, bị bắt buộc đi theo luật nghĩa vụ quân sự, trong khi các con ông cháu cha thì lo kiếm chỗ đi học, đi xuất ngoại, chỗ làm việc dễ dàng và nhiều bổng lộc!... Đây là một món nợ xã hội nữa. Tôi rất nóng lòng mong Quốc hội có một phiên họp về cuộc chiến tranh ở Cămpuchia, công khai tổng kết về trách nhiệm cá nhân và tập thể về cuộc chiến tranh này. Vì sao kéo dài lê thê đến vậy mà nhân dân và quốc hội không hề được có ý kiến, gây những thế kẹt kéo dài về ngoại giao, làm mất biết bao bạn bè thế giới và nhất là gây ra những tổn thất vô kể về xương máu, ngân sách, tài nguyên, thời gian của xã hội. Hậu quả nghiêm trọng còn kéo dài đến nay và lâu dài sau này- Một món nợ phải thanh toán sòng phẳng.

Ba bài học sâu sắc nhất tôi rút ra được từ cuộc sống hơn 45 năm: hãy tỉnh táo để luôn là chính mình, hãy ngay thật và chớ lừa dối, đạo đức giả, hãy sống có trí tuệ và tình nghĩa.

Một chế độ xã hội không tôn trọng cá tính, quyền lợi chính đáng của cá nhân, coi thường nhân phẩm của con người, hạ thấp con người thành một số đông hèn mọn, làm con người mất tự tin, thì chế độ đó không thể mạnh, xã hội đó không thể phát triển bình thường. Cái gốc của nó là từ đó con người không có tự do, xã hội không có dân chủ. Nhân danh tập thể để phủ định cá nhân, không công nhận quyền lợi và những thuộc tính cá nhân khác thì chính cái tập thể ấy cũng ốm yếu đến kiệt quệ.

Điều thứ hai là một chế độ dựa trên sự dối, không ngay thật, trên nền tảng đạo đức giả, thì chế độ ấy không thể được nhân dân chấp nhận. Cứ nói bừa rằng: chế độ ta là dân chủ nhất, dân chủ gấp triệu lần các nước phương Tây, xã hội ta là ưu việt vô cùng, chủ nghiã xã hội là hơn hẳn một cách tuyệt đối, không thể bàn cãi so với chủ nghĩa tư bản, là coi thường quần chúng, coi khinh sự tự xét đoán công bằng của nhân dân.

Điều thứ ba là một chế độ coi thường chất xám, coi thường trí tuệ và những kinh nghiệm quý của thế giới, tự cho là hiểu hết, biết hết rồi, lại không có tình nghĩa, không có lòng yêu thương, thì chế độ ấy sẽ khô cứng dần, gây nên vô vàn bất công và đau khổ cho con người.

Ngày nay, đi từ Bắc vào Nam, từ đồng bằng lên miền núi, từ đơn vị bộ đội, an ninh, đến cơ sở kinh tế, người dân bàn tán, kêu ca, phê phán đủ mọi thứ đều có thể quy về ba bài học lớn trên đây.

Về cái tệ coi thường trí thức, các sĩ phu Bắc hà thời nay sáng tác ra những câu chuyện tiếu lâm sâu sắc, rất đáng để suy ngẫm- Họ truyền miệng về một cán bộ về hưu khổ đến cùng cực, chỉ muốn vào tù để được ăn cơm hẩm. Anh ta ra ngoài đường, trước đám đông chửi lớn: "Chế độ này là chế độ của những kẻ ngu và vô trách nhiệm!" Anh ta lấy làm lạ là vẫn không bị bắt giam. Có người bảo anh: "Chế độ này tuy hay nói đến tập thể, nhưng tập thể là không ai cả, chửi bới cá nhân mới ăn thua!" Anh ta liền ra đường và thét lớn: "Tổng bí thư X là thằng ngu!" Quả nhiên anh bị bắt, đưa ra toà xét xử- Toà tuyên án 6 năm tù: "Sáu tháng tù về tội làm mất trật tự công cộng, và năm năm rưỡi về tội... "tiết lộ bí mật quốc gia"!

Còn một câu chuyện nữa không phải là tiếu lâm. Một vị chánh án tòa án Hà Nội, không phải là đảng viên, nhưng có uy tín trong ngành tư pháp vì am hiểu luật và rất công tâm, nay đã gần 80 tuổi. Ông đậu cử nhân luật thời trước, và từng làm với cha tôi ở Huế. Ông bảo tôi: "Cụ nhà đã truyền lại cho tôi và một số anh em khác sự liêm khiết của người làm việc trong ngành luật". Ông tâm sự: "Tôi xét xử mà vấp phải không biết bao nhiêu thư tay của các cụ lớn- Toàn là thư ở góc trên có tiêu đề: Văn phòng anh Ba (ông Lê Duẩn), văn phòng anh Sáu Thọ (ông Lê Đức Thọ), văn phòng anh Tô (ông Phạm Văn Đồng), văn phòng anh Năm (ông Trường Chinh), văn phòng anh Mười Cúc (ông Nguyễn Văn Linh), văn phòng anh Sáu Dân (ông Võ Văn Kiệt)... Không có dấu triện, chỉ có chữ ký "thừa lệnh" của Chánh văn phòng hay thư ký của các cụ, nhưng bao giờ cũng được coi là có giá trị và hiệu quả hơn các công văn chính thức của nhà nước... "Các việc yêu cầu cấp nhà cửa, lên lương, lên chức, cho con cái đi học nước ngoài, giải quyết các kiện tụng đều phải chấp hành theo những tờ giấy kỳ quặc một thời như thế!...

Tôi kể thêm một chuyện tiếu lâm hiện đại của thủ đô Hà Nội.

Một khách du lịch đến Hà Nội thường thấy 3 người cảnh sát hay đi cùng nhau. Họ được người dân trên đường phố giải thích: Ông không biết à? Một người biết đọc, một người biết viết và người thứ ba không biết chữ nhưng là để kiểm soát hai người kia!"

" phía Nam, tôi cũng thu được một số chuyện tiếu lâm "cười ra nước mắt" nhiều người dân gọi chính phủ theo cách nói lái là "chú phỉnh", nghĩa là hay lừa dối nhân dân, nói một đàng làm một nẻo! Hồi sau 1975, người ta hỏi nhau: sao, dạo này làm gì? và thường được trả lời: dạo này chúng tôi chà đồ nhôm! nói lái lại là : chôm đồ nhà, nghĩa là lấy đồ nhà bán dần đi hết! Rất nhiều đồ dùng trong nhà của các gia đình "ngụy" bị đem ra vỉa hè để bán: tủ lạnh, quạt máy, máy thu thanh, truyền hình, cho đến bàn ghế, tủ, giường, có nhà túng bấn quá không còn gì nên bán cả đồ thờ bàn thờ để cho gia đình tạm sống!... Khá nhiều người mua là cán bộ miền Bắc vào Nam. Sự đổi chủ của biết bao của cải, nhà cửa, sau cái gọi là "giải phóng!". Đau đớn hơn là nhiều chị em vợ sĩ quan và viên chức bị đi "cải tạo" "chà hết đồ nhôm" rồi đành bán mình, và không ít khách làng chơi là cán bộ miền Bắc vào! Năm 1978, tôi gặp một anh bác sĩ quân Y vừa đi cải tạo 2 năm về, anh kể rằng đã ném vào mặt một anh cán bộ miền Bắc công tác ở ban tuyên huấn trung ương(!) đến xin chữa bệnh một lời dạy: "ông đi chơi gái bị nổ ống khói, ông giải phóng chúng tôi như vậy à! ông ôm vợ chúng tôi, vợ "ngụy" đó mà không biết xấu à, không biết nhục à!?" Chính anh và mấy anh luật sư ngày 30. 4. 1975 đã mang cờ đi đón "quân giải phóng" với tất cả lòng chân thành, để rồi ngay sau đó bị tống giam vì đã đi lính "ngụy", làm sĩ quan "ngụy", chỉ vì các bác sĩ và luật sư này đã bị động viên một thời gian ngắn!

Tôi xin kết thúc những câu chuyện trên đây bằng một kỷ niệm riêng. Hồi, chỉnh huấn cãi cách ruộng đất năm 1956 cho cán bộ trung cao cấp, tôi bị đưa ra tổ học tập để kiểm điểm. Những cán bộ "trung kiên" xuất thân từ bần nông, cố nông phê phán tôi: "Anh là một trường hợp tiêu biểu và điển hình- Anh học trường tây từ nhỏ, anh tiêm nhiễm văn hóa thực dân như thuốc độc từ khi vỡ lòng, anh lại sinh ra trong gia đình đại phong kiến. Thực dân và phong kiến là hai điều xấu xa nhất, đồi bại nhất trên đời này. Có thể nói "cha" anh là thực dân "mẹ" anh là phong kiến. Anh là đứa con hoang đồi bại nhất. Hiểu biết của anh không bằng cục phân như Mao chủ tịch đã nói, vì phân còn có ích để bón ruộng! Đảng đã cứu vớt anh để nên người hôm nay... "

Tôi chẳng mảy may căm ghét những cá nhân đã chửi bới tôi. Họ là những nạn nhân của những tín điều mù quáng kiểu tôn giáo mông muội. Có người về sau gặp xin lỗi tôi! Đó là vì ađua thời thượng, trong cao trào của cải cách ruộng đất, và về sau là giai đoạn sửa sai...

Khái quát ba bài học lớn nhất, bao trùm nhất, thấm thía nhất đối với tôi trong hơn 45 năm qua tôi vừa kể trên, có thể rút ra một nhận xét tổng quát nhất: Cái sai gốc của chế độ cộng sản mang danh chủ nghĩa xã hội ở Việt nam là đã thiết lập một chính đảng chính trị, một chế độ chính trị, một chế độ xã hội mang mầu sắc tôn giáo. Thà là một tôn giáo đích thực thì còn có ý nghĩa và tác dụng nhất định: làm chỗ dựa cho niềm tin, làm cơ sở cho việc làm điều thiện, tránh điều ác của những tín đồ ngoan đạo. Đằng này là một tổ chức chính trị lại mang mầu sắc tôn giáo, còn nặng nề hơn cả một tôn giáo, nó bắt buộc đảng viên phải tin ở những nguyên lý và những tín điều, không được phép hoài nghi. Đó là những bàn thờ với tranh ảnh, với hàng loạt khẩu hiệu, với các tập sách lý luận được đối xử như Kinh thánh, nghĩa là bất di, bất dịch, theo kiểu tụng niệm thuộc lòng, nó làm những đảng viên- tín đồ bé nhỏ lại, mất tự tin đi, vì mọi thứ đã có sẵn cả rồi, nói đến cả rồi, chỉ có việc đem ra mà thi hành thôi! Cả nước đã có chừng 12 đến 14 cái đầu xuất chúng, nghĩ thay cho chúng ta rồi! ởbộ Chính trị, người ta nghe Tổng bí thư trình bày xong rồi, có ai nói thêm gì chỉ là tán tụng và phụ họa thêm thắt chút ít. Ở hội nghị Trung Ương người ta lại trình bày chính kiến của bộ Chính trị và hơn 100 cái đầu lại chỉ làm cái việc thêm thắt, minh hoa, tán tụng và thông qua, ở đại hội đảng cũng lại thế! còn tệ hơn thế! Mọi việc đã được định- bàn bạc, lấy ý kiến chỉ là hình thức. Sự nghèo nàn của trí tuệ! Một chế độ nể nang, xoa dịu, sợ sệt, e dè thì làm sao có dân chủ được? cứ như Chúa đã phán, Trời đã định, ắt phải thế! Đã là con chiên thì phải ngoan đạo. Phải giữ một niềm tin tuyệt đối.

Nói là một đảng mang bản chất công nhân, nhưng trên thực tế nó nhuộm mầu sắc tôn giáo và mang rất đậm bản chất của nông dân thời cũ pha trộn với bản chất phong kiến: hay xét nét vặt vãnh, thù hiềm lâu, chia bè chia phái, về hùa với nhau, trả thù nhỏ nhen, bới lông tìm vết...

Tôi còn nhớ hồi đầu năm 1955 ở Quỳnh Lưu (Nghệ An), một cán bộ thành phần trung nông lớp trên bị quy sai là địa chủ, bị chụp mũ là chui vào đảng để chống phá cách mạng, bị đưa ra chất vấn trước cuộc họp của nông dân. Các ông bà "nông dân cốt cán" thi nhau hỏi tội:- "Này tên địa chủ Hải kia, sao mầy lại nhìn chăm chăm vào chúng tao, mầy không sợ khí thế của nông dân à? Cúi mặt xuống!- "Này, tên địa chủ Hải kia, sao mầy lại cúi đầu xuống lấm lét che dấu bộ mặt tội ác của mầy à? Ngẩng mặt lên!"- "Thưa bà con, tên địa chủ Hải này rất ngoan cố, nó dám ngẩng mặt lên khiêu khích bà con nông dân chúng ta... "Thật là khả ố.

Do một chế độ còn duy tâm hơn cả tín ngưỡng tôn giáo, nên chỉ có thể nhận những điều tốt về mình, còn bao nhiêu thất bại, đổ vỡ thì đổ tại điều kiện khách quan hết! Có chí sĩ Bắc Hà nào đó đã mỉa mai rằng:

Mất mùa là tại thiên tai,

Được mùa là tự thiên tài đảng ta...

Chính do mầu sắc tôn giáo kiểu duy tâm áp dụng vào chính trị mà các đảng viên dần dần mất hết tự tin và tư duy độc lập, luôn có mặc cảm tội lỗi, phải sám hối ăn năn qua những cuộc kiểm thảo, kiểm điểm, tu dưỡng, học tập, tự nhận xét, tự phê và phê bình... Yêu cầu sám hối ăn năn thú tội để cố tỏ ra là trung thành với đảng đã dẫn đến những bi, hài kịch: tự bịa ra tội lỗi của bản thân, tự bôi nhọ mình để được đảng tắm rửa, kỳ cọ, để được trở thành con cưng của đảng.


Bi kịch của các nước xã hội chủ nghĩa, của các đảng cộng sản ở đó trong thời gian gần đây là có thể giải thích được. Vì họ đã phạm sai lầm lớn quá, kéo dài quá. Họ không có nếp sinh hoạt dân chủ thật sự nên lao sâu mãi vào sai lầm và tội lỗi. Vì họ không chấp nhận đa nguyên, cổ súy sự thống nhất thành một kiểu gắn chặt nguyên khối nên chỉ đạt sự thống nhất giả tạo. Ai khinh thị con người, hạn chế quyền tự do của con người, lừa dối con người, không tôn trọng trí tuệ và không có tính thương con người thì ắt bị sự trừng phạt cay đắng nhất của quần chúng nhân dân. 
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved