Home » » Hoa xuyên Tuyết - Phần 4

Hoa xuyên Tuyết - Phần 4

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013 | 10:11

V. NHÌN NHẬN




Một hòn núi cao phải đứng cách xa một quãng mới nhìn rõ hình thù, dáng vẻ của nó trong cảnh sắc chung quanh. Những sự kiện, những nhân vật đã qua cũng cần một khoảng cách kiểm nghiệm của thời gian để nhìn cho đúng với giá trị thật.


Chủ nghĩa xã hội về lý thuyết và hiện thực cần được đánh giá ra sao? Mác, Lê Nin, chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lê- Nin cần được đánh giá đứng đắn ra sao? Staline là con người thế nào, có công hay là có tội đối với đất nước Liên Xô và các nước khác? Chủ tịch Hồ Chí Minh có thật vĩ đại và sáng suốt? Lịch sử đất nước Việt Nam ta cần được viết như thế nào cho đứng đắn, khách quan và khoa học? Trong lịch sử ấy, biết bao phong trào, nhân vật cần được đánh giá đầy đủ, không bị định kiến, không thiên vị.

Đây là một việc hệ trọng của nhiều nhà sử học, nhà chính trị và lý luận, nhà tư liệu và thống kê. Tất cả những nhân vật đương thời thường bị đánh giá sai lệch do nhu cầu chính trị từng lúc, người thì được thổi phồng lên, thêu dệt thêm, người bị thu hẹp lại, tô vẽ cho xấu xí thêm...Con cháu ta hiện nay rất băn khoăn, không hiểu những nhân vật lịch sử hiện thời tốt xấu, công tội ra saọ..Tôi chỉ xin nói lên vài ý kiến thô thiển của mình, cố gắng có một cách nhìn khách quan và công bằng, tránh chủ quan và thiên lệch.

Về Các Mác và Lê Nin, tôi thấy đó là những nhà học gia uyên bác, những nhà lý luận và tư tưởng có tầm cỡ. Trong 4 năm, từ năm 1958 đến 1962 tôi là giáo viên lý luận chính trị của quân khu 4, phụ trách việc nghiên cứu và giảng dạy chính trị cho cán bộ trung cấp và cao cấp trong toàn quân khu, bao gồm các tỉnh từ Thanh Hóa vào đến Quảng Bình và Vĩnh Linh, trong đó có hai sư đoàn (sư đoàn 324 và sư đoàn 325), cùng với một lữ đoàn ở giới tuyến. Học viên bao gồm từ thiếu tưóng tư lệnh Quân khu, thiếu tướng chính ủy Quân khu, hàng chục đại tá, thượng tá và gần một trăm trung tá, thiếu tá, chung với hơn ba trăm đại úy và trung úy. Đó là những bài cơ bản về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Tôi đã để hàng mấy năm đọc những tác phẩm của Mác, Ăng ghen, Lê Nin, Staline, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh...từ những nguyên bản hoặc bản dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, chữ Hán và tiếng Nga. Đó là những buổi học tại chức. Mỗi bài rải ra làm 2 tháng, có lên lớp giới thiệu nội dung, nghiên cứu tài liệu tại chức (mỗi tuần hai buổi sáng và hai buổi tối), có thảo luận tổ (hai buổi) và giải đáp (thường là một buổi sáng), do bộ phận chỉ đạo việc học tập lý luận của Tổng cục chính trị trong quân đội nhân dân thuộc cục Tuyên Huấn xếp đặt chương trình rất chặt chẽ. Cả Quân khu có 3 giáo viên lý luận, tôi là phụ trách chính. Đó là thời kỳ tương đối hòa bình, việc chiến đấu ở miền Nam chỉ mới khởi đầu. Theo tôi, những công trình nghiên cứu và tìm tòi của Các Mác và Ăng ghen là quan trọng, phong phú, nhất là việc phân tích và mổ xẻ chủ nghĩa tư bản ở thời khởi thủy và ở dạng thức tiêu biểu, nguyên mẫu. Việc khám phá ra lao động cũng là một loại hàng hóa, ra giá trị thặng dư là rất có giá trị. Việc xây dựng nên biện chứng pháp duy vật cũng là một bước sáng tạo lớn, tạo nên một nền tảng cho phương pháp tư duy khoa học. Thế nhưng không thể coi chủ nghĩa Mác là sự phát triển đến tột cùng rồi của trí tuệ, cùng không thể coi đó là giá trị duy nhất của trí tuệ. Mác và Âng- ghen lúc sinh thời không hề có ý định coi mình là những nhà sáng tạo nên một học thuyết, một chủ nghĩa tuyệt đỉnh, các vị chỉ có ý muốn đóng góp phần của mình vào trong kho tàng trí thức chung, cùng với vô vàn phát kiến có giá trị khác. Đấu tranh giai cấp và chuyên chính giai cấp là những nguyên lý quan trọng nếu bật động lực của phát triển xã hội và bản chất của chính quyền trong xã hội, cần vận dụng những nguyên lý ấy và nhiều nguyên lý khác để tím hiểu và lý giải các hiện tượng xã hội. Cái sai là có người đã tuyệt đối hóa những nguyên lý ấy, coi đó là những nguyên lý duy nhất tồn tại và lại còn vận dụng một cách máy móc, giản đơn theo kiểu giáo điều và thô sơ, do đó chuốc lấy thất bại tất nhiên...Cần nhận rõ tính chất hạn chế của những điều kiện lịch sử nhất định. Mác sinh ra năm 1818 và mất năm 1883, khi khoa học và kỹ thuật còn chưa phát triển như vũ bão trong thời đại ngày nay, khi các chế độ xã hội và chính trị chưa có nhiều hình vẽ phong phú như hiện nay, mang nhiều tính đặc thù (các đảng phái chính trị với những mầu sắc, khuynh hướng khác nhau đại diện cho những thế lực chính trị, kinh tế, tài chính, tôn giáo, xã hội, dân tộc, văn hóa nhiều vẻ khác nhau) như hiện nay. thời của Mác và Ăng ghen, chủ nghiã tư bản chưa phát triển đến mức cao. Mối quan hệ quốc tế của nó chưa phát triển đến độ sâu sắc trên quy mô toàn cầu. Sự tận dụng khoa học kỹ thuật cũng chưa đến mức độ cao và những biện pháp thích ứng với tình hình, để điều chỉnh đường đi nuớc bước của nó cũng chưa đạt đến mức có hiệu lực như ngày naỵ..Công nhân thời ấy mỗi ngày phải làm việc từ 12 đến 16 giờ, còn ngày nay đã giành quyền làm 8 giờ, hoặc 7 giờ rưỡi và quyền nghĩ 1 đến 2 ngày một tuần. Xưa tiền lương của công nhân là tiền lương đói khổ, nay ở Pháp lương tối thiểu cho một công nhân làm việc cho nhà nước hoặc tư nhân được ấn định là 5300 quan. Có cả một lọat luật pháp và quy định mang tính chất luật nhằm bảo vệ quyền lợi mọi mặt của người lao động. Mác và Ăng ghen chỉ mới thấy sự áp dụng của máy hơi nước và máy nổ, chưa chứng kiến sức mạnh của lò phản ứng nguyên tử, những kỳ công trong chinh phục vũ trụ, những bước tiến lớn lao của cuộc cách mạng thông tin viễn thông, trong sinh học, trong vật liệu mới, sự xuất hiện đủ loại máy tính điện tử cực lớn với những nét đặc trưng của nền văn minh tin học ngày nay. Nếu Mác và Ăng ghen còn sống ắt các vị sẽ bổ sung thêm nhiều nhận thức và nhận định mới mẻ, cập nhật, phát triển và điều chỉnh những tư duy lý luận của mình cho phù hợp với thực tiễn mới.

Coi chủ nghĩa Mác là chân lý tuyệt đới, chết cứng và bất biến, vận dụng nó một cách máy móc là trái với tinh thần khoa học, trái với chỉnh tư duy biện chứng của Mác.

Lê- Nin và chủ nghĩa Lê- Nin có vị trí to lởn trong cuộc cách mạng tháng Mười ở nước Nga. Lê- Nin là nhà lý luận và là nhà hoạt động thực tiễn. Tôi cho rằng nghiên cứu một số kinh nghiệm của Lê- Nin là cần thiết, nhưng dựng nên chủ nghĩa Lê- nin là không thể được vì làm vậy dễ rơi vào bệnh giáo điều và bệnh kinh viện nguy hiểm. Tất cả chỉ nên coi là gợi ý của người đi trước, là những công cụ của nhận thức để sử dụng và tham khảo. Luận điểm chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng vô sản và là giai đoạn tột cùng, giai đoạn rẫy chết của chủ nghĩa tư bản cần được xem xét lại trọng những điều kiện mới, những điều kiện chưa có khi Lê- Nin còn sống. Không có một nhà tiên tri thông thái nào có thể chỉ ra con đường và biện pháp phải theo, cho gần 100 năm (như Lê- Nin) hoặc hơn 100 năm (như Mác) về sau cả. Chỉ có thế hệ đương thời với tất cả trí tuệ của chính thế hệ mình mới có thể tìm ra con đưòng phải đi để xây dựng xã hội mới cho đất nước và tham gia xây dựng thế giới mới ngày càng tốt đẹp hơn. Thế hệ đương thời cần đem kinh nghiệm của người đi trước, cần tôn trọng những giá trị lý luận và nhận thức của tiền nhân, nhưng không thể mù quáng và nô lệ mất sáng tạo để trở thành bất lực đi đến mất tự tin.

Vị trí và vai trò của Staline đối với nước Nga, đối với Liên bang Xô viết và đối với thế giới đã và đang được đánh giá lại một cách đầy đủ. Tháng 7 năm 1990, ban Tư tưởng và Văn hóa của đảng cộng sản Việt Nam đã ra chỉ thị cấm các báo, đài truyền hình đề cập dến Staline. Tôi cho rằng đây là một sự cấm đoán sai lầm. Trong khi báo chí Liên Xô đưa ra liên tục những bài báo, tư liệu, sách, phim...về Staline thì việc tránh né, bịt tai, nhắm mắt lại ở Việt Nam là điều không bình thường. Tại sao người ta lại sợ sự thật đến thế? Đó là vì một thời gian dài, Việt Nam đã theo Liên Xô và Trung Quốc ca ngợi một chiều và quá đáng Staline. Sách báo phim ảnh tô vẽ nên một anh hùng kiệt xuất của nhân loại đã cứu loài người khỏi tai họa phát xít và tạo điều kiện cho hơn một chục nước ổ Châu Âu và Châu vùng dậy giành độc lập, trong đó có Việt Nam. Những câu thơ của Tố Hữu còn đó, từ hồi tháng 5. 1953:

Thương cha, thương mẹ, thương chồng,

Thương mình thương một, thương ông thương mười Yêu con, yêu nước, yêu nòi, Yêu bao nhiêu lại thương Người bấy nhiêu.

Ngày xưa khô héo quạnh hiu

Có Người mới có ít nhiều vui tươi,

Ngày xưa đói rách tơi bời,

Có Người mới có được nồi cơm nọ..

Các thầy cô giáo dạy văn đã được bồi dưỡng đặc biệt để giảng cho các em học sinh rẳng ông Staline đã mang lại cơm, áo và nụ cười cho các em! Thời đó tôi cũng xót xa, khóc thương Staline với tất cả tấm lòng thành thật của mình. Staline đã được đánh giá lại từ Đại hội lần thứ 20 Đảng cộng sản Liên Xô nhất là qua tập báo cáo mật của Krouchev. Gần đây trong thời kỳ Perestroika, nhiều điều có thật về Staline lại được đưa ra trên báo chí Liên Xô. Từ những vụ án Hồng quân Liên Xô trước chiến tranh thế giới lần thứ hai, vụ thủ tiêu hàng ngàn sĩ quan Ba Lan ở một khu rừng biên giới đến các vụ ám sát Kirov, Trosky, vụ tàn sát Koulak (thực chất là tầng lớp trung nông rất giỏi nghề nông) làm cho sức sản xuất xã hội bị hủy hoại, tai hại cho nên nông nghiệp Liên Xô, tác hại kéo dài đến tận ngày nay, ngoài ra là hàng trăm cuộc thanh trừng nội bộ khác. Đó còn là căn bệnh mệnh lệnh, độc đoán, đàn áp mọi ỷ kiến khác biệt, trả thù một cách tàn bạo và diệt những người không ăn cánh với mình. Không thể lấy công là đã chỉ huy kiên quyết và tài giỏi cuộc chiến tranh chống phát xít (ngay cái công này cũng đã được thổi phồng lên quá đáng) để che lấp biết bao tội ác liên quan đến hàng chục triệu gia đình lương thiện. Trách nhiệm nặng nề hơn nữa của Staline là đã dắt dẫn dân Liên Xô vào con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách quan liêu, nóng vội và độc đoán, dẫn đến sự đổ vở bi thảm gần đây. Tai họa này còn đè nặng lên một số nước châu Âu, châu , châu Phi, châu Mỹ trong đó có Việt Nam đã nôi theo Liên Xô để xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng các đảng cộng sản theo mô hình Staline. Đây là tấm bi kịch mang tầm vóc thời đại, kéo dài hơn nửa thế kỷ, tàn phá biết bao xã hội và con người! Thế mà ổ Việt Nam, người lãnh đạo lại chù trương nhắm mắt làm ngơ! Họ cho rằng lờ vấn đề Staline đi mới là "khôn", là sáng suốt, là giữ được ổn định! Lẽ ra họ phải nhanh nhậy rút ra bài học lịch sử, kiểm điểm kỹ đã bị Staline ảnh hưởng ra sao, dẫn đến hậu quả thế nào để tạ tội với nhân dân và bắt tay sữa chữa sai lầm thật sòng phẳng, ngay thật. Họ không thể và không dám làm như thế. Họ sợ sự phẫn nộ của nhân dân và hơn nữa còn muốn giữ một số cung cách cầm quyền của Staline, như luôn thổi phồng nguy cơ từ bên ngoài của chủ nghĩa đế quốc cấu kết với phản động quốc tế và phản động trong nước hòng lật đổ chính quyền. Họ kết tội những người ngay thật có ý kiến trái với mình là phản động, là phản bội, là bị đế quốc mua chuộc, là tay sai của CIẠ.., như chính họ đang đối xử với một số người và bản thân tôi hiện nay vậỵ..

Về ông Hồ Chí Minh, tôi dùng chử "ông" có hơi lạ với một số người, vì ở Việt Nam ai cũng quen gọi là Bác Hồ, Bác Hồ Chí Minh, trong khi thường nói: ông Lê Lợi, ông Quang Trung. Dân chủ và bình đẳng giữa các nhân vật lịch sử tôi cũng xin gọi là ông Hồ. Bản thân tôi trước kia từng quý trọng ông Hồ, trước đây tôi cho ông là người hy sinh cho đất nước, bôn ba ở nước ngoài, bị tù tội, là người có công trong cuộc đấu tranh giành độc lập, trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Ông sống giản dị, liêm khiết. Ông có lòng nhân ái, quý mến trẻ em, cảm thông với phụ nữ, động lòng trước kẻ nghèo đói. Ông ghét thói hư danh, phô trương, hình thức. Ông Hồ và cha tôi đã kết bạn thân trong suốt thời gian cuộc kháng chiến chống Pháp ổ chiến khu Việt Bắc, tình bạn dựa trên sự quý trọng nhau giữa một người cộng sản và một người không đảng phái. Tháng 9. 1945, sau cách mạng tháng Tám, ông Hồ gửi cho cha tôi bức thư ngắn, hiện gia đình tôi còn giữ, mời cha tôi tham gia công việc của đất nước, có câu: Tôi được biết, cụ là người có tài đức, rất mực thanh liêm, nên mời cụ ra chung sức, gánh vác việc nước...Thầy tôi từ chối, viện cớ tuổi cao (56 tuổi), sức yếu. Đến lần thứ ba nhận thư ông Hồ (tháng 10. 1945) sau khi có sự đồng ý của hai ông anh ruột: Bùi Bằng Phấn và Bùi Bằng Thuận đều là tuần phủ vừa về hưu, và sau khi trao đổi với gia đình, cha tôi nhận lời. Từ cuối năm 1946, cha tôi là Trưởng ban Thường trực quốc hội (như chức vụ Chủ tịch Quốc hội hiện nay) và thường thay mặt quốc hội dự các cuộc họp của chính phủ kháng chiến. Như tôi đã từng kể, ông Hồ và cha tôi đôi lúc đã cùng nhau họa thơ, kiểu thơ Đường. Bài "Tặng Bùi Công" của ông Hồ gửi cha tôi cuối năm 1948 là một trong những bài thơ hay nhất của ông, rất đẹp về hình ảnh, tôi còn nhớ như sau:

Khán thư sơn điểu thê song hãn

Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì

Tiệp báo tần lai lao dịch mã

Tư công tức cảnh tặng tân thị..

dịch là:

Xem sách chim rừng ngoài cửa đậu

Phê văn hoa núi chiếu nghiên soi

Tin vui thắng trận dồn chân ngựa

Nhớ bạn thơ xuân tặng một bài

Cha tôi họa lại như sau:

Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc

Giang sơn vạn lý thủ thành trì

Tư công quốc sự vô dư hạ

Thao bút nhưng thành thoái lỗ thi

dịch là:

Một lòng sắt đá phò nòi giống

Vạn dặm giang sơn giữ thành trì

Chăm lo việc nước không hề rảnh

Vung bút thành thơ đuổi giặc thù

Lúc đó, tôi quý trọng ông Hồ, vì tôi vào bộ đội ở Chi đoàn Quang Trung, trung đội tôi làm nhiệm vụ cảnh gác ở Bắc Bộ Phủ nơi ông Hồ làm việc, và tôi đứng gác ổ cổng lớn với khẩu súng các- bin Mỹ trong hơn một tuần. Chính ông Hồ có ý kiến cử tôi theo học lớp Quân Chính đầu tiên ở Hà Nội và sau đó tôi tham gia đoàn cán bộ Nam Tiến 72 ngưòi được chọn từ lớp học Quân Chính Đỗ Hữu Vy này. Khi làm báo tôi đã nhiều lần dự các cuộc gặp gỡ, tiếp khách quốc tế, tiếp các nhà báo Liên Xô, Trung Quốc và nhiều nước khác của ông Hồ. Các buổi tiếp thân tình, cởi mở, tự nhiên, không chút khách khí. Ông nhậy cảm, tinh tế trong quan hệ ứng xử, với mọi người, tùy theo tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính. Tôi hoàn toàn không cho rằng ông Hồ khéo đóng kịch, phải công nhận đó là cách ứng xử có văn hóa, có tình cảm thật ở một con người "rất người", lại lịch lãm.

Ông cũng "rất người" ở chổ không thể hoàn thiện như một ông thánh. Đây là điều gần đây tôi hay suy nghĩ về ông. Tôi rất thích thú được nhà sử gia Pháp D. Hemery cho biết ông Hồ đã có thể hai lần có vợ. Đó là cô đảng viên đảng Xã hội Marie Brière ở Paris (vào cuối những năm 1920) và cô nữ hộ sinh Tăng Tuyết Minh ỏ Quảng Châu Trung Quốc tháng 10 năm 1928.

Một con người tinh tế, giầu cảm xúc, rất "con người" ắt phải có những mối tình đẹp, có thể hồn nhiên và xúc động. Có người lẩm cẩm lại khen Cụ Hồ sống cao thượng, vì suốt đời không vướng nợ yêu đương, không mảy may nghĩ đến vợ con, đến hưởng lạc thú gia đình..., sống như một ông thánh vậy.

Nhiều người phê phán rất nặng ông Hồ về chính sách đối với công chức cũ sau khi miền Bắc được giải phóng, về những sai lầm trong cải cách ruộng đất, về những oan trái trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm...

Theo tôi hồi ấy đã có chính sách lưu dung (giữ nguyên lương cho công chức cũ), một chính sách thỏa đáng, từng gây xôn xao do ý thức ganh tỵ của anh chị em cán bộ tham gia kháng chiến, đã có những lớp cải tạo chị em làm nghề mãi dâm, đào tạo tay nghề rất có kết quả nhưng chính sách lưu dung chỉ tồn tại trong 2 năm 1954- 1955...Tôi được biết ông Hồ rất nghiêm túc trong việc đối xử với tù binh người Việt, người Pháp (cũng như các quốc tịch khác trong các đơn vị lê dương), cấm dùng chửi bới và đánh đập, cho họ ăn uống ngang với mức của bộ đội. Sai lầm cải cách ruộng đất làm chết hơn 10 nghìn người (bị bắn trước các tòa án nhân dân) là do áp dụng máy móc kinh nghiệm của Trung Quốc, do các cố vấn Trung Quốc trực tiếp áp đặt, do ý thức sùng bái Trung Quốc rất phổ biến lúc bấy giờ, bởi thái độ mù quáng, tự ti mà theo tôi ông Hồ cũng phạm phải. Cũng phải nói rằng cuộc cải cách ấy, từ đợt hai sang đợt ba thì phát hiện ra sai lầm. Khi thấy sai lầm thì đã có quyết tâm sửa, dù cho phía Trung Quốc còn rất ngoan cố và bảo thủ, nếu không tai họa còn mở rộng hơn nhiều nữa! Các ông Trường Chinh mất chức Tổng bí thư, các ông Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương mất chức ủy viên thường vụ trung ương và chính ông Hồ đã tự phê bình về trách nhiệm của mình. Ông Hồ không trực tiếp chỉ đạo công cuộc cải cách ruộng đất, mà trong lãnh đạo đã có phân công: Ông Trường Chinh trực tiếp chỉ đạo chung, ông Hoàng Quốc Việt trực tiếp chỉ đạo làm thử ở Thái Nguyên, ông Lê Văn Lương trực tiếp đảm nhận công tác chỉnh đốn tổ chức, ông Hồ Việt Thắng trực tiếp làm công tác thường trực...Theo tôi, bài học về sai lầm trong cải cách ruộng đất chưa được tổng kết nghiêm túc, triệt để. Còn về vụ Nhân Văn Giai Phẩm, thì lúc ấy không gây được dư luận gì lớn trong xã hội. Vì ý thức dân chủ và dân trí còn thấp, cả miền Bắc sống cô lập với thế giới bên ngoài, chỉ biết có Liên Xô và Trung Quốc, hai "thiên đường" tuyệt vời (ngày nay của Liên Xô và Trumg Quốc là ngày mai của Việt Nam!). Dân trong cả huyện cơm đùm, cơm gói đi xem phim Bạch Mao Nữ của Trung Quốc và xem phim một nông trường của Liên Xô dể rồi ca ngợi, bàn tán, "thu hoạch" về nhận thức và tình cảm cách mạng suồt cả nửa năm trời sau đó. Gương anh hùng của ở Thượng Cam lĩnh (Triều Tiên) là lẽ sống của tuổi trẻ Việt Nam. Một số văn nghệ sĩ Nhân Văn Giai Phẩm bị phê phán, toàn xã hội hùa theo ý kiến của lãnh đạo, vì thật tâm bị nhiễu loạn hơn là vì sợ sệt. Thêm nữa vấn đề cải tạo lao dộng lúc đó lại được cổ súy và đề cao! Cán bộ các cơ quan náo nức đi đắp đê Mai Lâm, đào đắp hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải, mở mang các nông trường, nên các văn nghệ sĩ bị đi cải tạo lao động ở nông thôn (khuân vác giấy ở nhà máy in, chuyên chở các thùng sợi ở nhà máy dệt, đẩy xe gòng sắt thép ở nhà máy gang thép Thái Nguyên...)không làm chấn động dư luận. Gọi là vụ án nhưng không hề được nêu ngay trên báo chí. Một thời gian sau mới phê phán trên báo, nhưng theo kiểu trích dẫn để kết tội một cách vũ đoán. Lúc ấy thì không ai còn tìm ra được tờ Trăm Hoa và Nhân Văn để xét đoán. Tôi cố nhớ lại, hình dung lại tình hình lúc ấy là như thế. Tất cả bực dọc, căm giận đều đổ lên đầu "Mỹ- Ngụy" đã không chịu thực hiện Tổng tuyển cử như Hiệp định Geneve quy định, còn tố cộng, diệt cộng, gây nên những vụ thảm sát ở Vĩnh Trinh, Phú Lợị..Các cuộc tuần hành hừng hực khí thế diễn ra khắp nông thôn và thành thị, trước trụ sở các ủy ban quốc tế...Trong điều kiện như thế, ông Hồ cũng thuận theo những đối xử của các cơ quan tuyên huấn và an ninh của đảng và nhà nước. Đây là một thái độ thiếu trách nhiệm, hơn nữa, lúc ấy những nhà văn Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan đều nén phẩn uất phần nào khi được tin các văn nghệ sĩ cùng hội, cùng thuyền với mình ở Trung Quốc bị đội mũ lừa, giải đi trên đường phố để cho quần chúng đả đảo và nhỏ nước bọt, bị đưa ra xỉ vả, đấu tố trong các cuộc họp, bị đưa đi lao động khổ sai thật sự (14 giờ một ngày, xúc và gánh phân người và phân súc vật, ngủ trong chuồng bò) và bắt phải làm các cuộc phản tỉnh hàng chục đêm để thú tội và tự mạt sát mình. Theo quan điểm của tôi hiện nay, sự xâm phạm vào quyền con người dù nặng hay nhẹ đều là tội lỗi. Không thể viện cớ là tôi chưa ác độc bằng những nhà cầm quyền Trung Quốc thời ấy, hay hãy xem bọn Pôn Pốt tàn sát con người và hủy hoại xã hội ra sao để cho rằng mình xử sự như thế là nhân đạo chán rồi, có gì phải nhận tộị..Ông Hồ đã quá tập trung vào công việc chỉ đạo đấu tranh ở miền Nam mà quá coi nhẹ những vấn đề trong văn học, nghệ thuật và để mặc cho người phụ trách làm sai mà không can thiệp? Hay ông có trực tiếp can dự vào những chủ trương ấy? Đây còn là một câu hỏi khó phân xử rành mạch cho thấu tình, đạt lý.

Sau này, những vụ chống "xét lại", những vụ án "phản động về chính trị" cũng làm theo kiểu bưng bít. Không có xét xử, không đưa tin trên báo, trên đài, chỉ thông báo nội bộ trong đảng, đến cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn (cơ quan an ninh, bảo vệ nội bộ đảng, bảo vệ quân đội) tự tiến hành, không qua thủ tục pháp lý...Tâm lý xã hội của tuyệt đại đã số người dân lúc ắy là phó thác mọi việc cho đảng và nhà nước, chị ít ra không tán thành thì cũng không có ý kiến, thế thôi. Tâm lý xuôi chiều và ađua hồi ấy rất nặng. Ngay những người trong cuộc, cùng gia đình, bè bạn có khi cũng để xuôi tay, chẳng có phản kháng hay phản ứng gì quyết liệt, vì tự nghĩ làm gì cũng vô ích chỉ tổ phức tạp và tai hại thêm hay là chẳng phải đầu lại phải taị..Là người lãnh đạo cao nhất, tất nhiên ông Hồ chịu trách nhiệm về những oan trái đã xây ra. Qua lời kể lại của những người ở gần ông Hồ từ những năm 1964, 1965 sức khỏe ông Hồ suy giảm rõ, mọi việc hàng ngày do Tổng bí thư Lê Duẩn và Ban bí thư giải quyết, ít khi xin ý kiến ông Hồ. Họ viện cớ rằng "khỏi làm Bác bận tâm, khỏi làm phiền lòng lãnh tụ tối caọ.."

Theo tôi, ông Hồ có ý thức độc lập khá rõ đối với Liên Xô và Trung Quốc. Cả hai nước này đều không muốn và không tin Việt Nam thắng được Mỹ bằng biện pháp quân sự. Liên Xô thì muốn giữ vững đường lối chung sống hòa bình, Trung Quốc thì khuyên cứ chiến đấu trong khuôn khổ chiến tranh du kích, chỉ nên dùng đơn vị đến cấp tiểu đoàn, nếu dùng quá cỡ đó sẽ dễ bị tiêu diệt bởi hỏa lực và phi pháo của Mỹ...Cố gắng vận động để nhận được nhiều vũ khí hiện đại của hai nứơc lớn Liên Xô và Trung Quốc, nhưng tự giải quyết lấy bầng chiến đấu kết hợp với đàm phán, đó là nét chính trọng chủ trương của ông Hồ và ban lãnh đạo Đảng trong chiến tranh. Tuy nhiên chính trong ưu điểm này, ông Hồ vẫn để lộ nhược điểm khi ông viết khá nhiều bài báo ca ngợi những bước nhẩy vọt cuả Trung Quốc (sau được in lại trong tập sách ký tên Trần Lực, một bút danh của ông Hồ). Những kinh nghiệm mang dấu ấu trĩ tả khuynh: "bước nhảy vọt kỳ diệu", sản xuất "nhiều nhanh, tốt, rẻ" (dịch của bốn chữ: "đa, khoái, hảo, tỉnh") Ông ca ngợi tài năng kiệt xuất của "Mao chủ tịch vĩ đại, việc xây dựng công xã nhân dân rồi nấu gang thép ở mỗi hộ nhân dân...cũng được ông Hồ phổ biến và giới thiệu một cách nhiệt tình, theo lối viết phổ cập. Chính ở những chỗ đó, ông Hồ Chí Minh không còn Chí Minh (rất sáng suốt). Tôi còn nhớ hồi nâm 1950 ông Hồ cũng viết bài lên án thậm tệ Titô, coi đó là tên trùm xét lại, kẻ phản bội, theo nhận định của Liên Xô, , ở ông, tư duy tỉnh táo, độc lập về chính trị đã tỏ ra không nhất quán.

Mặt khác, theo tôi, ông Hồ cũng không tỉnh táo khi viết hai cuốn sách kể chuyện về cuộc đời của chính mình. Đó là cuốn "Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch" ký tên Trần Dân Tiên và cuốn "Vừa đi đường vừa kể chuyện" ký tên T. Lan, trong đó có nhiều đoạn tự khen mình với những lời ca ngợi cao đẹp nhất. Tất nhiên tấm lòng cảm phục của nhân dân đối với "Bác Hồ" là vô cùng sâu sắc, ông có thể coi đó là sự thật hiển nhiên rồi, nói lên chỉ là phản ánh sự thật, thế nhưng tự mình viết ra để tự khen mình thì có điều gì đó không đẹp, không hay và có thể nói là đã vô tình tự hạ thấp mình vậy.

Tôi xin trích một câu của Trần Dân Tiên viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nghĩa là của một người viết về chính mình:

"Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình".

(trang 7 cuốn sách trên. Nhà xuất bản Sự Thật- in lần thứ 2. 1976) vậy đây là ai đang nhắc lại thân thế của ai?

"Một người như Hồ Chủ Tịch của chúng ta, với đạo đức khiệm tốn nhường ấy và đang lúc bề bộn bao nhiêu công việc, làm sao có thể kể cho tôi nghe bình sinh của Người được!" (trang 9- sđd.)

"Chúng ta còn những người yêu nước anh dũng và vĩ đại khác.

Chúng ta có Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, và những người khác nữa. Nhưng chỉ có Hồ Chủ Tịch của chúng ta hoàn thành sự nghiệp mà các tiền bối chưa hoàn thành..."- (trang 146. sđd)

"Nhân dân gọi Hồ Chủ Tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ Tịch là người con trung thành nhất của Tổ Quốc Việt Nam...(trang 149- sđd). Theo tôi có điều gì thật không ổn khi người viễt tự nói về mình như vậỵ..Ngay cả nhiều lúc ông Hồ tự xưng là Bác với nhân dân cũng có gì đó không ổn- xưng Bác với thanh niên, thiếu niên, nhi đồng thì có thể được- Những khi nói chuyện với nhân dân nói chung mà tự xưng là Bác là không nên, vì trong nhân dân có cả những cụ già còn lớn tuổi hơn. Năm 1945, ông Hồ mới 55 tuổi mà đã tự nhận là "cha già dân tộc"!

Năm 1989, nhân dịp 20 năm ngày mất của ông Hồ Chí Minh, ông Vũ Kỳ, nguyên thư ký của ông Hồ Chí Minh đã cùng tôi bàn nhau phải đưa toàn bô Di Chúc ra ánh sáng. Không thể mập mờ mãi được. Không thể quịt của người nông dân một năm thuế.

Ông Hồ Chí Minh bắt đầu viết Di chúc từ tháng 5. 1965, sau đó cứ vào tháng 5 hàng năm lại viết lại, viết thêm. Cho nên có tới bốn bản Di chúc bổ sung cho nhau. Ông Vũ Kỳ kể chuyện là ngày 2. 9. 1969, sau khi ông Hồ Chí Minh mất, vào buổi tối ông Phạm Văn Đồng đến nơi đặt thi hài ông Hồ. Ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn đựng cả bốn bản Di Chúc. Ông Phạm Văn Đồng đưa cả hai tay ra ngăn lại: "Không, tôi không nhận. Đây là chuyện hệ trọng, để sáng mai, có đầy đủ Bộ Chính trị, đồng chí đưa ra. " Sáng 3. 9. 1969, có đầy đủ Bộ Chính trị, ông Vũ Kỳ đưa ra chiếc phong bì lớn ấy. Ông Lê Duẩn liền cầm lấy rồi gọi ông Hoàng Tùng, Tổng biên tập báo Nhân Dân vào phòng nhỏ bên cạnh. Ông Duẩn tự quyết định chỉ đưa ra một bản, cắt bỏ, sửa chữa vài chỗ rồi giao cho ông Hoàng Tùng công bố. Tất cả các bản còn lại ông Duẩn giao cho ông Trần Quốc Hoàn giữ như văn kiện tuyệt đối bí mật. Cho đến khi ông Trần Quốc Hoàn thôi chức Bộ trưởng Bộ Công An và chức ủy viên Bộ Chính trị (tháng 3. 1982), ông Vú Kỳ không tài nào lấy lại được tập Di Chúc ấy. Chỉ đến khi ông Trần Quốc Hoàn ốm nặng, ông Vũ Kỳ mới moi được bí mật qua lời hấp hối của ông Trần Quốc Hoàn: "...trong két sắt đặt ở nhà riêng, ngăn thứ hai, tầng dưới cùng. " Thế là cả tập nguyên bản di chúc được tìm thấy.

Tháng 5. 1989, tôi bàn với ông Vũ Kỳ, đặt ông viết một bài báo đặc biệt kể chủ tịch Hồ Chí Minh viết Di Chúc như thế nào, đăng trên tuần báo Nhân Dân chủ nhật do tôi trực tiếp biên tập. Phản ứng của lãnh đạo rất mạnh. Một số žy viên Bộ Chính trị đã lên án hai chúng tôi là làm một việc tầy trời, dám công bố văn kiện quan trọng bậc nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh mà chưa được phép của Bộ Chính trị. Trước những cặp mắt nghiêm nghị cuả bốn žy viên Bộ Chính trị Nguyễn Thanh Bình, Đào Duy Tùng, Nguyễn Đức Tâm, Đổng Sĩ Nguyên và trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa Trần Trọng Tân, ông Vũ Kỳ rất điềm tĩnh. Ông trả lời: "Tôi đâu có công bố Di chúc, tôi chỉ viết theo yêu cầu của anh Thành Tín ở baó Nhân Dân. Nhân dây tôi cũng xin báo cáo suốt hai mươi năm nay tôi ăn không ngon, ngủ không yên, cho đến khi nào toàn bộ Di Chúc của Bác đến được với nhân dân. "

Sau đó Bộ Chính trị phải họp hai lần để bàn riêng về việc này và cuối cùng phải đưa ra Quốc hội bàn về việc công bố toàn bộ các bản Di Chúc đồng thời quyết định giảm thuế nông nghiệp trong hai năm, mỗi năm 50%. Ông Vũ Kỳ và tôi rất mừng, cùng nhau cụng một cốc bia, nghĩ rằng thế là bà con nông dân ta bị hy sinh nhiều nhất về người và của trong chiến tranh cũng đỡ khổ được đôi chút.

Riêng về việc xây lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất nhiều trí thức, cán bộ và đồng bào cho rằng không nên làm điều trái ngược với nguyện vọng thiêng liêng của người sắp từ giã cõi đời, nhất là khi nguyện vọng ấy lại cao đẹp. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu không nên phúng viếng linh đình, tốn kém, mong thi hài mình được hỏa thiêu, vậy mà nguyện vọng ấy không được thực hiện. Thi hài ông không được nhập vào đất đai của quê hương, vẫn nằm trong một chiếc lăng đồ sộ mà lạnh lẽo, tốn kém biết bao nhiêu vật liệu và công sức của nhân dân...

Nhìn tổng quát lại hiện nay, tôi cho rằng ông Hồ Chí Minh khởi đầu là một người yêu nước. Ông theo quốc tế cộng sản với ý nghĩ rằng đó là con đường đúng đắn để giành lại độc lập dân tộc. Thế nhưng càng về sau ông càng bị chủ nghĩa cộng sản "chinh phục", dẫn đến thái độ sùng bái kinh nghiệm Liên Xô và Trung Quốc, áp dụng một cách máy móc chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao Trạch Đông, dẫn đến chế độ độc đảng, độc đóan, đi ngược lại trào lưu dân chủ của thời đại. Do đề cao nguyên lý đảng cộng sản lãnh đạo thường xuyên, toàn diện và tuyệt đối nên pháp luật bị coi rất nhẹ, đảng trùm lên bộ maý nhà nước, quyền công dân bị vi phạm rất nặng nề. Ông cũng chưa thoát khỏi ý thức hệ phong kiến, nên chế độ ở miền Bắc mang tính chất bảo thủ, trì trệ, theo một kiểu quan liêu mang tính chất đẳng cấp nặng nề.

Cùng với người lãnh đạo khác của đảng cộng sản, ông Hồ Chí Minh chịu phần trách nhiệm không nhỏ đối với tình hình đất nước ta trong mấy chục năm qua, dẫn đến cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay, với biết bao thảm họa và bất hạnh cho các tầng lớp nhân dân. Lịch sử rất công bằng. Thế hệ hiện nay và mai sau sẽ còn đánh giá ông Hồ một cách đầy đủ hơn nữa. Dưới sự lãnh đạo của ông và đảng cộng sản, nền độc lập đã phải trả giá quá đắt về sinh mạng, tài sản và thời gian. Và sau đó, chủ nghĩa xã hội trên thực tế là một chế độ nghèo khổ, bất công và phi lý cần phải gạt bỏ dứt khoát.

Ông Hồ Chí Minh là người cộng sản đóng vai trò chủ yếu đưa chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lenine đồng thời cũng đưa chủ nghĩa Staline chủ nghĩa Mao Trạch Đông vào Việt Nam. Ông cũng đóng vai trò chủ yếu trong chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở miền Bắc (sau 1954) với tất cả những sai lầm duy ý chí, nôn nóng, giáo điều và tệ quan liêu, bao cấp, được thực hiện trong cả nước từ năm 1975. Có thể là ông có thiện chí, có ý định tốt? Nhưng ý định tốt không đủ. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam cũng như ở các nước khác lâm vào khủng hoảng trầm trọng, không tìm ra được sức sống, ngược lại với mục tiêu và lý luận sách vở của nó. Nếu còn sống, tất nhiên ông Hồ cũng phải xem xét lại tất cả từ ngọn nguồn, tận gốc. Cho nên Đại Hội 7 Đảng Cộng sản nhắc đi nhắc lại rằng "Con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội là duy nhất đứng đắn vì đã do Bác Hồ lựa chọn" là nói lấy được, là áp đặt, không có lý và hoàn toàn không có sức thuyết phục.

Có một anh bạn khi trao đổi ý kiến với tôi nhận xét rằng:

Lúc khởi đầu ông Hồ đã coi tranh đấu giành độc lập cho đất nước là mục tiêu, sự ủng hộ của đế tam quốc tế của các đảng cộng sản là biện pháp. Về sau ông lại coi muc đích là chủ nghĩa cộng sản, sai lầm là ở đó. Đây là một vấn đề cần bàn luận thêm cho kỹ lưỡng. Đã có nhiều bài viết nhận định: ông Hồ là người yêu nước hay người cộng sản? hay cả hai? mỗi phần là bao nhiêu? Theo tôi, chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội không sai, mà sai ở chỗ chủ nghĩa xã hội nào? Đường đi nước bước sao cho thích hợp? Vì nếu quan niệm chủ nghĩa xã hội thật sự là một nền dân chủ cao, có công bằng xã hội, quyền tự quản của người lao động thật sự được đảm bảo, năng xuất lao động ngày càng cao, sản phẩm làm ra ngày càng dồi dào, được phân phối hợp lý, và có đủ biện pháp để thực hiện đúng như vậy thì tốt qúa chứ! Trên thực tế chủ nghĩa xã hội ở trong tất cả các nước không thực hiện được như thế, lại làm trái hẳn với những mục tiêu cao quý ấy, nên bị phá sản là lẽ đương nhiên.

Còn những ông Lê Duẩn, Trường Chính, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ...ra sao? Đánh giá cho đầy đủ và chính xác một con người thật là khó. Tôi đã được tiếp xúc khá nhiều với các ông trên đây, trong một thời gian dài. Tháng 2. 1983, ban Bí thư trung ương đảng cộng sản Việt Nam, quyết định cử ông Thép Mới và tôi làm công việc viết hồi ký cho ông Lê Duẩn. Công việc dự định trong vài năm. Trước hết là nghe ông Lê Duẩn tự kể, sau đó cùng nhau bàn về nội dung, dàn bài, rồi phân công về lại những nơi ông từng hoạt động lấy thêm tư liệu tại chỗ để viết được phong phú và sinh động. Chúng tôi mới làm được 4 buổi ở nhà nghỉ Quảng Bá, nghe ông Lê Duẩn kể. Về sau bị ngừng lại do nhiều công việc khác cuốn hút, vì không ai chuyên làm công việc này cả. Mùa hè năm 1985, tôi lại được chỉ định tham gia ban viết hồi ký cho ông Trương Chinh bao gồm các ông: Hoàng Tùng, Trần Quang Huy, Nguyễn Văn Phùng...Công việc đang triển khai thì ông Trương Chinh mất. Tôi từng nhiều lần đi theo đại tướng Võ Nguyên Giáp thăm các đơn vị quân đội, các địa phương và một số nước: Trung Quốc, Liên Xô, CHDC Đức, Ba Lan, Hung ga rị..Tôi cũng làm việc gần ông Lê Đức Thọ, đặc biệt là trong thời gian chiến dịch Hồ Chí Minh đầu năm 1975, và từ đầu năm 1979 đến năm 1981 ở Cam pu chia, khi ông trực tiếp đảm nhận chỉ đạo việc giải phóng và giúp xây dựng Cam pu chia.

Nét chung của các ông là tận tụy cho mục tiêu và sự nghiệp cách mạng, rất tin tưởng và tự tin ở công việc minh làm, sống dản dị, có tấm lòng cởi mở thân tình với xung quanh. Các ông đều tiếp thu phong cách sống của chủ tịch Hồ Chí Minh.

Chính từ những nét ưu điểm ấy mà có những nét dở, những nhược điểm lớn dẫn đến sai lầm. Vì quá tự tin và quá tin nên tinh thần phê phán rất yếu. Do niềm tin còn phần chủ quan, mù quáng nên thái độ hoài nghi rất cần thiết cho nghiên cứu khoa học- quá yếu. Do đó tệ duy ý chí phát triển mạnh, nhất là sau toàn thắng. Khó nhất là đánh Mỹ mà đã đánh thắng thì không còn việc gì khó khăn nữa cả, dế ợt! ý thức dân chủ rất yếu, có lẽ vì các ông đều chưa sống qua một xã hội dân chủ, có ra nước ngoài thì phần lớn là các nước xã hội chủ nghĩa. Các ông lại thoát thái từ xã hội phong kiến và thuộc địa nên đi làm cách mạng mà tác phong quan liêu, quan dạng còn khá rõ. Do đó mà không khí gia đình, nể nang, gượng nhẹ với nhau, dĩ hòa vi quý rất nặng nề. Có một câu chuyện khá kỳ lạ mà có thật. Năm 1987, đoàn cán bộ của Ban Tổ chức chính quyền đi tham quan Liên Xô và Cộng hòa dân chủ Đức để nghiên cứu về cách làm việc của bộ máy nhà nước và bộ maý đảng ở Moscou và Berlin. Khi trở về, đối chiếu với tình hình Việt Nam, thì té ra ở Hà Nội, tất cả các ủy viên bộ Chính trị đều không hề làm việc ở cơ quan của trung ương, mà mỗi vị đều làm việc tại gia!

Trụ sở của Trung ương đang đặt tại trường Albert Sarraut cũ. ở đó có phòng họp lớn của Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Các vị ủy viên Bộ Chính trị đều làm việc tại nhà riêng, trên các đường phố khác nhau, thường cách xa nhau. Mỗi nhà thường là một biệt thự được sửa sang, mở rộng để có đủ chỗ ở cho gia đình, cho văn phòng, thư ký, lái xe và đơn vị bảo vệ. Văn phòng thường có từ 6, 7 đến mười, mười hai người. Có chánh văn phòng, phó văn phòng, thư ký hành chính, thư ký lo chương trình hoạt động, trợ lý về văn thư, báo chí, kinh tế, ngoại giaọ..lại có cả phòng viên chụp ảnh riêng. Ngoài ra còn tiếp phẩm (đi chợ mua bán), người nấucơm, người phục vụ cơm nước... tản mát nên chỉ khổ cho Chánh văn phòng trung ương đảng. Vì muốn xin ý kiến tập thể bộ Chính Trị, phải ghé đến lần lượt đủ 13 hay 14 ngôi nhà, ghi chép ý kiến đầy đủ, thông báo những ý kiến ấy, làm trung gian trao đi đổi lại, thật nhiêu khê, vất vả...Gần đây mới có chấn chỉnh để mỗi ủy viên bộ chính trị có một phòng làm việc ở gần nhau. Một cán bộ ở văn phòng Trung ương đảng đang than vãn với tôi: Có lẽ trên thế giới không có một đảng cầm quyền nào mà các ủy viên Bộ Chính trị lại chuyên làm việc tại gia và phân tán đến như thế này! Nó tồn tại tự lâu mà không ai nhận ra sự vô lý, cái tác phong thủ cựu quan liêu lại du kích, tản mạn và tùy tiện để sửa chữa cả!

Về ông Lê Duẩn, ông là một con người khá sắc sảo. Hồi kháng chiến chống Pháp ông được mệnh danh là ông "cent bougies" (trăm nến) nghĩa là hiểu biết, sáng suốt. Hồi đó với những ý kiến vận động trí thức, giải quyết vấn đề tôn giáo một cách kiên trì và khôn khéo, không tả khuynh, vội vã...được anh em cán bộ ở miền Nam rất chịu. Ông làm thư ký hỏa xa rồi đi hoạt động. Ông nắm những khái niệm lý luận, triết học, chính trị kinh tế học bằng tiếng Pháp, từ nhà tù Côn đảo, nhưng lại không giảng giải được bầng tiếng Pháp. Ông thường nhắc đến khái niệm ấy như: quantité và qualité, contradiction, transformation, Paupérisation relative và absolue, valeur marchandẹ..Ông rất tự tin và suy nghĩ bằng tư duy của mình, có tinh thần độc lập và có sáng tạo. Ông sớm có ý định dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực đàn áp ở miền Nam sau Hiệp định Genève. Ông để xuất xây dựng gấp các quả đấm thép lớn (các quân đoàn như 1, 2, 3, 4 lần lượt được xây dựng những năm 1973, 1974) để chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công lớn. Ông có nhận thức sắc sảo về thời cơ. Chiến dịch mùa xuân 1975 trước định nhằm mở ra một quá trình kết thúc cuộc chiến tranh trong hai năm, sau rút lại để kết thúc cuộc chiến tranh trong một năm, sau rút lại để kết thúc trong hai tháng, là do đề xuất của ông. Từ cuối tháng 12. 1974, ông đã có ý kiến bên cạnh kế hoạch được bàn bạc và quyết định, cần chuẩn bị thêm "kế hoạch thời cơ" để tận dụng điều kiện thuận lợi mới, kết thúc thật nhanh cuộc chiến tranh.

Trong quan hệ với cán bộ, ông ít có những cuộc chuyện trò chân tình, tâm giao, ông cũng ít quan tâm đến người khác. Có những nhà báo gặp ông nhiều lần, hỏi chuyện vài lần, nhưng sau đó gặp lại ông cũng không nhận ra. Trong chuyến đi thăm Ấn Độ năm 1985, ông chẳng để ý gì đến anh em phục vụ đi theo đoàn là những ai, làm gì, công việc ra sao, ông chỉ quan hệ với mấy ủy viên bộ chính trị và žy viên trung ương cùng đi, anh em chụp ảnh, quay phim, làm tin tức, bảo vệ, lãnh sự, an ninh...không hề được ông hỏi han đến, khác hẳn với tác phong ông Hồ Chí Minh và các vị khác. Cứ mỗi buổi sáng, ông chỉ ăn sáng với một trợ lý sắp xếp chương trình, với tôi để nghe tổng hợp tin tức trong đêm qua và chị Tôn nữ thị Ninh phiên dịch để trao đổi về nội dung sẽ làm việc trong ngày. Anh em cùng đi đều chung một nhận xét: ông ít quan tâm đến người phục vụ bên dưới.

Ông gần như không bao giờ tự viết mà chỉ nói, nhưng nói theo luồng suy nghĩ tức thời, giọng lại lắp bắp nên rất khó nghe. Đây là cảm tưởng chung của mọi người. Ai cũng cảm thấy mệt khi cố tìm hiểu xem ông định nói gì. Một kiểu nói không cần gì đến văn phạm cả!

ở ông, sự tự khẳng định mình có lúc đi đến chổ tự kiêu và chủ quan, ông vẫn nghĩ rằng chủ trương dùng bạo lực được đưa vào nghị quyết Trung ương lần thứ 15 hồi đầu năm 1960 là do ông đề xuất ra trong thời gian hoạt động ở miền Nam, sau Hiệp định Geneve, ông đã suy ngẫm về tình hình trong những tháng ở Rạch giá, U- minh, Cà Mâu, Bạc Liêu và về ở Chợ Lớn trong nhà một cơ sở để thảo ra bản đề cương cho cách mạng miền Nam. Những khái niệm đấu tranh vũ trang kết hợp đấu tranh chính trị, đấu tranh trong cả ba vùng chiến lược: nông thôn, thành thị, rừng núi, bằng ba mũi giáp công: chính trị, quân sự, binh vận, bằng ba thứ quân: chủ lực, địa phương và du kích...đã được hình thành từ đó. Ông đã tổng kết các cuộc đồng khới tự phát ở Trà Bồng, ớ Bác i (Nam trung bộ) và ở Mỏ Cầy (Bến tre) để phát triển quan niệm khởi nghĩa của quần chúng. Thật ra sau này, ông Trường Chinh cho biết và cũng theo Bản tổng kết lịch sử đảng, thì đã có sự trùng hợp ý kiến của ông Lê Duẩn với những ý kiến của những người khác. Ông Trường Chinh đã kể cho tôi hồi đầu năm 1985 rằng: "ý kiến anh Ba về bạo lực đấu tranh cách mạng không phải là ý kiến duy nhất, cũng không phải là ý kiến sớm nhất".

Tự kiêu và chủ quan rõ hơn là khi ông kể về bản thân mình và lại so sánh với chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi còn nhớ rất rõ, trong 4 buổi sáng, năm 1983 ở nhà nghỉ Quảng Bá Hà Nội, có mặt ông Hoàng Tùng (lúc ấy là ủy viên ban bí thư, phụ trách công tác tư tưởng), ông Đống Ngạc (trợ lý Tổng bí thư), ông Nguyễn Cận (người tham gia sưu tầm và giới thiệu những bức thư gửi vào Nam), ông Thép Mới và tôi (đều ở báo Nhân Dân), ông Lê Duẩn đã kể lại trên đại thể quá trình hoạt động của ông. Có ba lần ông cao hứng, tự nói về những đóng góp xuất sắc của mình, và tự so sánh với ông Hồ Chí Minh, ông nói: "Tôi à, tôi hơn bác Hồ chớ. Này nhé bác Hồ mở mồm ra là nói nhân, nghĩa, lễ, trí, tín- Đó là gì? là phong kiến, là lạc hậu rồi. Tôi à, tôi nói: làm chủ tập thể. Đó là lập trường công nhân, tư tưởng công nhân..."

Một lần khác ông kể: "Sau Hiệp định Geneve, bác Hồ còn nghĩ tới tổng tuyển cử. Đó là gì? Là ảo tưởng! Tôi à, tôi hơn bác Hồ chớ. Tôi nghĩ ngay đến bạo lực. Tôi bảo anh em chôn súng. Tôi bàn với anh em để lại lực lượng ở miền Nam không tập kết hết cả đâu nhé..."

Lại một buổi khác ông thích thú: "Tôi à, tôi hơn bác Hồ chớ!

Bác sang Liên Xô và Trung Quốc, nghe Staline và Mao bảo gì là vâng vâng hết! Tôi à, tôi dám cãi lại với Krouchev, tôi dám cãi lại với Mao. "

Đó là căn bệnh chủ quan và kiêu ngạo không kiềm chế nổi. Nếu quả thật ông Lê Duẩn hơn ông Hồ Chí Minh thì là điều đáng mừng, hậu sinh khả úy. Thế nhưng đấy đều là những điều ông Lê Duẩn tự ngộ nhận (nhà báo Thép Mới ngay sau đó viết loạt bài Thời thắng Mỹ, sau được in thành sách, bị phê phán là: bồi bút, xu nịnh, cơ hội, tự sát về nhân cách...). Cái sáng tạo của ông về "làm chủ tập thể", đã làm tốn không biết bao giấy mực bàn cãi, hội thảo!...mà không thấy có gì hay hơn, cao hơn là khải niệm dân chủ, nên đã bị gác lại sau khi ông qua đời.

Trong suy nghĩ của ông Lê Duẩn, có điều gì đó cực đoan. Đó là từ hồi 1977 đến 1980, 1982, ông thường nhận xét: "Bọn bành trướng bá quyền Trung Quốc luôn là kẻ thù của đất nước ta- Tôi thấy điều đó ngay từ hồi Nixon sang Trung Quốc, và tôi đã nói ngay sau khi toàn thắng là phải rất cảnh giác, phải rất coi chừng bọn bành trướng Trung Quốc- Chúng vốn thù địch với ta và chắc chắn còn thù địch với ta hàng trăm năm nữa!"

Trong xây dựng đất nước ông ít có sáng kiến đáng kể. Đến nay người ta vẫn còn kêu về ông, nhất là về hai chủ trương ghép một số tỉnh và lấy huyện làm đơn vị chiến lược về kimh tế. Có người gọi đó là những cơn ngẫu hứng tai hại của Tổng bí thư. Sau ngày Toàn Thấng, ông nghĩ rằng phải ghép tỉnh để mỗi tỉnh có từ trên 1 triệu đến 2 triệu dân mới có thể thành một đơn vị để xây dựng. Việc này không được Quốc hội bàn đến để cân nhấc lợi hại. Thế là ghép tỉnh, Hà Đông, Sơn Tây với Hòa Bình thành Hà Sơn Bình, Hà nam, Nam Định với Ninh Bình thành Hà- Nam- Ninh, Hải Dương và Hưng Yên thành Hải- Hưng, Quảng Bình, Quảng Trị với Thừa Thiên thành Bình- Trị- Thiên, Quảng Ngãi với Bình Định thành Nghĩa- Bình, Phú yên với Khánh Hòa thành Phú- Khánh...Việc hợp tỉnh rất tốn kém, lại gây nên mất đoàn kết kéo dài. Bí thư với phó bí thứ tỉnh ủy, chủ tịch, phó chủ tịch žy ban nhân dân, các giám đốc sở xếp rất gay go. Phải mặc cả tỉnh cũ này giữ ghế này, tỉnh cũ kia giữ ghế kia cho thăng bằng! Rồi ông này bênh tỉnh cũ của mình, bà kia "trù" cán bộ của tỉnh (cũ) kia cứ như thế công việc lằng nhằng, chỉ đối phó nhau trong nội bộ đã mất thời gian và mất sức! Đã vậy lại có tỉnh quá dài, đến mấy trăm km. Bình- trị- thiên, từ dèo Ngang vào đến dèo Hải Vân dài hơn 200km, tỉnh không sao ôm xuể, năm 1990 lại phải chia lại làm ba tỉnh. Phú Khánh cũng thế, lại phải chia lại làm hai: Khánh Hòa và Phú Yên.

Anh chị em cán bộ còn kháo nhau: ngoài cái vụ hợp nhất các tỉnh và các huyện ra, tai hại hơn là hồi 1983, ông Duẩn cao hứng đề xuất việc đưa cấp huyện lên trở thành cấp chiến lược, khác với xưa nay, huyện là cấp trung gian giữa xã và tỉnh. Theo hướng ấy, 400 huyện sẽ là 400 đơn vị kinh tế cơ bản hoàn chỉnh. Thế là cơ quan tất cả các huyện bành trướng rất nhanh, mỗi huyện có đến 30, 40 công ty khác nhau, cùng với hơn 20 phòng chuyên môn! Biên chế tăng, ngân sách chi trả về tiền lương tăng, mà hiệu quả thì không rõ! Sau gần ba năm triển khai, từ khi ông Duẩn mất, chẳng còn ai mặn mà với cấp huyện nữa. Trong điều kiện kinh tế hiện nay, bầy biện càng lắm mà không có đủ nguyên vật liệu, tài chính thì chỉ thêm lảng phí và cách bức. Gần đây đã phải thu hẹp biến chế cấp huyện, chấm dứt một cuộc phiêu lưu về tổ chức. Đất nước đã nghèo lại nghèo thêm là từ những chủ trương ngẫu hứng của người lãnh đạo như vậy đó. Người ta than thở: "Cụ" mất rồi mà nay việc dọn dẹp những bãi rác "cụ" để lại vẫn còn mất biết bao công của và thời gian..."

Đây là những vấn đề cho chúng ta suy ngẫm để rút kinh nghiệm cho việc xây dựng một chính quyền thật sự dân chủ, có hiểu biết sâu rộng và vững chắc.

Về ông Trường Chinh (Đặng Xuân Khu), điểm nổi bật là trình độ hiểu biết khá sâu rộng. Ông chịu khó đọc sách và suy nghĩ. Trung văn và Pháp văn ông đều am hiểu khá. Ông chăm chỉ và cẩn thận. Cho nên có lúc người ta đã đặt bí danh cho ông là Thận, anh "Thận" bên cạnh bí danh cũ "anh Nhân". Ông cẩn thận đến từng câu, từng chữ, từng dấu chấm, dấu phẩy. Khi nói cũng thế, ông nói rõ, đúng văn phạm, từ tốn, chuẩn xác, từng câu, từng chữ một. Ông có làm thơ (ký tên Sóng Hồng) nhưng thơ không thật là thơ, thiếu ý thơ, thiên về sáo ngữ và có tính cách hô hào mà thiếu âm hướng sâu bền. Văn chính luận của ông rõ ràng, khúc chiết, lập luận chặt chẽ- Sau sai lầm cải cách ruộng đất mà ông trực tiếp chịu trách nhiệm, ông hầu như không muốn nhắc đến chuyện ấy nữa. Ông có cái nhìn rất nghiêm khắc, đòi hỏi ở xung quanh nếp sống đúng giờ giấc, kỷ luật, viết và nói đúng như nghị quyết, luôn luôn giữ đứng lập trường của đảng. Một thiếu sót của ông về sau là thiếu hẳn sự tiếp xúc với nhân dân. Theo những lời ông kể (ông Nguyễn Văn Phùng, phó Viên trưởng viện lịch sự đảng, và tôi là hai người được nghe ông kể trong 6 buổi sáng ở Đà Lạt tháng 6 năm 1985) thì thời hoạt động bí mật, ông có những chủ trương và phong cách khá đặc sắc. Ông hoạt động rất khôn khéo, tháo vát, nhiều lần tránh được các cuộc vây bắt của mật thám. Khi thì giả người dạy học, người đi buôn, khi thì giả lái đò, viên chức nhỏ. Hồi trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, có người muốn đưa ATK (An toàn khu) của trung ương đảng cộng sản lên vùng rừng núi, vùng biên giới Việt- Trung, nhưng ông một mực giữ chủ trương ATK phải ở gần thủ đô Hà Nội, không quá một ngày đường đi xe đạp để bắt mạch được tình hình trong nước và thế giới. Ông tạo được cơ sở là một nhóm công nhân ở nhà in TAUPIN. Chiều nào Phủ toàn quyền Đông Dương cũng cho một người Pháp đưa đến in một thông báo nội bộ về tình hình chiến sự, tình hình thế giới và trong nước, in ra chừng 60 bản để phát cho quan chức Pháp cấp cao. Hai anh công nhân bao giờ cũng in thử và giữ lại một bản mô- rát (bản mô- rát chính thì người Pháp đốt trước khi rời nhà in). Ngay tối hôm ấy bản mô- rát được đưa lên ATK ở vùng Đông Anh hoặc Bắc Ninh. Ông cũng có cơ sở trong một viên chức ở Hà Nội, có đài thu thanh, ông này thường ghi lại những tin tức chính, hàng ngày có người đến nhận để mang lên ATK. Ông Trường Chinh đã viết chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" trong điều kiện ấy. Từ khi không làm Tổng bí thư nữa, vị trí của ông giảm hẳn. Khi ông là Chủ tịch Quốc hội, tôi đã đi theo đòan của ông đi thăm các địa phương ở Bình trị Thiên và Nam Bộ. Chẳng còn là ông Nhân xưa đi xe đạp trong kháng chiến, ghé các nhà cơ sở ăn khoai luộc với muối, uống nước chè xanh...Lúc nào cũng là đoàn xe Volga bóng lộn, người đưa kẻ đón, diễn văn, tiệc tùng...Sức khỏe cũng không cho ông xông xáo như xưa. Những lời phát biểu của ông ngày càng hình thức, cứng nhắc.

Tôi thấy cần công bằng với ông ở hai điểm: Hồi 1960 khi có cuộc tranh luận lớn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và do đó trong đảng cộng sản Việt Nam có những khuynh hướng khác nhau. Ông lúc đầu đã có chủ trương tán thành nội dung đại hội 20 đảng cộng sản Liên Xô, lên án tệ sùng bái cá nhân Staline và tán thành đường lối chung sống hòa bình do Krouchev khởi xướng. Về sau chính ông Lê Duẩn đã chủ trương ngả về phía Trung Quốc và lôi cuốn cả Bộ Chính trị và Trung ương theo hướng đó. Những ai không tán thành đều bị chụp mũ là "xét lại", là "chống đảng". Do bản tính dĩ hòa vi quý, lại ở trong thế yếu, nên ông Trường Chinh không có phản ứng gì. Đến năm 1986, khi thấy ông Lê Duẩn vừa mất, đảm nhận chức quyền Tổng bí thư, ông đã có ý thức trách nhiệm rõ rệt, tiếp nhận xu hướng đổi mới dứt khoát của Liên Xô và phác họa ra cả một kế hoạch đổi mới rất rõ nét, có bài bản cho Việt Nam. Uy tín ông dâng lên, cho nên đến Đại hội 6, khá đông đoàn đại biểu (mà khởi đầu là đại hội đảng toàn quân đội) đã đề xuất bộ ba mới sẽ là: ông Trường Chinh làm Tổng bí thư, ông Phạm Văn Đồng làm chủ tịch Hội đồng nhà nước và đại tướng Võ Nguyên Giáp làm chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Sự sắp xếp này đã bị ông Lê Đức Thọ phá vỡ bằng cách viết thư thuyết phục (trên thực tế là ép) hai ông Trương Chinh và Phạm Văn Đồng cùng với chính ông ta thôi không tham gia trung ương nữa, chỉ nhận chức cố vấn Ban chấp hành trung ương đảng. Hiện nay vẫn còn khá nhiều đại biểu dự đại hội VI luyến tiếc sự sắp xếp trên kia và nhận xét: Đại hội VI là đại hội của ông Sáu (tên thường gọi của ông Lê Đức Thọ).

Vào lúc cuối đời, ông có một nét nhỏ làm tôi suy nghĩ và nhớ mãi. Hồi tháng 6. 1985 khi ông cùng gia đình đi nghỉ ba tuần ở Đà Lạt, ông yêu cầụ ông Nguyễn Văn Phùng ở Viện nghiên cứu lịch sử đảng và tôi đi theo để làm việc. Một hôm sau khi kể xong, nghỉ chờ ăn cơm, ông kéo riêng tôi vào buồng ngủ (đây là biệt dinh 1, nơi nghỉ của vua Bảo Đại và gia đình hồi xưa), chỉ chiếc giường có nệm gấm vàng thêu rồng và chăn vàng thêu phựơng cùng với hai chiếc gối gấm vàng, chúm miệng lại nói rất nhỏ như để khoe: Chú vào đây, chú biết không, đây là phòng ngủ, kia là giường, nệm, chăn, gối của vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương đó! Lúc ấy bà Trường Chinh ngồi ngay trên chiếc ghế ở trong phòng.

Tôi vừa buồn cười, vừa sửng sốt đến ngỡ ngàng. Hóa ra một vị lãnh đạo công sản kỳ cựu, từng chủ trương lật đổ ngai vàng này lại tỏ ra thích thú và xúc động đến thế, khi được ngủ trong phòng, đắp chăn và dùng gối nệm đầy những biểu tượng rồng phượng của hoàng đế và hoàng hậu thời xưa!.

Khi bàn với chúng tôi về viết giúp ông cuốn hồi ký, ông Trường Chinh nhận xét: "Chớ có viết như loạt bài Thời thắng Mỹ của Thép Mới. Nói không đúng sự thật. Hay gì cái thói thổi phóng, thêu dệt! Đó là thái độ cuả kẻ cơ hội- Mà người ta còn sống cả kia mà! Viết thế là hại cho anh Ba (ông Lê Duẩn). Cũng chớ có viết như Đại Thắng mùa xuân (của tướng Văn Tiến Dũng, Hồng Hà ghi), nói không đúng sự thật, các chú không biết sao! Khi in thành sách đã phải chữa đến hơn 30 chỗ, ai biết người ta cười cho!"

Hai ngày trước khi ông mất đột ngột, ông đã gặp những người đang giúp ông viết Hồi Ký. Ông ngã khi đang lên thang gác, đầu va phải bậc đá. Chiếc ảnh ông chụp hôm ắy với chúng tôi là bức ảnh cuối cùng của ông.

Về ông Phạm Văn Đồng, tôi có một sự kính trọng và quý mến từ lâu. Ông đựơc cán bộ và nhân dân quý trọng về cách sống dản dị, thái độ ngay thật, có văn hóa. Cuộc đời riêng của ông buộc ông phải chịu đựng với nghị lực cao. Vợ ông, một người đẹp ở hiệu kem Zephir trước cửa hàng Thủy tạ, bờ hồ Hoàn Kiếm, từng giúp đỡ các chiến sĩ cách mạng thời kỳ bí mật, đã bị ốm khi ông cùng bà từ Liên khu năm lên Việt Bắc năm 1949. Bà bị bệnh tâm thần ở thể u uất rất nặng, chỉ ngồi thừ một chỗ, rũ rượi, u buồn. Hai ông bà có một con trai rất ngoan, học giỏi, một thời ở trong quân đội, nay đã hơn 40 tuổi. Dương, tên anh_ là nguồn an ủi lớn của ông. Thường cứ tối thứ bẩy ông đến ăn cơm với vợ, với cái nghĩa vợ chồng chung thủy. Những ngày thường, ông sống một mình với công việc, đọc sách, nghe đài- Từ ba năm nay mắt ông gần như lòa hẳn, không hồi phục được. Ông thường giải trí bằng cách nghe đọc những đoạn văn hay của Victor Hugo và Anatole Francẹ..sau khi đi bách bộ sáng và chiều, mối buổi cố đi được 2 đến 3 km.

Ông là một người trí thức chịu khó tìm hiểu tình hình và suy nghĩ, có tấm lòng với đất nước. Ông rất dễ xúc động, có lúc rơi nước mắt trước những thân phận xót xa của con người, nhất là cúa trẻ em và phụ nữ. Ông từng có những tác phẩm khá tốt như bài viết dài in thành sách về Nguyễn Trãi, nhân kỷ niệm 600 năm ngày sinh của nhân vật kiệt xuất của dân tộc được cả thế giới ngưỡng mộ như một danh nhân.

Nhưng nhiều anh chị em trí thức vừa thương, lại vừa chê ông vì sự nhu nhược khi làm trong cơ chế. Tôi đã nghe ông than vãn đến 6 lần: "Tôi là thủ tướng nhiều tuổi nhất (ông làm thủ tướng đến tuổi hơn 70), nhưng cũng là thủ tướng bất lực nhất!" Rồi ông trần tình: "Tôi không có quyền, tôi nói mà chẳng ai nghe cả- Đến thay đổi một thứ trướng, tôi đề nghị thôi mà cũng không được, chưa nói đến chọn bộ trưởng!"

Người ta trách ông: sao ông không đấu tranh, không đặt vấn đề trách nhiệm đi đôi với quyền lực, ông không có quyền thì còn ai có quyền nữa. Thế nhưng rồi ai cũng thông cảm với ông vì cái cơ chế này nó kỳ lắm, đảng tự đặt trên chính quyền, dẫm chân lên chính quyền, dựa trên một nguyên tắc nhắc đi nhắc lại hoài như một chân lý: đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và thường xuyên. Như về lựa chọn cán bộ, thì Ban tổ chức trung ương đảng quyết định tất cả, chính phủ chỉ cúi đầu chấp nhận. Ông là người ít nói nhất trong bộ Chính trị- Có lẽ vì ông nhẫn nhục, ông dứng ngoài mọi sự cạnh tranh, đua tranh về quyền lực, về phe nhóm. Ông chỉ phát biểu khi thật cần, và những câu thường có trọng lượng giầu suy nghĩ. Đó là cuối năm 1974, khi thảo luận về quyết tâm trong mùa xuân 1975, ông phát biểu: "Về khả năng phản ứng của chính phủ Mỹ, tôi đã suy nghĩ về vấn đề này hơn tuần này và có thể khẳng định: chuyến này cho ăn kẹo chính phủ Mỹ cũng không quay trở lại can thiệp đâu, ta cứ mạnh dạn mà làm ăn. Ta cứ đưa hết quân chiến đấu vào miền Nam đi- Vâng, cho ăn kẹo Mỹ cũng không trở lại nữa!"- ông cười. Thường là ông nói xong là cười rất hồn nhiên, sáng khoải, một tràng cưòi rộ ra rất thoải máị..

Ông sống ngay thẳng có công tâm, trong sạch. Ông sống co lại, gần như cô độc. Khi người thư ký riêng của ông- nhà khoa học cũng là nhà thơ VIT PHƯƠNG- bị đối xử oan uổng, bị chụp mũ là "xét lại" chỉ vì vài câu thơ bộc trực, lên án những thói xấu ở đời, ông cũng chỉ im lặng, không hùa theo để lên án, nhưng cũng chẳng bênh vực. Cho đến khi sóng yên bể lặng, ông Việt Phương trở lại làm việc ở viện Quản Lý kinh tế thì ông lại vời ông Phương đến để dùng tài vào việc viết lách giúp ông...Con người ông là thế đó. Có lẽ kinh nghiệm lớn nhất về ông Phạm Văn Đồng là: một con người có tâm huyết, có hiểu biết khá rộng, thông minh và sắc sảo đã bị cơ chế cứng ngắc làm cho vô hiệu. Vấn đề quyết định là cơ chế, một cơ chế hỏng sẽ cản trở mọi tài năng và tâm huyết.

Còn đại tướng Võ Nguyễn Giáp? Tôi từng biết ông từ rất lâu, tháng 9. 1945, khi ông đến lớp Quân chính ở trường Đỗ Hữu Vỵ giảng về chiến tranh du kích, về vai trò của đấu tranh vũ trang trong đấu tranh cách mạng. Tôi cũng gặp ông ở Hội nghĩ về chiến tranh du kích ở Bình Trị Thiên. Sau đó là những cuộc Hội nghị quân chính hàng năm. Năm 1975, ông vào Sài Gòn mấy ngày sau Toàn thắng. Tôi còn nhớ hôm ấy, ngày 7. 5 thì phải, ông được đón từ sân bay Tân Sơn Nhất vê Đinh Độc Lập mới trở thành "Nhà khách của chính phủ". Đêm đó một viên tướng trong ủy ban quân quản ngỏ lời: "Thưa anh, chúng tôi có chiếc đàn dương cầm loại tốt lấy được trong căn cứ quân sự, xin để gửi anh chơi thử. " Tôi thấy đại tướng Giáp nổi giận quắc mắt: Sao lại vậy? Không được! Tôi mà nhận đàn dương cầm thì anh em khác nhận gì? Không được. Kỷ luật chiến lợi phẩm phải nghiêm từ trên xuống dưới". Tôi càng quý thêm ông Giáp hôm ấy. Về sau chiến lợi phẩm bị chia chác bừa bãi, mạnh ai nấy lấy, vì sau Đại hội đảng lần thứ tư cuối năm 1976, ông Văn Tiến Dũng trên thực tế đã thay ông Giáp làm Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng.

Từ một ông tú, rồi ông cử (ông tốt nghiệp cử nhân luật khoa trường Đại học Hà Nội năm 1936) rồi làm giáo sư sử học rất có tín nhiệm với học sinh (có học sinh còn nhớ rõ ông từng say sưa giảng dạy về cách mạng Pháp năm 1789 và ca ngợi nhiệt thành Denton, Marat, Robespierre ra saọ..)

Ông thông minh, có trí nhớ tốt, luôn ham mê đọc sách báo, hiểu biết mới mẻ, cho đến tận bay giờ. Đến phòng làm việc của ông, sách đặt ngổn ngang có trật tự, nhiều cuốn đang đáng dấu bằng các mẩu bìa, nơi cần đọc và tra cứu. (Mỗi lần đến gặp ông tôi lại nhớ phòng làm việc và nhà ở của một đại tướng khác, cùng žy viên bộ Chính trị cho đến hết đại hội đảng 5, xuất thân từ một cố nông ở Nghệ An, sách rất nhiều, nhưng luôn là sách trang trí, xếp rất đẹp thành hàng thẳng tắp, trong hàng loạt tủ kính và bao giờ cũng đứng nghiêm không động đậy như để chờ duyệt binh vậy! Hai phong cách, từ hai nguồn văn hóa và tập quán giai cấp!...

Cán bộ quý trọng và tin cậy ông. Ông đào tạo được một đội ngũ sĩ quan trẻ, có học thức, tận tụy và theo gương ông dản dị và liêm khiết. Chính tư duy khoa học, giỏi biên chứng pháp mác xít từ tuổi trẻ đã giúp ông chỉ huy và lãnh đạo quân đội rất nhanh nhạy và sâu sắc, trong công tác tổng kết ông nắm bắt mọi tình hình mới, hiện tượng mới để tìm hiểu và nâng cao lên trong nhận thức. Khoa học quân sự được chính ông đích thân phát triển và ông coi trọng việc quảng bá cho lớp lớp cán bộ- Có thể nói những chiến thắng quân sự đã bắt nguồn từ đường lối chính trị và đường lối quân sự đúng dắn. cương vị Bộ trưởng quốc phòng và Tổng tư lệnh, ông đã để lại một dấu ấn khá sâu.

Cũng có thể nói số phận ông quả là lận dận. Năm 1982, ông bị đưa ra khỏi bộ Chính Trị, chỉ còn là žy viên trung ương đảng, được phân công là Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng phụ trách về công tác khoa học. Ông còn kiêm nhiệm một số vấn đề khác có tính chất mặt trận, có khi hiếu hỷ (trong các cuộc kỷ niệm), hoặc như chủ tịch ủy ban sinh đẻ có kế hoạch (để một nhà báo phương Tây nói vui rằng: chiến trường của đại tướng Giáp ngày nay là chiếc giường của những cấp vợ chồng trẻ), còn văn học dân gian trên đường phố thì cho rằng thời buổi này thật lạ lùng:

• Nhà chính trị đi làm thơ

• Nhà thơ đi làm kinh tế

• Còn thống chế đi đặt vòng...

trong nước và ở nước ngoài, người ta băn khoan đặt nhiều câu hỏi về đại tướng Giáp- Vì sao ông lại bị đưa ra khỏi bộ Chính trị năm 1982 tại Đại hội V? Lúc ấy cơ quan lãnh đạo giải thích rằng vì tuổi tác và sức khoẻ, dể nhường cho những người trẻ hơn! Thế nhưng sao lúc ấy các ông Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh...cũng cao tuổi, sức yếu lại không nhường cho người khác? Giải thích thế là không ổn.

Trong đảng, ông Giáp ở vị trí rất cao và rất sớm. Ngay sau cách mạng tháng Tám 1945, Ban thường vụ trung ương đảng (ngang với Bộ Chính trị sau đó) chỉ có chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Võ Nguyên Giáp, ông Lê Đức Thọ và ông Hoàng Quốc Việt- Về sau có thêm ông Nguyễn Lương Bằng (Sao Đỏ)- Ông Phạm Văn Đồng đến năm 1947 mới vào Trung ương, ông Lê Duẩn sau này mới vào Bộ Chính trị.

trong hàng ngũ những cán bộ cao cấp, nhiều người cho rằng ông Lê Duẩn luôn có thái độ chê bai và muốn hạ thấp vai trò cũng như uy tín của ông Giáp. Tôi đã dự nhiều cuộc nói chuyện của ông Lê Duẩn sau năm 1975. Rõ rệt nhất là ở Tòa soạn báo NHÂN DÂN tháng 3. 1983 nói chuyện với cán bộ từ hàng vụ trưởng trở lên, ông ngang nhiên nói: "Hồi đó (hồi đánh Mỹ), bộ trưởng quốc phòng nhát như thỏ đế, vừa dánh Mỹ mà vừa run như vậy này (ông co người lại run rẩy). Do đớ chúng tôi không để cho chỉ huy, chúng tôi phải trực tiếp nắm tình hình và chỉ đạo chiến tranh, và trên thực tế đã thay người khác trong nhiệm vụ Bộ trưởng Quốc phòng...". một số cuộc họp khác, ở Hà Nội và Sài Gòn, ông cũng nói như vậy, đả kích rõ rệt đại tướng Võ Nguyên Giáp.

Thật ra không phải chỉ gần đây, mà từ năm 1962, ông Giáp đã bị gián tiếp đụng chạm khá mạnh. Đó là thời kỳ đấu tranh quan điểm chuẩn bị cho hội nghị trung ương lần thứ 9 cuối năm 1963. Cuộc Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân thế giới hồi năm 1960 diễn ra rất gay gắt, chia làm hai phe: Liên Xô và Trung Quốc- Ai đứng đầu phong trào? Phong trào có một đầu hay hai đầu? Bên này gọi bên kia là giáo điều, bảo thủ. Bên kia gọi bên này là xét lại, phản bội chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Mao đả Krouchev khá gay gắt và Krouchev cũng lên án Mao khá mạnh. Bộ Chính trị đảng cộng sản Việt Nam dần dần ngả hẳn về phiá Mao. Mỗi buổi sáng dài Hà Nội phát tất cả những văn kiện dông dài của đảng cộng sản Trung Quốc công khai tranh luận với đảng cộng sản Liên Xô, "bảo vệ đến cùng, không khoan nhượng sự trong sáng của chủ nghĩa Mác- Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. "

Ông Giáp bị ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ "chiếu tướng" từ dạo ấy. Năm 1964, cùng một lúc các cục trưởng tác chiến Đỗ Đức Kiên, cục trưởng quân báo Nguyễn Minh Nghĩa, chánh văn phòng Bộ Quốc phòng Lê Minh Nghĩa bị bắt giữ. Đây là ba trí thức trẻ xuất sắc thời thuộc Pháp, có trí tuệ và tâm huyết, thân thiết với đại tướng Giáp suốt trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, về sau sang Liên Xô học rất giỏi. Ông Kiên nguyên là kỹ sư nông nghiệp tốt nghiệp học viện Phrunze với bằng đỏ. Tiếp đó là hàng chục sĩ quan bị bắt giữ, phần lớn là trí thức. Sau khi đại tá Lê Vinh Quốc, chính ủy quân khu ba và thượng tá Văn Doãn- Tổng biên tập báo Quân đội nhân dân, ở lại Liên xô không trở về nước vì bất đồng chính kiến hồi cuối năm 1964, hàng loạt cán bộ báo quân đội nhân dân bị bắt như: Hoàng Thế Dũng tổng biên tập, Trần Thư, Mai Luân, Mai Hiến, Đinh Chân...và nhiều người khác bị xét hỏi. Một số người bị Ban bảo vệ Quân đội thẩm vấn và trong các cuộc thẩm vấn thường có câu hỏi: "Đối với đại tướng Võ Nguyên Giáp ra sao?

Đã gặp ông Giáp ở đâu, lúc nào, bàn những chuyện gì"

Có một giả thuyết trong suy nghĩ của một số tướng lĩnh tôi quen. Những người này đã viết sách chưa được in, kiên quyết bác bỏ những lời nói có tính chất bôi đen và vu cáo của ông Duẩn đối với ông Giáp. Họ chứng minh rầng ông Giáp luôn có tinh thần kiên quyết trong tiến công, và ông Giáp thực sự là người trực tiếp chỉ huy toàn bộ cuộc Tổng tiến công đầu xuân 1975 cho đến Toàn thắng. Họ đưa ra tất cả Nhật ký chỉ huy ở phòng Tác chiến Bộ tổng tham mưu, ghi rõ những mệnh lệnh của đại tướng vào giờ phút nào, có ghi âm cẩn thận...Họ chỉ rõ những phương châm: thần tốc, thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữạ..tranh thủ thời gian từng giờ, từng phút, thời gian là lực lượng...đều do tướng Giáp đề xuất ra, còn có bút tích của ông hồi ấy. Ông luôn có mặt trong chỉ huy sở đặt trong thành Hà Nội để theo dõi, uốn nắn, ra lệnh kịp thời. Một viên tướng ở Cục tác chiến nói với tôi: "Đó là sự thật, có chém đầu tao, tao cũng nói như vậy. Tổng bí thư mà nói sai nói bậy tao cũng cãi lại chớ! Sự thật là sự thật..."Số cán bộ ngay thẳng, có công tâm nay đặt giả thuyết rầng ông Duẩn ghét ông Giáp là vì từ hồi năm 1945, 1946 ông Duẩn phải ở vị trí qúa thấp kém: trưởng phòng dân quân Nam Bộ, dứơi trướng của trung tướng Nguyễn Bình, và còn dưới quyền của nhìều người khác. (Ông Trần Văn Giầu, ông Phạm Văn Bạch cũng từng bị "trù dễ sợ" do cái "tội" là trong dịp cách mạng tháng Tám đã bỏ quên những đồng chí của mình trong đó có ông Lê Duẩn đang bị thực dân Pháp cầm tù ở Côn Đảo, để một tuần sau mới nhớ ra và cho tầu đi dón về).

Sau khi phát hiện ra sai lầm của cải cách ruộng đất, việc thay thế Tổng bí thư Trường Chinh được đật ra. Có một số cán bộ thân cận với chủ tịch Hồ Chí Minh kể rằng lúc ấy chủ tịch nghĩ đến hai người: ông Giáp và ông Duẩn, và thậm chí còn ngiêng về ông Giáp là người cộng tác gần gủi lâu năm với mình. Nhiều người còn nhớ rằng, hồi năm 1955 khi mở ra chiến dịch sửa sai", cần giải thích cặn kẽ cho những cán bộ và gia đình bị oan ức (có đến gần 10. 000 bị xử bắn mà hầu hết bị quy oan và kết tội oan). Trong không khí bất bình và phẩn nộ, để ổn định lòng dân, thì ai là người có thể thay mặt cho ban lãnh đạo của đảng làm được cái việc khó khăn ấy? Cuối cùng Hồ chủ tịch chọn ông Giáp, ông ra trước sân vận động Hàng Đẩy để "chịu trận", tiếp nhận tất cả sự bực bội của những đại biểu các địa phương trải qua tàn phá của cải cách ruộng đất, nhận lỗi lầm và xin lỗi nhân dân. Người chỉ huy chiến thắng ở Điện Biên Phủ quả nhiên đả xoa dịu được phẫn nộ rộng lớn bởi sự thành thật đau xót và bằng cả hào quang của chiến thắng lịch sử.

Thế nhưng ông Duẩn đã được đề cử làm Tổng bí thư, vì một tiêu chuẩn tất nhiên hồi ấy, ở tù lâu năm, một bằng cấp cần thiết để được giao quyền cao chức trọng, vì từ đó được coi là được thử thách nhiều hơn, đáng tin cậy hơn...ý kiến của ông Lê Đức Thọ trong vấn đề này có ý nghĩa quyết định vì từ đó ông đảm nhận công tác tổ chức. Hồi 1977, tôi theo đoàn đại biểu quân sự cấp cao sang Berlin và Budapest. Một hôm tôi nói chuyện với ông Giáp.

Ông rất thích trò chuyện với nhà báo, anh em quay phim và chụp

ảnh. Ông cho rằng, một sai lầm lớn của ta về công tác tổ chức làkhông phân biệt việc khen thưởng với việc giao chức vụ. Ông kể hồi phong kiến, công tác tổ chức còn khá hơn ta, được ghi thành luật và điều lệ hẳn hoi. Thời đó phân biệt rất rõ: chức, tước, phẩm, hàm, bổng, lộc. Chức là quan trọng nhất- Giao chức là cần thận trọng nhất- Còn tước, phẩm, hàm, bổng, lộc là thứ yếu. Là để thưởng công, khuyến khích, ghi nhận và tăng công quỹ- Ta thì không phân biệt gì cả, có khi dùng chức để thưởng công, sinh ra rối loạn, bất lực và tai họa. Ông vốn là nhà sử học, lại là luật gia, nên ông kể vanh vách về luật Hồng Đức, về đời Lê, đời Trần, cả việc phong chức tước: công, hầu, bá, tử, nam ở bên Pháp, Anh, Đức thời trước.

Một số khá đông cán bộ và đảng viên nghĩ rằng: hồi đại hội V (cuối 1982), ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị là do "sáng kiến" của các ông Lê Duẩn và Lê Đức Thọ, và để cho khỏi quá lộ liễu, ông Giáp bị đưa ra cùng với các vị khác: Nguyễn Văn Linh, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn...theo cách dung dăng dung dẻ, chúng ta cùng nhảỵ..ra! Một số người vì động cơ riêng, trước kia e ngại ánh hào quang của người chỉ huy chiến dịch Diện Biên Phủ thì ngày nay lại e ngại ánh hào quang quá sáng của người chỉ huy chiến dịch HỒ CH MINH.

Tôi đã trao đổi ý kiến với một số cán bộ ở Bộ Tổng tham mưu, về cái cớ ông Duẩn rêu rao rằng ông Võ Nguyên Giáp nhát gan, sợ Mỹ. Hồi đầu năm 1975, ông Giáp có phần lưỡng lự khi cân nhắc có nên đưa cả 15 sư đoàn bộ binh vào miền Nam không, lúc đầu ý ông dự định để quân đoàn 1 ở lại giữ "gôn", có nghiã là giữ nhà, giữ căn cứ địa lớn của cả nước. Về sau, trên thực tế thì chỉ có 1 sự đoàn 308 ở lại mà thôi. Thêm nữa hồi tháng 3. 1975 ông chỉ thị cho các đơn vị phòng không và không quân chuẩn bị chu đáo đề phòng Mỹ dùng không quân dánh phá lại miền Bắc (do có một tin tức nào đó từ bên Mỹ truyền về Cục quân báo rằng có khả năng Mỹ sẽ phản ứng và ném bom trở laị)- Ông nêu lên khả năng ấy để cảnh giác là cần thiết.

Tôi nghĩ dùng những sự việc trên đây để chụp mũ ông Giáp là vừa đánh vừa run, là nhút nhát như thỏ đế là một thái độ chơi xấu, rất không đàng hoàng, lại từ người lãnh đạo cao nhất hồi đó thì lại càng đáng trách.

Dù bị nhiều lần chơi xấu, ông Giáp vẫn tỏ ra không cay cú, không buồn nản. Tuy nhiên ông cũng trở nên "cẩn thận" hơn, chặt chẽ với mình hơn, người khác khó mượn cớ để vu cáo. Trong những chuyện đi nước ngoài cùng ông, khi tôi làm tin vê hoạt động, bao giờ ông cũng không quên dặn ghi thêm những câu đại thể là: đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chuyến lời chào mừng hữu nghị của đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn, của chủ tịch Hội đồng nhà nước Trường Chinh, của Chủ tịch Hội động Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và các đồng chí lãnh đạo đảng và nhà nước khác đến...vân vân và vân vân...Đây là một kiểu cẩn thận để giữ mình, tránh hở sườn để có thể bị "nốc ao".

Có những chuyện khá lạ lùng. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội gần đây nhất, ông Giáp bị ban tổ chức trung ương do ông Nguyễn Đức Tâm trực tiếp làm trưởng ban "bỏ quên" và ông là phó thủ tướng mà lại không đồng thời là đại biểu quốc hội, khác với tất cả phó thủ tướng khác từ xưa đến nay.

Trước Đại hội VII có tin đồn rằng, ông sẽ trở lại Bộ Chính trị, sẽ đảm nhận chức Chủ tịch Hội đồng nhà nước, do nguyện vọng của đông đảo cán bộ và nhân dân. Theo tôi tin ấy vừa tốt như rượu ngọt nhưng lại pha chút cay đắng vì tuổi ông đã cao (80), sức đã xuống. Ông là người trí thức có hiểu biết rộng, lại liêm khiết (điều này ngày càng hiếm và do hiếm nên càng quý) có uy tín ở trong và ngoài nước.

Thế nhưng đại hội VII vẫn chưa có dân chủ thật, chỉ có dân chủ hình thức, khó có một bước đi rõ rệt hợp lòng dân như thế.

Tôi nhớ lại hồi năm 1989, nhân 35 năm kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi yêu cầu ông viết cho tuần báo Nhân Dân chủ nhật một bài thật đầy đủ và trung thực về chiến dịch Điện Biên Phủ- ông đã nhận lời và viết bài "Quyết định khó khăn nhất" được dư luận cả nước chú ý, ông đã nhắc đến những nhân vật từ trước đến nay không được nói vì dính vào những vụ án chính trị xét lại, chống đảng như: tướng Đặng Kim Giang, tướng Lê Liêm, các sĩ quan cấp cao Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, và nói đến trưởng đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc ở Điện Biên Phủ là tướng Vi Quốc Thanh với tất cả sự thật khách quan.

Tính ông rất cẩn thận- Ông sửa đi sửa lại bài viết, ông gửi cho tôi đến năm bức thư và trực tiếp gọi điện thoại cho tôi hơn một chục lần về bài báo này. Khi thì thêm, khi thì bớt, khi thì sửa vài chữ, khi thì dùng những ảnh nào cho thích hợp- Tất nhiên phải có ảnh Bác Hồ và có đoạn nói đến Bác Hồ với lời dặn là:

"Tướng quân xuất trận được toàn quyền quyết định, nhưng đã đánh là phải chắc thắng. "

Tôi còn giữ bức ảnh ông Giáp chụp ở Đại hội VI, ngay buổi bế mạc. Khi ý kiến khá đông người muốn đưa ông vào vị trí cao nhất đã không thành, ông vẫn giữ một thái độ vui vẻ, hòa nhã.

Tôi đã có lần gạn hỏi ông một điều mà khá nhiều người trách ông: Sao ông không can thiệp để đòi công bằng cho những người làm việc dưới quyền ông bị oan ức kéo dài, bị giam tù, bị mất tự do, thiệt thòi hàng chục năm? Ông trả lời đại ý: có chứ, nhưng không thể làm gì nổi trong cái cơ chế kỳ lạ này, khi ngành tổ chức, ngành an ninh là chúa tể, lộng hành. Nếu không cẩn thận thì tất cả còn bị trù nặng nề và kéo dài hơn nữa, và bản thân ông cũng bị tai họa như chơi!

Về ông Nguyễn Văn Linh, tôi tiếp xúc với ông khá nhiều lần và có vài nhận định: tận tụy với sự nghiệp, được rèn luyện trong nhà tù đế quốc, sống dản dị, bản tính hiền lành, chân thật- Chỗ yếu rõ của ông là trình độ hiểu biết chưa tương xứng, thiếu quả đoán, đơn giản, cả tin, luôn bị các trợ lý kém thao túng- Khi mới trở lại Bộ Chính Trị, rồi đến Đại hội VI nhận chức Tổng bí thư, ông hăng hái, phấn chấn trong đổi mới. Năm 1977, khi gặp các văn nghệ sĩ và trí thức, chính ông đi xuống bắt tay ông Nguyễn Khắc Viện và khuyến khích nhà văn Dương Thu Hương bầy tỏ hết ý kiến của mình. Chính ông khuyên văn nghệ sĩ không đựơc uốn cong ngời bút, phải có khí phách sống, tự cứu lấy mình. Trong thử thách mới thấy hết bản lĩnh của người lãnh đạo- ông Nguyễn Văn Linh đã không vượt được thử thách. Cách phân tích tình hình ở Đông Âu và Liên Xô của ông vừa thiếu sâu sắc khách quan, vừa biểu hiện sự lo sợ, giật mình- Làm sao đổ vấy cho đế quốc là tội phạm chủ yếu của sự sụp đổ của các nước ấy, mà coi nhẹ sự phấn nộ và phủ định của chính nhân dân! Thật đáng trách khi chính ông lại tin và lớn tiếng nói rằng Viêt Nam đang trở thành đối tượng chủ yếu để dế quốc và CIA, cùng các thể lực phản động khác lật đổ và gây bạo loạn. Tôi đã gặp nhiều nhà báo tiến bộ Mỹ và Pháp. Không một ai đồng tình với nhận định này- Họ cho rằng chính phủ Mỹ, chính phủ Pháp và ngay cả CIA đều mong muốn Việt Nam ổn định và phát triển- Gây hỗn lọan để làm gì, có lợi gì cho Mỹ! Chính phủ Mỹ không yểm trợ cho Khơ me đỏ và không yểm trợ cho cánh chủ trương bạo động là thế. Một điều rất dở nữa của ông Linh là đã khẳng định một cách máy móc, như đinh đóng cột rằng: đảng cộng sản Việt Nam một mình lãnh đạo đất nước là một tất yếu lịch sử, xưa kia là như thế, hiện nay là như thế và mãi mãi sẽ là như thế. Một kiểu nói cứng nhắc khó nghe và không còn đất để lui được nữa! Đăng đàn lớn tiếng nói lên điều đó, để ngay đó toàn thế giới đều biết đến, cả kẻ thù và đông đảo bạn bè đều lắc đầu thì thật là dở vô cùng vậy! Tất cả điều ấy là do ông Linh thiếu một tư duy tỉnh táo và độc lập, rất hay phân vân và thường nghe theo các trợ lý. Ông lại ít đọc sách báo nước ngoài, nhận ít thông tin, ít hiểu biết trực giác (vì ít đi ra nước ngoài và khi đi lại đi theo kiểu hiếu hỷ, cữơi ngựa xem hoa). Nhiều người ở trong nước và nước ngoài đặt kỳ vọng ở ông hồi 1986, 1987 bao nhiêu thì từ năm 1989 đến nay càng thất vọng bấy nhiêu. Một số lần tôi gặp ông khi ông ở cương vị Chủ tịch tổng Công đòan, ông đã tỏ ra hay phân vân, lưỡng lự, thiếu hẳn sự quyết đoán và từ đó thiếu bản lĩnh của một người lãnh đạo, chưa nói đến người lãnh đạo cao nhất của một đảng.

Về ông Lê Đức Thọ, tôi được gặp ông khá nhiều lần trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, cũng như ở Campuchia từ đầu năm 1979 đến năm 1983- Tôi vẫn cho rằng việc ông từ chối giải thưởng Nobel Hòa Bình là một thái độ thiếu khôn khéo, quá cứng rắn và dại dột, không tranh thủ được dư luận thế giới, nhất là dư luận tiến bộ. Đó là do cả một căn bệnh tự phụ, trích thượng với kẻ thù cũ- Thái độ ấy không làm cho ông và Việt Nam được quý trọng hơn, trái lại.

Ông là con người có vẻ mô phạm, nhưng lại cực đoan và lắm mưu. Khi sang Pháp tham gia hòa đàm bí mật, ông không có đức tính tò mò của một người ham hiểu biết. Ông hầu như không xem truyền hình, ít tham quan đây đó. Những anh chị em Việt kiều ở Paris từng cộng tác hoặc có quan hệ với đoàn do ông cầm đầu đều có chung cảm tưởng ấy. Rất nhiều người cho rằng ông sống dản dị, nhưng trong ý thức thì quan cách và gia trưởng- Tôi từng nghe ông nhiều lần nói chuyện, khi thì phổ biến nghị quyết trung ương, khi thì lên lớp về công tác tổ chức. Ông nói rất mạnh mẽ say sưa, và một nét luôn luôn rõ, ấy là rất hay mắng mỏ và răn dạy người khác. "Một ông thầy dạy đạo đức" như một số anh em học ở Trường Nguyễn ái Quốc nói với tôi. Ông là người phụ trách chủ yếu về toàn bộ công tác tổ chức của đảng và của cả chính quyền nhưng bao giờ nói chuyện hay lên lớp ông cũng chê bai, phê phán công tác này một cách quyết liệt. Chưa một lần nào ông nhận lấy một khuyết điểm nhỏ về mặt này của chính mình hay của Ban tổ chức trung ương mà ông phụ trách! Ai nấy đều biết công tác tổ chức của đảng và nhà nước là công tác yếu kém nhất, và sai lầm, gây tác hại vô cùng lớn lao. Những định kiến với trí thức, việc đề ra tiêu chuẩn hồng và chuyên, thiếu chuẩn bị lớp kế tiếp, khinh thị cán bộ trẻ...tồn tại keó dài. Ông là ngươì chịu trách nhiệm chính trong gần 30 năm, nhưng ông lại tỏ ra mình là người vô can! Đây là sự thiếu sót, lỗi lầm, kém cỏi, vô trách nhiệm của kẻ khác, "của các anh!"

Tôi từng nghe ông nói chuyện với cán bộ Campuchia, một lần ở Hoàng Cung Pnom Penh hồi giữa năm 1981 và một lần ở Thủ Đức đầu nâm 1982- Tôi không thể tin chuyện đó là có thật nếu không tự đích thân dự. Ông là người phụ trách chính trong Bộ Chính trị chỉ đạo việc giải phóng Campuchia và giúp nước này xây dựng Đảng và chính quyền. Ông cho triệu tập những cán bộ chủ chốt, từ chủ tịch nước, tổng bí thư, thủ tướng, bộ trưởng, thứ trướng, những đảng viên vừa được vào đảng, tất cả đều là những người Campuchiạ..Tôi nghe mà rợn cả người! Khi cao hứng ông quở mắng những đảng viên và cán bộ đảng nước này như là con cháu trong nhà vậy! Tôi ngồi nghe mà chỉ mong ông cán bộ phiên dịch dịch sai đi, nhẹ đi một chút, kẻo nghe chối tai vô cùng: "Các đồng chí phải học cho chăm, phải làm việc cho đứng đắn, phải trau dồi đạo đức của người cán bộ công sản để xứng đáng với sự tin cậy của chúng tôi, của cách mạng. Cần hiểu rằng cán bộ luôn được sàng lộc, ai lộ ra yếu kém thì phải thay! Rượu thì uống vừa vừa thôi! Nhiều đồng chí để vợ dắt mũi, đi buôn kiếm lợi là không được!...". Tôi cứ nghĩ sao không để cho người Campuchia làm lấy việc dạy bảo ấy! Việc bồi dưỡng là rất cần vì đó đều là những cán bộ đảng viên mới, nhưng đó là quan hệ dân tộc với dân tộc, quốc gia với quốc gia.

Tác phong gia trưởng kẻ cả ấy ảnh hưởng rất nặng đến tắc phong của các chuyên gia Việt nam ở Campuchia- Thật là tai hại. Tôi ghé đến báo Campuchia hồi năm 1985, đang có môt chuyện gia báo Nhân Dân Hà Nội vào giúp đỡ- Ông đưa cho tôi một bài xã luận do Tổng biên tập báo Campuchia viết, được dịch ra tiếng Việt để chuyên gia ta góp ý, và khoe: "Anh thấy đấy, họ viết kém quá, tôi phải chữa đến nát ra như thế này đây". Tôi cầm lấy bài khó chịu vô cùng và nói: "Tốt nhất anh đừng nên chữa một chữ nào- Mà nên góp ý cho người viết tự sửa khi thật sự cần thiết- Làm cách như của anh phải buộc họ nghe, vì nể, vì sợ chuyên gia, nhưng trong bụng sé chửi mình đấy!" Một lát có một cậu đến xin gặp, một cô đến rỉ tai chuyên gia, họ mời đi họp, họ hỏi ý kiến về kết nạp đoàn cho anh này, về kỷ luật hai cô cậu viết thư tỏ tình với nhaụ..Tôi nghĩ căn bệnh gia trưởng từ "cụ chuyên gia cao nhất" đã lây lan khá rộng và gây nên tai hại vô cùng!

Vào những năm trước khi mất, ông đã mạnh dạn phát biểu ý kiến về một loạt vấn đề lịch sử của đất nước- Ông khẳng định: trong ý đồ tổng tấn công và tổng khởi nghĩa năm 1975 đã không có tổng khởi nghĩa, đã không có nổi dậy của quần chúng, trong các cuộc tổng tấn công Tết Mậu thân 1968, đã chỉ đạo thiếu linh hoạt, cố dám ăn xôi, đáng nhẽ đợt một vào dịp Tết tạo nên chấn động vào hậu phương của nước Mỹ là đủ, các dợt sau, nhất là các dợt tháng năm và tháng chín năm 1968 chỉ gây thêm tổn thất cho ta. Ông cho rằng: Việc đế quân ở Campuchia quá lâu đã bị sa lầy. Nền công nghiệp nước ta đã bị chỉ đạo sai lầm đến nỗi như một con bò sữa chỉ còn xương bọc da gầy ốm. Quân đội Việt Nam trở thành quân đội "Ba nhất", nghĩa là: anh hùng nhất khổ sở nhất, vô kỷ luật nhất...Đây là những cuộc nói chuyện hẹp ở Viện lịch sử quân đội, Nhà xuất bản Sự thật, ở cơ quan tỉnh ủy Lâm Đồng (Đà Lạt)- Có một số cán bộ nghe, ghi chép, phổ biến lại thì bị cơ quan bảo vệ quân đội gọi lên chất vấn, có người bị giữ lại gần 7 tháng để điều tra vì đã phổ biến những "luận điệu của địch" (!)". Như đại tá Ngọc Bằng phụ trách Ban lịch sử của quân khu Bảy, Anh đã chứng minh là mình không bịa đặt, chỉ phổ biến trong một cuộc họp của cơ quan công an thành phố Hồ Chí Minh những điều ông Lê Đức Thọ từng nói. Anh "được" về nhà mà không hề có một lời xin lỗi, sau khi bị đưa ra khỏi đảng và cầm quyết định về hưu!

Về ông Đỗ Mười, người vừa được bầu làm Tổng bí thư đảng cộng sản Vịêt Nam thay thế ông Nguyễn Văn Linh, tôi đã quen biết từ khi ông làm chính ủy quân khu tả ngạn ở đồng bằng Bắc bộ trước thời kỳ Điện Biên Phủ. Ông xuất thân từ thợ thủ công, làm nghề sơn cửa, hoạt động cách mạng từ 18 tuổi, chưa học hết cấp trung học. Ông sống có nghị lực, sinh hoạt dản dị, không tham nhũng. Ông nổi tiếng là cán bộ đốc chiến, có nghĩa là giỏi đôn đốc công việc, chuyên về thực hành. Ông từng trực tiếp chỉ đạo cải tạo tư sản công thương nghiệp ở Hà Nội và Hải Phòng vào những năm 1959, 1960 và sau năm 1975 ông cũng trực tiếp chỉ đạo cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam, đặc biệt là ỏ Sài Gòn và Chợ Lớn, một công việc mang nặng tính chất duy ý chí, hiệu quả xã hội rất xấu và để lại một ấn tưởng tệ hại do không có hiệu quả và tệ tham nhũng tràn lan. Ông cũng là người trực tiếp đôn đốc xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng hai công trình cực lớn của "thế kỷ": Cầu Thăng Long và Nhà máy thủy điện Hòa Bình. Cả hai công trình này đều là tiêu biểu cho tệ duy ý chí, phớt lờ ý kiến của giới khoa học kỹ thuật, đã trót lao vào làm không sao sửa được nữa, tốn kém tiền của, thời gian không sao tính hết- Tổng bí thư lẽ ra cần phải là một nhà lý luận sâu sắc, có nhiều kiến thức vững vàng, am hiểu xã hội và thế giới ngày nay, có tư duy chính trị và óc tưởng tượng phong phú, thì trên thực tế chỉ là một cán bộ rất hăng hái hoạt động! Nhiều trí thức ở Hà Nội thường nói: kém hiểu biết + nhiệt tình = hỏng việc, phá hoại và phản động. Rõ ràng ông Đỗ Mừơi không hề thiếu nhiệt tình trong các chiến dịch cải tạo công thương nghiệp và trong việc đôn đốc xây dựng các công trình cực lớn.

Phải nói rằng việc khoe rằng ông Đỗ Mười ít hơn ông Nguyễn Văn Linh hai tuổi là nói lấy được! Khi ông Nguyễn Văn Linh nhận trọng trách Tổng bí thư gần năm năm trước, ông hơn 71 tuổi, còn ông Đỗ Mười nhận chức khi đã hơn 74 tuổi! Qua đại hội 7, ông để lại hình ảnh của một vận động viên chạy tiếp sức, đến giới hạn vấn không chịu chuyển "rơ- le" cho người kế tiếp, nhất định tự mìmh chạy cho tới đích mặc dầu đã xuống sức quá rồi.

Ông Lê Đức Anh (bí danh là Sáu Nam) vừa được đưa vọt lên trong đại hội 7. Ông quê ở Thừa Thiên- Huế, xuất thân từ trường kỹ nghệ thực hành thời Pháp. Người cao lớn, ông bị bệnh đậu mùa từ nhỏ, hỏng một mắt, mặt hơi rỗ hoa. Thời kháng chiến chống Pháp ông làm cán bộ tiểu đoàn, chỉ huy bộ đội địa phương. Từ năm 1962, ông là cục phó cục tác chiến bộ Tổng tham mưu. Sau đó đựơc cử vào Nam, ở khu 9. Ông là từ lệnh Quân khu 9 từ năm 1967. Cuối năm 1974, ông được đề bạt vượt cấp từ đại tá lên trung tướng do thành tích của khu 9, đã mở rộng vùng giải phóng đáng kể sau Hiệp định Pa- ri. Ông là người dẫn đầu cuộc diển binh lớn ở trứơc Dinh Độc lập đầu tháng 5. 1975. Đầu năm 1979, ông cùng đại tướng Lê Trọng Tấn tổng tham mưu trưởng quân đội nhân dân Việt Nam chỉ huy cuộc hành quân vào Campuchia. Sau đó ông được cử ở lại chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam cho đến năm 1985. - Hồi đó mỗi lần tôi sang Pnôm Pênh, ông cho mời sang ăn cơm để hỏi chuyện về tình hình đất nước, tình hình quốc tế và hai lần yêu cầu tôi nói chuyện thời sự cho các sĩ quan của Bộ chỉ huy. - Tính ông điềm đạm, ý thức tổ chức kỹ luật cao, hiểu biết về chính trị, kinh tế, nhất là quốc tế còn hạn chễ. Ông luôn ở chiến trường, sống dản dị. Ông được đưa vào Bộ Chính và nhận chức Bộ trưởng Bộ quốc phòng hơi bất ngờ, sau khi ông Lê Trọng Tân bị đột tử trước khi khai mạc Đại hội VI đúng 10 ngày, hồi tháng 12. 1986.

Ông Đào Duy Tùng quê ở Hải Hưng, vốn là Tổng biên tập tạp chí Học Tập (nay là tạp chí Cộng sản). Hồi ấy ông thường yêu cầu tôi viết bài cho tạp chí- Tôi đã viết tới hơn chục bài, có bài ông rất hài lòng và dánh giá khá cao như bài tôi viết giới thiệu cuốn sách của Davis Hamberstam: "Những người tài giỏi và xuất sắc nhất nước Mỹ". Ông sống dản dị, nhưng quan điểm chính trị thì cứng nhắc, mang tính giáo điều. Qua các cuộc họp trung ương 7, 8, và 9 khoa 6 (cuối năm 1989 và đầu năm 1990), ông Đào Duy Tùng, ông Nguyễn Đức Bình (giám đốc trường đảng cao cấp Nguyễn i Quốc), ông Nguyễn Hà Phan (bí thư tỉnh ủy Hậu Giang), ông Nông Đức Mạnh (bí thư tỉnh ủy Bắc Thái) là những người có quan điểm cứng nhắc, mang tính giáo điều cục đoan nhất và cũng là những người phê phán nặng nề nhất quan điểm đa nguyên của ông Trần Xuân Bách, dẫn đến việc khai trừ ông Bách ra khỏi Bộ Chính trị, Ban bí thư và Ban Chấp hành trung ương đảng.

Ông Hồng Hà, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân từ năm 1982 đến năm 1986, sau đó là Chánh Văn phòng Trung ương đảng, vừa được bầu vào ban bí thư, tôi quen và hiểu rất rõ (xin chớ lầm với Hồng Hà ở Bộ Nội vụ và sau ở Bộ Thượng binh xã hội). Nét nổi bật ở ông là bản chất của một viên chủ cần mẫn, chăm chỉ, kín đáo và tận tâm, đúng như anh ruột ông là ông Thép Mới đánh giá về ông: Thằng em tao đúng là đứng đầu ở hàng thư lạị..

Nhiều bạn ở Paris hỏi tôi về trường hợp ông Trần Xuân Bách.

Quan điểm chính trị của ông Bách là thế nào? Từ đâu mà một người như ông vốn có tiếng là "bảo thủ" lại đổi mới được đến như vậy? Hiện ông làm gì?

Ông Bách quê ở Hà Nam Ninh, cùng tỉnh với ông Lê Đức Thọ, Nguyễn Cơ Thạch...hoạt động sớm từ phong trào thanh niên học sinh ở Nam Định- Sau khi làm phó bí thư tỉnh ủy, ông lên cơ quan trung ương làm Trưởng ban tôn giáo của chính phủ (vì khi ở tỉnh, ông am hiểu khá tường tận vùng Bùi Chu, Phát Diệm, trung tâm công giáo lớn nhất ở Việt Nam). Về sau, ông làm chánh văn phòng Trung ương đảng- Năm 1980, ông được cử sang Campuchia làm Trưởng đoàn chuyên gia Việt Nam, bí thư đảng ủy của đoàn. Đây là chức vụ rất quan trọng khi vấn đề xây dựng khối liên minh đặc biệt ba nước Đông Dương được đặt ra. Chính nhiệm vụ này làm cho ông được ông Lê Đức Thọ, người phụ trách công tác tổ chức (trong đó việc sắp xếp cán bộ là việc lớn nhất), và cũng là người đảm nhận chính việc giúp đỡ Campuchia tín nhiệm thêm. Ông được đưa vào Ban bí thư ở đại hội đảng lần thứ 5 và vào Ban Bí thư và Bộ Chính trị ở đại hội đảng lần thứ 6 (12. 1986). Ông là ủy viên bộ Chính trị trẻ nhất, ở tuổi 60 hồi ấy. Ngay sau đại hội 6 ông được phân công những phần việc sau đây: quan hệ với hai nước Lào và Campuchia, quan hệ giữa đảng cộng sản Việt Nam với các đảng cộng sản và công nhân chưa giành được chính quyền, chỉ đạo Ban Đối ngoại trung ương và Ban Việt kiều trung ương.

Có một điều ít ai được biết là từ giữa năm 1987 ông được Bộ Chính trị giao thêm một việc nữa: làm công tác thông tin cho Bộ Chính trị, nghĩa là thu thập tình hình trong và ngoài nước, đọc các sách báo tin tức từ nước ngoài để tổng hợp và báo cáo, thông báo cho các ủy viên Bộ Chính trị khác. Ông tập hợp một nhóm nghiên cứu trong văn phòng làm việc của ông gồm có 6 cán bộ chuyên thu thập sách báo các nước (Liên Xô, Trung Quốc, Pháp, Mỹ, Thái Lan, Hồng Kông...), đọc, lược dịch các sách báo tiếng Anh, Pháp, Nga, Hoạ..và làm các bản tóm tắt. Ông cũng trực tiếp xử dụng các cơ quan thông tin của ủy ban Khoa học xã hội và của thông tấn xã Việt Nam...Văn phòng của ông trở thành nơi có nhiều sách quý và sớm nhất. Chính tôi đã mượn được cuốn The Brothers Enmemis của Nayan Chanda ở văn phòng ông. Đây là cuốn sách trình bầy chân thực, sống động nhất những cuộc đảo lộn liên minh diễn ra trong thế giới cộng sản và xã hội chủ nghĩa, với không ít tư liệu hiếm và quý. Nhóm giúp ông làm việc thu lượm thông tin được ông gọi là "nhóm tư vấn", từ cuối năm 1987, qua thông tin và xử lý thông tin nhóm còn giúp ông đề xuất những ý kiến nhằm hình thành chính sách.

Do những nguồn thông tin phong phú, mới mẻ và kịp thời như thế, quan điểm của ông Trần Xuân Bách thay đổi, "xanh lại, trẻ lại", theo tôi nghĩ. Tôi được biết rất rõ, từ đầu năm 1989, khi chưa xẩy ra sự kiện Thiên An Môn (tháng 5. 1989) ông đã phát biểu trong một cuộc nói chuyện với cán bộ tuyên huấn và cán bộ đối ngoại:

• Việc khôi phục quan hệ Trung- Xô là một bước ngoặt có ý nghĩa to lớn, với chu kỳ hòa hoãn, đối thoại mới Xô- Mỹ, tính đa cực của thế giới đảng biểu hiện ngày càng rõ, đồng thời tính đa nguyên trong phong trào cộng sản quốc tế là một điều tất yếu.

• Cần chuyển quan hệ Việt Nam- Trung Quốc từ tính chất thù địch sang tính chất bạn bè, coi Trung Quốc là bạn nhưng luôn luôn cảnh giác với bản chất bành trướng, bá chủ biện Đông của họ.

• Nói về sự khủng hoảng trong các nước xã hội chủ nghĩa lúc ấy ông cho rằng: khủng hoảng kinh tế tài chính là do thiếu hàng hóa, năng xuất quá thấp, khủng hoảng xã hội là do thiếu lòng tin đến mất lòng tin ở chủ nghĩa xã hội, ở đảng lãnh đạo.

• Ông cho rằng trong xã hội có ba loại nhân vật: nhân vật chính trị, nhân vật khoa học và nhân vật kinh doanh. Việt Nam hiện thiếu nhất nhân vật kinh doanh, cần quan tâm bồi dưỡng. Cần khắc phục thái độ xã hội hiện nay là coi thường nhân vật chính trị, kỳ thị nhân vật khoa học và định kiến với nghề quản lý kinh doanh.

• Ông chủ trương đề xuất một hệ thống giải pháp tình thế vì khủng hoảng kinh tế, xã hội đã đụng tới đáy và đang manh nha khủng hoảng chính trị. Đầu năm 1989, sức mua của đồng tiền đã giãm 3. 300 lần so với năm 1976, tiền phát hành thêm để lưu thông đã đưa khối lượng tiền trong xã hội năm 1988 gấp 175, 5 lần so với năm 1980.

Ông kết luận: hai động lực, hai sức bật trong lịch sử nhân loại là hàng hóa thị trường và dân chủ đa nguyên- ở Việt Nam cả hai mặt ấy đều chưa thành động lực. Tuy nhiên trong phát triển kinh tế hàng hóa và thị trường không thể chấp nhận thị trường đen và trong dân chủ đa nguyên không thể chấp nhận đa nguyên biến dạng thành đối lập chính trị và lật đổ...

Cuối năm 1989, khi họp hội nghị Trung ương lần thứ 7, ông Trần Xuân Bách đọc tham luận và nhấn mạnh: phải đi trên hai chân, chân kinh tế đi mạnh vào kinh tế hàng hóa, phát triển thị trường và chân chính trị là đi mạnh vào áp dụng dân chủ rộng rãi, chấp nhận đa nguyên. ý kiến của ông bị bác bỏ, bị coi là quá khích, nguy hiểm. Ông đã tuyên bố bảo lưu ý kiến. Đầu năm 1990, ông viết báo, ông đi nói chuyện giải thích về quan điểm của ông. Đài tiếng nói Việt Nam và đài truyền hình trung ương phát lại bài báo của ông đăng trên báo Khoa học và Đời sống và báo Tiền Phong. Ngay sau đó Ban Tư tưởng và văn hóa phê bình những phương tiện thông tin đại chúng này đã tuyên truyền những quan điểm cá nhân, trái với quan điểm cuả đảng. Trong một cuộc giao ban hàng tuần, trưởng ban tư tưởng và văn hóa trung ương đã nhận xét trước những người làm công tác báo chí ở trung ương: Cái sai lớn nhất của Trần Xuân Bách là đã xếp cùng một duộc chủ nghĩa Pôn Pốt, chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Staline.

hội nghị trung ương lần thứ 8 ông Bách bị thi hành kỹ luật, đưa ra khỏi cả ba chức vụ: ủy viên trung ương, ủy viên ban bí thư, ủy viên bộ Chính trị. Thật ra lúc vào hội nghị, Bộ Chính trị chỉ dự kiến và đề nghị với trung ương đưa ông Bách ra khỏi Ban bí thư và Bộ Chính trị, còn giữ lại trong ban chấp hành trung ương. Thế nhưng khi thảo luận một số đại biểu nói rất găng (các bí thư tỉnh ủy miền trung, miền núi và đại biểu trong quân đội) còn phê phán rằng không xứng đáng là đảng viên, vô kỹ luật, vô tổ chức trong khi cần sự nhất trí, đoàn kết và thống nhất nhất...Do đó khi bỏ phiếu thì ông Bách bị trên một nửa (hơn 70 người) số ủy viên chính thức đề nghị đưa ra khỏi trung ương. Ông Bách chấp nhận kỷ luật nhưng yêu cầu trường hợp của ông sẽ được đưa ra bàn lại tại đại hội đảng lần thứ VII. Yêu cầu này không bao giờ được đáp ứng vì ông không thể là đại biểu đị dự đại hội và sẽ chẳng còn ai nhắc đến ông nữa.

Sau đó ông Nguyễn Cơ Thạch kéo ông về bộ ngoại giao, làm chuyên viên nghiên cứu vừa do tình đồng hương, vừa muốn tận dụng sự nghiên cứu của ông. Đến hội nghị trung ương lần thư 9 (tháng 8. 1990), nhiều đại biểu phê phán ông Thạch là hữu khuynh, mất cảnh giác trong việc này. Ông Bách bị về hưu bắt buộc, về ở một xã ở huyện Gia Lâm, quê vợ ông và không còn ai biết đến ông nữa.

Trường hợp ông Bách là một nét lý thú về tác động của công tác nghiên cứu và thông tin, một mặt rất yếu của cơ quan lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Khi được tiếp xúc với nhiều thực tế của thế giới qua thông tin, quan điểm của người ta có thể thay đổi theo hướng tiến bộ- Mặt khác cũng cần thấy ông Bách không bao giờ đề xướng đa đảng cả. Ông luôn rào đón, thanh minh là ông chủ trương đa nguyên (nhiều thành phần kinh tế, nhiều phong cách và trường phái trong sáng tạo văn học nghệ thuật, tôn trọng các tôn giáo với những nhân sinh quan khác nhau, chấp nhận việc thảo luận về những chính kiến, quan điểm chính trị khác nhau), nhưng đều dừng lại trước ngưỡng cửa đa đảng.

Trên đây là chân dung đại thể của một số người lãnh đạo đắt nước trong thời gian qua mà tôi cố khắc họa một cách chủ quan, tất nhiên không thể đầy đủ và đúng đắn, xin để bạn đọc tham khảo. Tôi quen biết ông Trần Văn Trà từ tháng 2. 1973 khi vào trại Davis, Tân Sơn Nhất làm việc. Ông Trà là trung tướng, Trưởng đoàn chính phủ cách mạng lâm thời. Ông hoạt bát, thông minh. Vốn học trường kỹ nghệ thực hành Huế thời Pháp. Ông biết kết hợp nguyên tắc với sự linh hoạt. Chính tôi đã khuyến khích ông viết hồi ký, nhiều lần trao đổi trò chuyện với ông về báo chí, về viết sách, về văn hóa văn nghệ và âm nhạc. Ông là viên tướng có văn hóa- Cuốn Ba Mươi Năm Kết Thúc Chiến Tranh của ông ra hồi năm 1982 được anh em bộ đội miền Nam rất ưa thích. Ngay sau đó Tổng Cục Chính trị ra chỉ thị cấm lưu hành trong quân đội. Ông Lê Đức Thọ cũng chỉ trích cuốn sách này và phê bình ông Hà Mậu Nhai, giám đốc nhà xuất bản thành Phố Hồ Chí Minh về việc ra cuốn sách. Ông Thọ nhận xét trước các vị phụ trách báo chí và xuất bản: Cuốn sách ấy sai từ đầu đến cuối! Thật ra nhược điểm chính của nó là coi nhẹ các "quả đấm" chủ lực từ miền Bắc đưa vào. Theo tôi việc thu hồi, cấm lưu hành là không dúng- có gì thiếu sót thì thảo luận, tranh luận, bổ xung. Cái kỳ cục là nhiều nhà lãnh đạo cứ muốn mỗi cuốn hồi ký phải nói thật đúng, thật đủ! Lẽ ra phải thấy mỗi cuốn hồi ký có một nét riêng, mới người viết có chỗ đứng riêng. Tất cả các hồi ký góp lại mỗi phản ảnh được toàn cục của cuộc chiến tranh. Vẫn là căn bệnh chủ quan, cầu tòan, không chấp nhận những nét riêng, đặc sắc của cá nhân...

Trong "Bản kiến nghị của một công dân" tôi đã nêu lên trách nhiệm đặc biệt của 3 ngành: tuyên huấn, tổ chức và công an đối với hiện tình của đất nước. Tôi có nhiều bạn bè ở 3 ngành này và cũng không ít người tốt, có lương tâm trong đó. Thế nhưng những sai lầm của 3 ngành này vô cùng tai hại. Ngành tuyên huấn rất lạc hậu so với sự phát triển của tình hình trong nước và thế giới. Những quan điểm bảo thủ, giáo điều còn rất nặng. Họ lạc hậu đến 30, 40 năm. Tôi vừa được biết khi cuộc đảo chánh của bọn bảo thủ, giáo điều ở Liên Xô khởi đầu ngày thứ hai 19/08/1991, ở Hà Nội, ông THI NINH phó ban tư tưởng và văn hóa của trung ương đảng vội vã hý hửng loan báo cho ngành tuyên huấn, báo chí rằng đây là "những người cộng sản trung kiên" (!), rằng "cuộc lật đổ GORBATCHEV là dấu hiệu rất đáng mừng, có thể cứu vãn chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác Lênin ở Liên Xô, và sẽ tác động rất thuận lợi đến Việt Nam!" Theo tinh thần ấy, chiều thứ ba 20/08/1991, bà HỒ THỂ LAN, người phát ngôn của bộ ngoại giao tại một cuộc họp báo cũng hý hửng rằng: "Cuộc đảo chánh là một mối quan tâm lớn, một sự kiện rất có lợi cho chúng tôi (!) và hy vọng quan hệ Việt Xô sẽ lại tốt đẹp như trước kia (!)" Một quan chức cao cấp ở Hà Nội trả lời phỏng vấn của hãng REUTERS còn chấp hành sự hướng dẫn của ban tư tưởng và văn hóa, đi xa hơn, kể "tội" của tổng thống GORBATCHEV là "đã đi vào con đường của chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh..." Bây giờ họ ăn nói làm sao, khi "các đồng chí trung kiên" ấy chỉ sau có 70 giờ đồng hồ đã bị thất bại ê chề, chúng lộ nguyên hình là những tên tội phạm, phản bội, bị tóm cổ và đưa ra xét xử theo luật pháp. Những tên phó tổng thống, bộ trưởng quốc phòng, bộ trưởng an ninh...hèn hạ, thét ra lửa một thời đã bị đền tội theo pháp luật.

Nhân dân đã vùng dậy, không còn biết sợ xe tăng, sợ quân đội, sở cảnh sát, mật vụ và an ninh. Chính quyền bảo thủ bị mất niềm tin của nhân dân muốn tồn tại thường dựa trên nỗi sợ của nhân dân, thì nhân dân cốc sợ chúng nữa! Điểm mấu chốt là ở đó.

Tôi nhớ lại đầu năm 1990, khi cộng đoàn Đoàn kết lên nắm chính quyền ở Ba Lan qua một cuộc bỏ phiếu dân chủ, ông Trần Trọng Tân, trưởng ban tư tưởng và văn Hóa đã vội vã viết bài xã luận: "Tình hình BA Lan và thái độ của chúng ta", nhận định rằng đây là một cuộc đảo chánh phản cách mạng (!), kêu gọi nhân dân Ba Lan vùng dậy đạp tan bọn phản động (!) Ông còn ra chỉ thị cho các ngành họp mít tinh ủng hộ nhân dân Ba Lan giáng trả công đoàn Đoàn kết. Bài xã luận được gửi đến báo Nhân dân yêu cầu phải đăng ngay vì cấp trên đã duyệt. Tổng biên tập báo Nhân dân là ông Hà Đăng, một công chức ngoan ngoãn gọi dạ bảo vâng, liền chấp hành không chút do dự, mặc dầu trước đó đã có quy định rằng báo phải có tinh thần độc lập tự chủ, tự chịu trách nhiệm về mỗi bài vở in trên báo.

Bài xã luận kỳ quặc ấy bị cả thế giới chê cười, bị sứ quán Ba Lan ở Hà Nội phản đối ngay chiều hôm đó, thế nhưng tổng biên tập và tác giả của nó là ông Trần Trọng Tân vẫn dửng dưng như không! Đã thành lệ, những sai lầm tả khuynh luôn được thể tất, còn được coi là có "thừa" tinh thần cách mạng! (Cần chỉ rõ ông Tân là con người đạo đức giả. Ông chuyên lên lớp cho mọi người, nhưng bản thân ông dấu rất kỹ quá khứ của mình- Ông từng cùng anh ruột là Trần Trọng Biền làm phiên dịch tiếng Nhật, phục vụ và hợp tác với bọn phát xít Nhật ở Quảng Trị quê ông. Việc này ông Trần Hữu Đức, chánh án tòa án tối cao đã về hưu, cùng quê ông, hiểu rất rõ) Lần này ông Thái Ninh phó ban tư tưởng và văn hóa trung ương vừa được bầu vào Ban chấp hành trung ương khóa VII, lại biểu hiện một tinh thần sốt sắng hoan nghênh "các đồng chí trung kiên Liên Xô", và lại bị nhỡ tàu! Ông ta thường hay chỉ đạo các cơ quan truyền thông: đài phát thanh, đài truyền hình và báo chí. Các nhà báo có ít nhiều suy nghĩ độc lập đều lắc đầu kinh hoàng về "cái lưỡi gỗ" tiêu biểu ấy! đến nay "cái lưỡi gỗ" ấy vẫn còn lải nhải không chút ngượng nghịu về: 2 phe, 4 mâu thuẫn, sự rẫy chết của chủ nghĩa tư bản...

Về ngành an ninh, những sai lầm nặng nề của ngành này đến nay vẫn chưa được chấm dứt, lại còn chồng chất thêm. Có đến hàng trăm vụ án chính trị, , gọi là: "chống đảng", "chống lãnh đạo", "chống chủ nghĩa xã hội". "xét lại", "phản động", "bị thực dân và mật vụ đế quốc mua chuộc"...vẫn không được thanh minh, đính chính và giải tỏa những nỗi oan ức. Trong "bản kiến nghị của một công dân", tôi đã dấn ra một số tên rất không đầy đủ của những người bị oan ức trong mấy chục năm qua. Họ bị tù, có người đến hàng chục năm, bị ngược đãi, bị ép cứng, bị sỉ nhục. Gia đình vợ con bạn bè của họ điêu đứng vì bị phân biệt đối xử. Có người đã chết trong oán ức và tủi nhục. Có người khiếu nại đến hơn một trăm lần mà vẫn không nhận được một câu trả lời! Qua cuốn sách này, tôi lại xin thét lên một tiếng nói đòi công lý và công bằng xã hội, cho các vị sau đây: các tướng Đặng Kim Giang, Nguyễn Vinh, Lê Liêm, các đại tá Đỗ Đức Kiên, Nguyễn Minh Nghĩa, Lê Minh Nghĩa, Nguyễn Hiếu, Phan Hoàng, các giáo sư: Bùi Công Trừng, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, các nhà báo: Hoàng Thế Dũng, Nguyến Kiên Giang, Quang Hân, Mai Luân, Mai Hiến, Định Chân, Trân Thư, Khắc Tiếp, Hồng Văn..., các văn nghệ sĩ: Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Bính, Hữu Loan, Minh Giang, Quang Dũng, Trần Châu, Trần Đĩnh, Hà Minh Tuân, Việt Phương, Anh Chính, Sỹ Ngọc, Văn Cao, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Trần Lê Văn, Chu Ngọc, Hòang Tích Linh, bộ trưởng _ng Văn Khiêm, vụ trưởng Vũ Đình Huỳnh, các đại tá Ngọc Bằng, Cao Nham, Đỗ Trường, Nguyễn Trần Thiết bị giữ, bị xét hỏi sau đại hội đảng toàn quân năm 1986, vụ các vị tướng ở Học viện quân sự cấp cao bị chất vấn, điều tra hồi đó (do cục bảo vệ quân đội tiến hành) cũng cần được kết luận công khai, minh bạch, theo đúng thủ tục pháp luật. Vụ ông Tạ Đình Đề nguyên chỉ huy các lực lượng biệt động nội thành, sau ở Tổng cục Đường sắt bị giam giữ quá lâu, ra tòa không kết án được, đến nay vẫn không được kết luận! Trên đây có một số người đã mất, họ nhắm mắt trong oan ức và uất hận. Đây cần được coi là một nỗi đau của mỗi công dân lương thiện. Thật đáng buồn là chưa có một đại biểu Quốc hội nào chất vấn nhà nước và đảng về những vụ vi phạm pháp luật, ngang nhiên xâm phạm quyền công dân như trên. Vậy mà họ cứ nói thao thao bất tuyệt về: lấy dân làm gốc! sống theo luật pháp! công bằng xã hội! Con người mới! Con người mới thật sự không bao giờ vô trách nhiệm, mặc kệ những nỗi oan trái và bất công của đồng bào mình. Vì lẽ phải có sự quan tâm chung và cũng vì lẽ: hôm nay họ chà đạp lên quyền sống của anh thì ngày mai họ sẽ có thể chà đạp lên quyền sống của tôi! Không ai cảm thấy an toàn cả!

Lại còn những vụ khác rất cần làm rõ trước công luận: việc bắt giữ xét hỏi, quản thúc ông Tạ Bá Tòng, ông Nguyễn Hộ thuộc Câu Lạc Bộ những người kháng chiến cũ, việc quản thúc linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan, việc bắt giữ bác sĩ Nguyễn Đan Quế lần thứ hai mà không hề có xét xử, những vụ án liên quan đến nhà văn, nhà báo Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Chí Thiện, Như Phong, Lê Văn Tiến, đến các đại đức Phật giáo: Tâm Căn, Tuệ Sỹ, Trí Siêu, Đức Nhuận, đang bị giam, đều cần thực hiện theo đúng thủ tục pháp lý, có tòa án, có luật sư bào chữa, có kết luận rõ ràng, và công bố công khai để nhân dân đều biết.

Việc nhà văn nữ Dương Thu Hương bị bắt giữ từ tháng 4. 1991, không hề có xét xử, chỉ được giải thích một cách chung chung là: vi phạm an ninh quốc gia, tiết lộ bí mật quốc giạ..cũng cần được làm sáng tỏ trước công luận! "Hai tài liệu bí mật định truyền ra nước ngoài" mà Tổng cục an ninh kết tội bà Dương Thu Hương phải chăng đó là thư của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện gửi chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và bản kiến nghị của viện trưởng Hoàng Minh Chính, 2 văn kiện mà toàn thế giới đã được biết từ tháng 3 năm 1991? Đã có hơn 1000 nhân vật nổi tiếng ở phương Tây ký bản kêu gọi đòi trả lại tự do cho nữ văn sĩ gan góc này. Ngoài những người bị oan trái "có tên tuổi" trên đây, còn hàng vạn trường hợp người dân thường thấp cổ bé họng bị bắt oan, bị giam giữ, bị nhục hình, bị ép cung...thì không sao kể xiết! Cả một hệ thống nhà tù chật cứng, không có điều kiện vệ sinh, người tù bị giam trong điều kiện khủng khiếp, đọa đầỵ..Đã có một đại biểu Quốc hội nào lên tiếng chất vấn nhà nước và đòi điều tra về tình trạng bi thảm đó? Trách nhiệm thuộc về ai? Giải quyết ra sao đây? Vấn đề quyền con người là chính ở đây. Hàng nghìn vụ kiện về nhà cửa, vườn và ruộng đất, trong đó một số cán bộ đảng viên có chức có quyền ở địa phương cưỡng đoạt của người dân, cũng cần được giải quyết minh bạch và công khaị..

Trong "Bản kiến nghị của một công dân", tôi đã chỉ rõ một chế độ không có trách nhiệm cá nhân rõ ràng thì không thể có trật tự và luật pháp. . Ơ Việt Nam, người ta đề cao lãnh đạo tập thể tới độ cực đoan nhất, đến mực cá nhân không còn có ý nghĩa gì cả! Và thế là khi có sai lầm, tội lỗi, tập thể là cái lá chăn để cá nhân tha hồ ẩn nấp, phủi sạch trách nhiệm! Hàng trăm vụ án oan ức, vi phạm quyền công dân do đâu? Không ai biết cả! Không ai trả lời cả! Họp đại hội đảng không một ai được nêu ra bất cứ vấn đề gì! Đã có chương trình sẵn, chỉ có chấp hành! Như một lớp học vậy! Trong quốc hội cũng là của đảng tuốt! Mà đảng có hai triệu người, số công dân ngoài đảng gần 40 triệu, gấp 20 lần số đảng viên, nhưng chỉ có 2 đến 3% trong Quốc hội! Đã có một số đảng viên chán nản mất niềm tin, xin ra đảng, có không ít thanh niên không thiết gì vào đảng khi đảng chỉ biết chọn người biết cúi đầu vâng dạ, để tìm người đi bằng đầu gối để vào đảng! Có những chuyện mỉa mai: Khi chi bộ đảng muốn kết nạp ai họ bầy trò lấy ý kiến của đồng đáo cán bộ công nhân viên về người đó. Thế là anh chị em thanh niên bảo nhau: "Thôi, cứ đồng ý cho những người đó vào đảng để hàng ngũ người ngoài đảng được trong sạch!" Đó, tính chất tiền phong mà đảng vẫn rêu rao hóa ra là thế!

Và suốt 4 kỳ đại hội đảng từ 1973, có ai giám nêu lên vấn đề chiến lợi phẩm, giá trị 5 đến 6 tỷ đô- la, bị phân tán, bị rơi vãi, bị chiếm đoạt bởi các ngành, các địa phương, vào cả túi cá nhân ra saọ..?

Vấn đề người di tản còn mắc kẹt ở các nước Đông Nam á, số người ra đi, theo chương trình HO (gần nửa triệu người) cũng không ai bàn đến, chẳng ai bàn đến gần hai triệu người Việt ở nước ngoài, với tất cả tiềm lực to lớn của họ đối với đất nước! Cứ để mặc cho những vết thương chiến tranh chảy máu dài dàị..Đó là thái độ vô trách nhiệm với nhân dân, với lịch sử, với biết bao chiến sĩ và đồng bào dã hy sinh xương máu trong chiến tranh. Và gần đây khi Việt Nam xích lại gần Trung Quốc, chẳng có ai dám lên tiếng báo động rằng rồi sẽ có sự bắt tay nguy hiểm với Khmer Đỏ, rằng họ cũng lại có thể quay lại gọi bọn Pol Pốt- những tên đồ tể diệt chủng là "đồng chí" nữa cho mà xem! Rồi Việt Nam sẽ lại bị cô lập với cả khu vực Đông Nam á!

Đó là điều tất yếu! Vì đảng cộng sản Việt Nam du nhập chủ nghĩa Mác Lênin theo một con đường tắt: qua những tác phẩm của Staline (nhất là cuốn Lịch sử đảng cộng sản Liên Xô và cuốn Những quy luật cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa công sản) và những tác phẩm của Mao Trạch Đông. Do đó cái còn lại rất sâu, rất nặng là chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao, mang mầu sắc vừa phong kiến vừa nông dân, duy tâm, gia trưởng và độc đoán, rất bảo thủ và trí trệ, hoàn toàn xa lạ với tư tưởng dân chủ, với cơ chế dân chủ của thời đại mới.

Cuộc đảo chính phản động của bọn giáo điều, cục đoan ở Liên Xô là một tiếng chuông cảnh tỉnh rất cần thiết! Những ai buồn rầu về số phận của "những đồng chí trung kiến" ấy sau khi hí hửng chuẩn bị sẵn điện mừng, để rồi bị lỡ tàu, cần xét kỹ lại mình.

Bám lấy những tín điều cổ lỗ, đi ngược lại nguyện vọng dân chủ

của nhân dân thì không thể có tương lai. ở đâu cũng vậy. Chớ có ảo tưởng rằng: người châu á khác, phương thức sản xuất châu á cònnuôi dưỡng ý thức phong kiến độc đoán và ý thức nông dân thụ động, nên khó bật dậy! Không! Người Châu á ngày nay, người Việt Nam chúng ta ngày nay rất khác rồi. Dân chủ, tự do, phát triển là hoài bão cháy bỏng của đông đáo nhân dân , không có sức nào ngăn chận, kìm hãm nổi, chỉ chờ dịp là bùng dậy và tất thắng!

Cái ổn định được rêu rao hiện nay là ổn định chính trị giả tạo, không thực chất, một thứ ổn định hình thức, che dấu sự không ổn định về tâm lý xã hội rất sâu sắc, che dấu một sự trì trệ, quay về lối cũ. Chỉ có đi vào con đường dân tộc và dân chủ đa nguyên một cách có bài bản, có đường đi nước bước hợp lý, mới đi đến ổn định và phát triển thật sự. Đó là sự ổn định trong phát triển, ổn định động, ổn định trong tiến lên, chứ không phải sự ngưng đọng và quay về lối cũ rất nguy hiểm hiện nay.

Vấn đề này sẽ được nói rõ ở phần cuối, phần thứ 9 của cuốn sách này. 
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved