Home » » SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P8

SÀI GÒN TẠP PÍN LÙ-P8

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 16 tháng 2, 2012 | 00:28

30.: Cô Ba Trà kể lại cuộc đời...

Dẫn: Tôi còn nhớ rành rành như chuyện vừa xảy ra hôm qua hôm kia đây, là bữa đầu tôi gặp cô Ba trong Đại Thế Giới là lúc tôi đang đeo theo kỹ sư Phạm Kim Bảng để xin một miếng đất của đô thành, hầu như dựng lên vuông nhà hiện nay tôi đang ở, còn cô Ba khi ấy gần như thường trực đêm nào như đêm ấy cô vẫn có mặt tại các sòng me, để canh chừng khi thuận chiều “ké vô vài chén chạy gạo”, hoặc khi nào các công tử quen xưa hết vốn, cô sẽ chuyển vận lương thảo cho các cậu gỡ gạc với điều kiện “tiền viện trợ cấp thời” nầy đẻ mỗi ngày là mười phân trăm số vốn, tỷ dụ cho mượn 2.000 đồng thì mỗi ngày tiền lời là 200, bạc vốn vẫn còn nguyên, khi trả phải chìa ra đủ 2.000 răng rắc. (Mấy lúc sau đó, khi tôi hay được cô làm nghề mà tôi cho là quá mạo hiểm và phân tâm với cô rằng cô “không sợ chúng giựt hay sao?”, cô đã trở lời mấy tiếng cụt ngủn làm cho tôi toát mồ hôi vì quá thiết thực: “Các cậu bao giờ đi giựt tiền một con đĩ như tôi làm vầy?”) Tôi thuở nay đâu có ưa cờ bạc và tôi vào Đại Thế Giới hằng bữa để làm gì?

Nhưng như đã nói, lúc đó tôi đang theo sát kỹ sư Bảng, và Bảng là con sâu cờ bạc, khiến nên tôi gặp lại cô Ba cũng nhờ Bảng. Hai tôi cô Ba và tôi, vẫn không xa lạ. Lúc tôi ở trọ nhà 108 đường Bonard, lối năm 1925-1926, thì cô có đến đây mỗi khi trong nhà có tổ chức “hốt me chạy”. Lúc đó một bữa nọ không biết ai đã chọt mất của tôi một sợi dây chuyền vàng đeo đồng hồ bỏ túi mà tôi để quên trên lầu, trong khi tôi đang kiếm, cô hay được, cô thốt ra một lời bộc trực mà khi ấy tôi cho là “chạm nhiều vào lòng tự ái” là “Đi lấy làm chi của người ta? Người ta ăn lương một tháng không bằng mình đặt một tụ con con. Thiệt, ai đó, lấy làm chi của người ta như vậy?” Ngày nay tôi đã trên tám mươi và đã có nhà có cửa đàng hoàng, thì tôi xét ra câu nói của cô tỏ lòng thương hại hơn là khinh khi, nhưng lúc nhỏ háo thắng, “mình ước ao muốn nó mà nó đành lòng nói một câu như vậy, lúc đó tôi cho là “tổn đức” và định tâm phải làm sao cho có phương cách trả thù một phen mới nghe cho!” Bảng làm kỹ sư coi về đất địa đô thành, lúc đó ông đô trưởng Nẫm họ Lê, có hứa cho tôi một miếng đất nơi vườn Tao đàn để cất “nhà xưa” với điều kiện khi tôi chết, nhà cho về đô thành vĩnh viễn và cuộc cắt đất cắm ranh tuỳ nơi Bảng, nên tôi đeo theo là vậy. Không biết hôm gặp, cô vui bực nào, mà trò truyện với tôi không ngớt. Rất may cho tôi là khiến thần khẩu thốt ra một câu “nịnh đầm” quá xá, làm cho cô xúc động tâm tình rồi keo sơn gắn bó từ đây cũng nhờ câu nầy. Cô hỏi nhỏ tôi, từ ngày xa nhau, sau lúc cô dự đám cưới của tôi và cô Tư Tuyết, con của bà Kính (ông bô tôi là thông ngôn toà thượng thẩm, một tay chơi nức tiếng thời ấy), và sau nầy căn phố lầu số 260 đường Richaud (sau là đường Phan Đình Phùng) trở nên cảnh “Nguyệt tiên cung” của cô v.v..., tôi trả lời một cách rất tự nhiên cho câu cô hỏi: “Nay cô đã hương phai phấn lạt, còn săn đón cô làm gì?”, tôi khi ấy ngó ngay mặt cô rồi cúi đầu đáp nhỏ nhẹ: “Thưa cô Ba, tối không cần biết cô nay ra thế nào, sa sút đến bực nào tôi không cần biết, trong mắt tôi, trong hồn tôi, đối với tôi, cô luôn luôn vẫn là người đẹp, tôi không hiểu thành ngĩr “khuynh quốc khuynh thành” là người ra thế nào, tôi chỉ biết cô qua bức ảnh chụp treo trong tủ kiềng nơi trước nhà nhiếp ảnh “Khánh Ký” năm xưa ở đường Bonard, hình cô mặc một bộ y phục trắng, che cây dù cũng trắng và đứng thướt tha nhìn ngắm xa xăm, hại cho tôi chủ nhựt nào dầu trong túi không tiền cũng lội bộ từ trường Chasseloup ra ngắm dung nhan cho được mới nghe, mặc dầu trời mưa trời gió, và hại tôi đêm nào như đêm nấy, tiếng rằng cha mẹ cho tôi lên đây ở nội trú để xôi kinh nấu sử, mà xôi và nấu đâu không thấy, đêm nào như đêm nấy, tôi chỉ mơ mộng tưởng nhớ hình dung cô!

Lời nói không suy nghĩ mà tựa như sắp đặt trước, khiến nên gây được cảm tình. Một bữa tôi đang xỏ giày vào chưn, cô bỗng giựt mình mở mắt ngồi nhỏm dậy mà rằng:

- Anh hãy yên tâm, rồi thong thả tôi sẽ kể lại đời sóng gió của tôi cho anh viết. Nói thiệt, tôi mê cảm anh nên mới làm như vậy. Nhưng tôi đã suy xét rồi. Tôi thích chị Năm diễn kịch khéo, nhứt là vai “bà Phán Lợi, mẹ thằng Thân (Việt Hùng) trong tuồng Đoạn Tuyệt. Tôi đã phá gia cang biết bao nhiêu người! Tôi không muốn làm khổ cho chị Năm, anh hãy về nói lại: tôi tha cho đó! Thôi, về hè!

Và nhờ vậy mà có thiên bút ký nầy cất kỹ suốt ba chục năm, nay xin chép lại đây có lẽ ngày nào tôi ra đi tìm gặp cô Ba, và có gặp lại cũng chẳng chưa biết, khi ấy sẽ cho đăng báo hoặc sẽ cho in thành tập, tiếp theo tập “Sài Gòn năm xưa” gọi để bổ túc.

(Anh linh cô nếu còn, xin chứng minh lời nầy.)

Và kể từ hàng nầy, là “Lời tự thuật của cô Ba Trà”:

Anh từng đọc Tiếng Dội. Anh còn để dành được nguyên xấp, anh cứ dở ra xem: nơi tờ số 15-5-1952, báo ấy có in lại mấy hàng như sau, chính chữ tôi viết huếch hoác như vầy (chữ tôi xấu lắm, vì tôi nào có được học tới nơi tới chốn!)

Chứng chắc

“Tôi, Trần Ngọc Trà, tự Cô Ba Trà, bằng lòng cho báo “Tiếng Dội” đăng về cuộc đời của tôi, từ buổi thiếu thời đến nay, chính tôi thuật cho người đại diện báo “Tiếng Dội” nghe chuyện của tôi để đăng báo”.

Sài Gòn, le 9-5-1952. Ký tên: Trần Ngọc Trà”

Như vậy tạm đủ rồi, còn tên cha mẹ và lý lịch tưởng không cần ghi lại đây, vả lại nói ra không ích gì, chỉ làm đau lòng người nơi chín suối. Năm nay 1952 gặp lại nhau, thì anh đã 48 tuổi, tôi nhỏ hơn sáu tuổi và lớn hơn bà trước, cô Tư Tuyết ba bốn tuổi, trễ rồi bất thành duyên, hoạ may đổi tình cầm sắt ra cầm cờ, không chừng được lâu bền hơn, làm bạn này tới đâu hay tới đó như vậy mà tốt hơn.

Anh cứ yên tâm và vui lòng cứ viết, tôi lần lượt sẽ kể anh nghe cuộc đời bảy nổi ba chìm của tôi, như ruột thiên sám hối... Tôi đã kể như vậy cho một ông không nói tên ra mà đđối với anh không xa lạ gì, nhưng với đó là vì miếng cơm đen cầm thực, khác với anh là vì chút lòng cảm mến chưa phải là “tình” nhưng cũng gần gần như vậy anh không nên ngần ngại, không ai cướp công ai đâu, cũng như tôi có quyền thuật lại cho một người thứ ba viết nữa nào có hại gì, vì đây là bầu tâm sự, tôi vui tôi trút, mạnh ai nấy muốn hốt thì nhào vô của đồng công chợ, con tôm con cá, tranh giành nhau cái thứ “chim trời cá nước” ấy mà.

Tôi nói sơ cho anh biết, Ba tôi là người kén vợ hơn ai hết thảy. Mà nghĩ cho cùng, nói ra thì mắc tội với đức sinh thành, chớ đàn ông đều ích kỷ mười người như một, chỉ biết có mình nào biết có ai. Sáu lần chọn lựa rồi đều đường ai nấy đi, đến khi gặp má tôi người làng Tân An (Cần Đước), quên nói ba tôi là người làng Phước Khánh, thuộc quận Cần Giuộc, hai người xứng đôi vừa lứa, mới sanh ra tôi, mà sanh làm gì để gánh chịu bao nhiêu khổ cực nói ra càng thêm đau lòng, và chưa biết chừng nào mới dứt. Ban nãy tôi nói đàn ông ích kỷ, vì nhớ lại tôi nào biết ba tôi có nựng nịu tôi không, chỉ biết khi tôi được lên năm, ba tôi ghen cho má tôi không một lòng một dạ, đến thổ huyết lâm ly mà thác. Quan tài vừa liệm, nắp đậy vừa xong, còn để ngờ ngờ giữa nhà, kế ngày sau bà nội tôi, mẹ của ba tôi, vì quá thương con, bỗng chết theo, và hai cái hòm đặt song song giữa nhà mới là hệ. Chôn cất vừa xong, bác trai tôi nhẫn tâm gọi mẹ tôi bồng tôi lại, rồi lột cái mũ mấn không cho tôi đội, rằng “Ba tôi lúc lâm chung trối lại không nhìn tôi là con” và đành lòng nào bác đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà, rằng bất xứng dâu con họ Trần. Cơ khổ, có bắt được quả tang đâu mà đề án tử cho mẹ tôi, khiến cho lúc nào tôi cũng được bà nội cưng, thậm chí khi tôi biết đứng chựng, bà lấy vạt áo lót trên ván trên gạch trước khi đặt chân tôi đứng lên trên, vì sợ cát bụi sạn sỏi làm đau chơn Trà, nay cha mất bà nội cũng nằm xuống, hai nấm mồ cỏ chưa mọc xanh, mẹ tôi bồng tôi lui về quê ngoại, phải bồng tôi không cũng khá, lại bồng theo một bụng bất mãn cành hông, và từ ấy, giận ai không biết mà mẹ tôi cứ tôi mà cho đòn, từ củi đòn củi chẻ, tôi đều nếm đủ thay vì lòng thương con con côi con cút! Chín tuổi, lớn chồng ngồng cái đầu, mẹ tôi chưa cho tôi đi học. Trẻ lối xóm chiều chiều cắp sách ở trưởng về, cười nói huyên thuyên mà tôi còn chớ: khi mé vui thì ban bố bánh trái ăn không hết, khi khắc nổi cơn khùng thì roi vọt đấm đá gần mềm xương với một câu đả đớt mà cho đến ngày hôm nay tôi chưa hiểu cho tường tận: “Tao đánh mầy cho tiệt nòi tiệt giống quân “đoản hậu”! Mà ai đoản ai, có ông Trời mà biết? Ba tôi ư? Thì hãy chớ về dưới ấy sẽ hay! Mẹ tôi ư? Mà sao lại nhè tôi mà cho ăn đòn? Và oán ai mà để cho tôi chịu dốt? Thành thử tôi nay hư đốn, nào phải tội tại tôi! Thiếu tình cảm của cha, thiếu yêu thương của mẹ, thiếu hết, thiếu tất cả: không học không hành, và chỉ được một gia tải duy nhứt của trời cho là sắc đẹp! Mà đẹp làm chi để vừa mười bốn tuổi tuổi chưa biết gì, mẹ tôi đã đưa tôi vào vòng tay một quan thầy thuốc người Pháp, nói gả không xong, nói “bán” là phải hơn, và mười bốn tuổi đầu phải chịu nhiều cơn gió phũ phàng của một người dị tộc, sau nầy tôi như lá môn, nước xối hao nhiêu đều trơn trợt tuột ngoài da, cũng vì nạn tảo hôn “bán tôi cho thằng Tây có tiền chỉ mua nhục dục”! Nói chí đáng, ông nầy, một trai trên ba mươi, cũng có chút động lòng, cho tôi đi học nơi trường nữ chung lớp với trẻ đầu còn chứa chóp, ở lớp năm, lớp sáu, sớm chiều tụng A B C và tập đồ mấy hàng chữ quốc ngữ “Bờ A: BA, v.v”. Trong lớp học tôi có hai đứa cháu, tôi thuộc vai “dì của chúng” mà chúng nào nhìn nhận tôi là thân thuộc cũng vì tôi nghèo và sớm mồ côi cha. Ngày bà ngoại tôi mất, mẹ của mẹ tôi, thế mà trong gia đình sai người vô trường lãnh hai đứa kia về chịu tang của bà cố của chúng, còn tôi, nhớ ơn bà, khi lóng mía cho lén, khi củ khoai giấu giếm không cho các cháu trai kia biết, nhớ ơn bà, tôi phải bỏ trường mất học hay là thất học luôn từ đây và tôi phải leo rào về tới quê mẹ thì hòm đã đậy nắp, nào thấy mặt bà. Lớn lên tôi hoá ra chai đá cõi lòng, vì lúc nhỏ, ai thương cho mà biết thương lại? Những ai kia từng làm bạn với tôi, xin nhớ cho tôi điều này!

Tử tôi năm tuổi, mẹ tôi giao tôi cho bà ngoại nuôi dưỡng, đến khi tôi được chín tuổi má tôi mới nhớ rằng có một đứa con, sẵn nay bà ngoại mất, má tôi mới bắt tôi theo lên Sài Gòn. Quên nói, trong khi bỏ con cho mẹ là bà ngoại tôi săn sóc, má tôi đầu tắt mặt tối, tảo tần chạy đầu này đầu kia để sinh sống, và nói ra thêm tủi thẹn, một người còn trẻ và có nhan sắc như má tôi, mà sao nhè làm bạn, “đụng” một chủ tiệm bán á phiện ở chợ Xóm Chiếu? Đến nước trẻ đẹp mà “lấy chệc” là cùng đường! Có lẽ một duyên cớ không nói ra, là má tôi thù thâm xương người cùng một giống dòng “toàn là quân đoản hậu”.

Cũng may má tôi thắng vụ kiện chia gia tài bên Ba tôi được mớ nhắm, nhờ đó làm vốn liếng nên thôi ở Xóm Chiếu, đem tôi ra ở gần Chợ Bến Thành, đường d’Espagne, mà trong hẻm nhỏ mút đường gần ga xe lửa Mỹ Tho, chỗ mấy căn nhà lụp sụp phố huyện Cần, nay còn nhìn được...

Ba tôi mất được năm năm, má tôi mới về một lần viếng mộ chồng, thì lớp bị trâu bò leo ăn cỏ đạp nhầu, lớp không ai giẫy mã nên núm mồ sụt lì gần bằng mặt đất. Mười bốn tuổi, tôi vừa trổ mã con gái, chịu tang bà ngoại thì ông chồng quan ba thầy thuốc Pháp, mãn giao kèo, cút luôn về xứ không một tiếng giã từ, một đồng một chữ cũng quên cho? Khỏi ở ăn, khỏi nằm chung với chồng ngoại quốc, về nương náu với mẹ, tưởng chi, chỉ để trở lại lãnh đòn bọng như khi chưa chồng. Nhưng khỏi bỡ ngỡ lạ lùng trong vòng tay lông lá kia, bù trừ còn sướng. Lúc ở hẻm d’ Espagne, tôi đã biết làm dáng. Có người đặt biệt hiệu lúc nhỏ tôi bán chả giò, nên thỉnh thoảng tôi còn danh hiệu “Cô Ba chả giò”. Sự thật má tôi bán đủ thứ hàng theo trên xe lửa chạy đường Sài Gòn ra Phan Thiết lúc ấy đường xuyên Đông Dương chưa thông thương như hiện giờ. Tôi đã biết làm dáng, nhờ dành dụm chắt mót từ xu, từ cắc, tôi sắm được một chiếc áo bà ba xuyến đen, khi mặt lén lúc má đi vắng, hai bên phố ai ai cũng trầm trồ “con chị Tám” nay đã coi được đến! Lúc ấy tôi thấy hạnh phúc tràn trề, là nài được một đôi guốc “ngù ngà”. Ngày nay các cô tân thời đi guốc “Phi mã”, guốc cao gót để dễ ẹo bên nầy ẹo bên kia cho đúng mốt, chớ mốt thời đó là guốc ngù ngà nầy. Nguồn gốc do các ỷ, các vợ khách giàu trong Chợ Lớn từng qua Hạ châu và Tân gia ba mang về theo kiểu đàn bà Bà lai du” (Malais(e), chà và javanais(e) đề xướng. Guốc vẫn guốc gỗ vông cho nhẹ, không quai da hòng sợ đứt, chỉ ngại đường trơn trợt, đi guốc ngù ngà, rủi trật chín thì đau thấu mây xanh, nhưng khi mang vào chơn thấy tăng vẻ đẹp thì đau cách mấy cũng rán chịu! Ngà nầy tiện trong ngà voi, càng lớn chột càng sang, và đi lâu năm ngà lên nước thì đẹp hết chỗ nói. Mặc áo xuyến và diện đôi guốc ngù ngà, là chờ má đi vắng hay má nghỉ, Trà lúc ấu thơ, hạnh phúc đòi hỏi có bấy nhiêu mà ai biết cho Trà?

Tôi nói nãy giờ cho anh ghi chép, mà quên nói sau khi quan ba thầy thuốc, ông chồng tạm bợ của tôi về Tây, tôi giúp mẹ tôi đỡ đần công việc chạy hàng dọn từ toa xe gánh mang về nhà hoặc theo xe ra Phan Thiết tải hàng về cho má. Đi bán trên xe lửa vui lắm. Tôi không may mắn học ở trường, mà tha hồ học trên xe, nào tiếng lóng tiếng lái, tiếng éo le, tiếng đôi ba nghĩa. “Lái dúm” là gì? anh là thầy lái, anh biết chớ? Trà cấm anh nói xuôi lại trước mặt Trà? Và nhờ học trên xe mà Trà bỏ túi được đôi ba tiếng Hải Nam, sau nầy có dịp sửa lưng mấy thằng Tàu con bên Xiêm mới sướng? Trà còn nhớ anh bán bánh mì chả lụa lúc ấy. Sáng sáng, xe bắt đầu lăn bánh là anh bắt đầu bày thúng bánh mì còn nóng hổi và rổ thịt giò chả lụa chả quế đủ thứ xuống sàn xe. Chẳng lành mà chớ, anh cũng bày ra cái điếu tre hút thuốc lào lên nước láng bóng. Xe lửa chạy cà rụp cà tang nghe êm tai buồn ngủ, anh lấy thuốc nhồi vào điếu, bật lửa mồi và kéo ro ro... Anh kéo một hơi dài, rồi lơ tơ mơ ngả đầu quẹo qua một bên say thuốc anh ngủ gà ngủ vịt, trong khi ấy bọn đá cá lăn dưa chực sẵn hồi nào, đứa rút bánh đứa ăn cắp thịt, anh vừa mở mắt thì mọi việc an bài, có ông Trời mà biết. Thiệt tài tình hết sức, chớ chi Trà học được nghề của chúng thì sau nầy vào sòng me Trà không thua đậm bao giờ...

n nhớ rành rành như chuyện vừa xảy ra hôm qua hôm kia đây, là bữa đầu tôi gặp cô Ba trong Đại Thế Giới là lúc tôi đang đeo theo kỹ sư Phạm Kim Bảng để xin một miếng đất của đô thành, hầu như dựng lên vuông nhà hiện nay tôi đang ở, còn cô Ba khi ấy gần như thường trực đêm nào như đêm ấy cô vẫn có mặt tại các sòng me, để canh chừng khi thuận chiều “ké vô vài chén chạy gạo”, hoặc khi nào các công tử quen xưa hết vốn, cô sẽ chuyển vận lương thảo cho các cậu gỡ gạc với điều kiện “tiền viện trợ cấp thời” nầy đẻ mỗi ngày là mười phân trăm số vốn, tỷ dụ cho mượn 2.000 đồng thì mỗi ngày tiền lời là 200, bạc vốn vẫn còn nguyên, khi trả phải chìa ra đủ 2.000 răng rắc. (Mấy lúc sau đó, khi tôi hay được cô làm nghề mà tôi cho là quá mạo hiểm và phân tâm với cô rằng cô “không sợ chúng giựt hay sao?”, cô đã trở lời mấy tiếng cụt ngủn làm cho tôi toát mồ hôi vì quá thiết thực: “Các cậu bao giờ đi giựt tiền một con đĩ như tôi làm vầy?”) Tôi thuở nay đâu có ưa cờ bạc và tôi vào Đại Thế Giới hằng bữa để làm gì?

Nhưng như đã nói, lúc đó tôi đang theo sát kỹ sư Bảng, và Bảng là con sâu cờ bạc, khiến nên tôi gặp lại cô Ba cũng nhờ Bảng. Hai tôi cô Ba và tôi, vẫn không xa lạ. Lúc tôi ở trọ nhà 108 đường Bonard, lối năm 1925-1926, thì cô có đến đây mỗi khi trong nhà có tổ chức “hốt me chạy”. Lúc đó một bữa nọ không biết ai đã chọt mất của tôi một sợi dây chuyền vàng đeo đồng hồ bỏ túi mà tôi để quên trên lầu, trong khi tôi đang kiếm, cô hay được, cô thốt ra một lời bộc trực mà khi ấy tôi cho là “chạm nhiều vào lòng tự ái” là “Đi lấy làm chi của người ta? Người ta ăn lương một tháng không bằng mình đặt một tụ con con. Thiệt, ai đó, lấy làm chi của người ta như vậy?” Ngày nay tôi đã trên tám mươi và đã có nhà có cửa đàng hoàng, thì tôi xét ra câu nói của cô tỏ lòng thương hại hơn là khinh khi, nhưng lúc nhỏ háo thắng, “mình ước ao muốn nó mà nó đành lòng nói một câu như vậy, lúc đó tôi cho là “tổn đức” và định tâm phải làm sao cho có phương cách trả thù một phen mới nghe cho!” Bảng làm kỹ sư coi về đất địa đô thành, lúc đó ông đô trưởng Nẫm họ Lê, có hứa cho tôi một miếng đất nơi vườn Tao đàn để cất “nhà xưa” với điều kiện khi tôi chết, nhà cho về đô thành vĩnh viễn và cuộc cắt đất cắm ranh tuỳ nơi Bảng, nên tôi đeo theo là vậy. Không biết hôm gặp, cô vui bực nào, mà trò truyện với tôi không ngớt. Rất may cho tôi là khiến thần khẩu thốt ra một câu “nịnh đầm” quá xá, làm cho cô xúc động tâm tình rồi keo sơn gắn bó từ đây cũng nhờ câu nầy. Cô hỏi nhỏ tôi, từ ngày xa nhau, sau lúc cô dự đám cưới của tôi và cô Tư Tuyết, con của bà Kính (ông bô tôi là thông ngôn toà thượng thẩm, một tay chơi nức tiếng thời ấy), và sau nầy căn phố lầu số 260 đường Richaud (sau là đường Phan Đình Phùng) trở nên cảnh “Nguyệt tiên cung” của cô v.v..., tôi trả lời một cách rất tự nhiên cho câu cô hỏi: “Nay cô đã hương phai phấn lạt, còn săn đón cô làm gì?”, tôi khi ấy ngó ngay mặt cô rồi cúi đầu đáp nhỏ nhẹ: “Thưa cô Ba, tối không cần biết cô nay ra thế nào, sa sút đến bực nào tôi không cần biết, trong mắt tôi, trong hồn tôi, đối với tôi, cô luôn luôn vẫn là người đẹp, tôi không hiểu thành ngĩr “khuynh quốc khuynh thành” là người ra thế nào, tôi chỉ biết cô qua bức ảnh chụp treo trong tủ kiềng nơi trước nhà nhiếp ảnh “Khánh Ký” năm xưa ở đường Bonard, hình cô mặc một bộ y phục trắng, che cây dù cũng trắng và đứng thướt tha nhìn ngắm xa xăm, hại cho tôi chủ nhựt nào dầu trong túi không tiền cũng lội bộ từ trường Chasseloup ra ngắm dung nhan cho được mới nghe, mặc dầu trời mưa trời gió, và hại tôi đêm nào như đêm nấy, tiếng rằng cha mẹ cho tôi lên đây ở nội trú để xôi kinh nấu sử, mà xôi và nấu đâu không thấy, đêm nào như đêm nấy, tôi chỉ mơ mộng tưởng nhớ hình dung cô!

Lời nói không suy nghĩ mà tựa như sắp đặt trước, khiến nên gây được cảm tình. Một bữa tôi đang xỏ giày vào chưn, cô bỗng giựt mình mở mắt ngồi nhỏm dậy mà rằng:

- Anh hãy yên tâm, rồi thong thả tôi sẽ kể lại đời sóng gió của tôi cho anh viết. Nói thiệt, tôi mê cảm anh nên mới làm như vậy. Nhưng tôi đã suy xét rồi. Tôi thích chị Năm diễn kịch khéo, nhứt là vai “bà Phán Lợi, mẹ thằng Thân (Việt Hùng) trong tuồng Đoạn Tuyệt. Tôi đã phá gia cang biết bao nhiêu người! Tôi không muốn làm khổ cho chị Năm, anh hãy về nói lại: tôi tha cho đó! Thôi, về hè!

Và nhờ vậy mà có thiên bút ký nầy cất kỹ suốt ba chục năm, nay xin chép lại đây có lẽ ngày nào tôi ra đi tìm gặp cô Ba, và có gặp lại cũng chẳng chưa biết, khi ấy sẽ cho đăng báo hoặc sẽ cho in thành tập, tiếp theo tập “Sài Gòn năm xưa” gọi để bổ túc.

(Anh linh cô nếu còn, xin chứng minh lời nầy.)

Và kể từ hàng nầy, là “Lời tự thuật của cô Ba Trà”:

Anh từng đọc Tiếng Dội. Anh còn để dành được nguyên xấp, anh cứ dở ra xem: nơi tờ số 15-5-1952, báo ấy có in lại mấy hàng như sau, chính chữ tôi viết huếch hoác như vầy (chữ tôi xấu lắm, vì tôi nào có được học tới nơi tới chốn!)

Chứng chắc

“Tôi, Trần Ngọc Trà, tự Cô Ba Trà, bằng lòng cho báo “Tiếng Dội” đăng về cuộc đời của tôi, từ buổi thiếu thời đến nay, chính tôi thuật cho người đại diện báo “Tiếng Dội” nghe chuyện của tôi để đăng báo”.

Sài Gòn, le 9-5-1952. Ký tên: Trần Ngọc Trà”

Như vậy tạm đủ rồi, còn tên cha mẹ và lý lịch tưởng không cần ghi lại đây, vả lại nói ra không ích gì, chỉ làm đau lòng người nơi chín suối. Năm nay 1952 gặp lại nhau, thì anh đã 48 tuổi, tôi nhỏ hơn sáu tuổi và lớn hơn bà trước, cô Tư Tuyết ba bốn tuổi, trễ rồi bất thành duyên, hoạ may đổi tình cầm sắt ra cầm cờ, không chừng được lâu bền hơn, làm bạn này tới đâu hay tới đó như vậy mà tốt hơn.

Anh cứ yên tâm và vui lòng cứ viết, tôi lần lượt sẽ kể anh nghe cuộc đời bảy nổi ba chìm của tôi, như ruột thiên sám hối... Tôi đã kể như vậy cho một ông không nói tên ra mà đđối với anh không xa lạ gì, nhưng với đó là vì miếng cơm đen cầm thực, khác với anh là vì chút lòng cảm mến chưa phải là “tình” nhưng cũng gần gần như vậy anh không nên ngần ngại, không ai cướp công ai đâu, cũng như tôi có quyền thuật lại cho một người thứ ba viết nữa nào có hại gì, vì đây là bầu tâm sự, tôi vui tôi trút, mạnh ai nấy muốn hốt thì nhào vô của đồng công chợ, con tôm con cá, tranh giành nhau cái thứ “chim trời cá nước” ấy mà.

Tôi nói sơ cho anh biết, Ba tôi là người kén vợ hơn ai hết thảy. Mà nghĩ cho cùng, nói ra thì mắc tội với đức sinh thành, chớ đàn ông đều ích kỷ mười người như một, chỉ biết có mình nào biết có ai. Sáu lần chọn lựa rồi đều đường ai nấy đi, đến khi gặp má tôi người làng Tân An (Cần Đước), quên nói ba tôi là người làng Phước Khánh, thuộc quận Cần Giuộc, hai người xứng đôi vừa lứa, mới sanh ra tôi, mà sanh làm gì để gánh chịu bao nhiêu khổ cực nói ra càng thêm đau lòng, và chưa biết chừng nào mới dứt. Ban nãy tôi nói đàn ông ích kỷ, vì nhớ lại tôi nào biết ba tôi có nựng nịu tôi không, chỉ biết khi tôi được lên năm, ba tôi ghen cho má tôi không một lòng một dạ, đến thổ huyết lâm ly mà thác. Quan tài vừa liệm, nắp đậy vừa xong, còn để ngờ ngờ giữa nhà, kế ngày sau bà nội tôi, mẹ của ba tôi, vì quá thương con, bỗng chết theo, và hai cái hòm đặt song song giữa nhà mới là hệ. Chôn cất vừa xong, bác trai tôi nhẫn tâm gọi mẹ tôi bồng tôi lại, rồi lột cái mũ mấn không cho tôi đội, rằng “Ba tôi lúc lâm chung trối lại không nhìn tôi là con” và đành lòng nào bác đuổi mẹ con tôi ra khỏi nhà, rằng bất xứng dâu con họ Trần. Cơ khổ, có bắt được quả tang đâu mà đề án tử cho mẹ tôi, khiến cho lúc nào tôi cũng được bà nội cưng, thậm chí khi tôi biết đứng chựng, bà lấy vạt áo lót trên ván trên gạch trước khi đặt chân tôi đứng lên trên, vì sợ cát bụi sạn sỏi làm đau chơn Trà, nay cha mất bà nội cũng nằm xuống, hai nấm mồ cỏ chưa mọc xanh, mẹ tôi bồng tôi lui về quê ngoại, phải bồng tôi không cũng khá, lại bồng theo một bụng bất mãn cành hông, và từ ấy, giận ai không biết mà mẹ tôi cứ tôi mà cho đòn, từ củi đòn củi chẻ, tôi đều nếm đủ thay vì lòng thương con con côi con cút! Chín tuổi, lớn chồng ngồng cái đầu, mẹ tôi chưa cho tôi đi học. Trẻ lối xóm chiều chiều cắp sách ở trưởng về, cười nói huyên thuyên mà tôi còn chớ: khi mé vui thì ban bố bánh trái ăn không hết, khi khắc nổi cơn khùng thì roi vọt đấm đá gần mềm xương với một câu đả đớt mà cho đến ngày hôm nay tôi chưa hiểu cho tường tận: “Tao đánh mầy cho tiệt nòi tiệt giống quân “đoản hậu”! Mà ai đoản ai, có ông Trời mà biết? Ba tôi ư? Thì hãy chớ về dưới ấy sẽ hay! Mẹ tôi ư? Mà sao lại nhè tôi mà cho ăn đòn? Và oán ai mà để cho tôi chịu dốt? Thành thử tôi nay hư đốn, nào phải tội tại tôi! Thiếu tình cảm của cha, thiếu yêu thương của mẹ, thiếu hết, thiếu tất cả: không học không hành, và chỉ được một gia tải duy nhứt của trời cho là sắc đẹp! Mà đẹp làm chi để vừa mười bốn tuổi tuổi chưa biết gì, mẹ tôi đã đưa tôi vào vòng tay một quan thầy thuốc người Pháp, nói gả không xong, nói “bán” là phải hơn, và mười bốn tuổi đầu phải chịu nhiều cơn gió phũ phàng của một người dị tộc, sau nầy tôi như lá môn, nước xối hao nhiêu đều trơn trợt tuột ngoài da, cũng vì nạn tảo hôn “bán tôi cho thằng Tây có tiền chỉ mua nhục dục”! Nói chí đáng, ông nầy, một trai trên ba mươi, cũng có chút động lòng, cho tôi đi học nơi trường nữ chung lớp với trẻ đầu còn chứa chóp, ở lớp năm, lớp sáu, sớm chiều tụng A B C và tập đồ mấy hàng chữ quốc ngữ “Bờ A: BA, v.v”. Trong lớp học tôi có hai đứa cháu, tôi thuộc vai “dì của chúng” mà chúng nào nhìn nhận tôi là thân thuộc cũng vì tôi nghèo và sớm mồ côi cha. Ngày bà ngoại tôi mất, mẹ của mẹ tôi, thế mà trong gia đình sai người vô trường lãnh hai đứa kia về chịu tang của bà cố của chúng, còn tôi, nhớ ơn bà, khi lóng mía cho lén, khi củ khoai giấu giếm không cho các cháu trai kia biết, nhớ ơn bà, tôi phải bỏ trường mất học hay là thất học luôn từ đây và tôi phải leo rào về tới quê mẹ thì hòm đã đậy nắp, nào thấy mặt bà. Lớn lên tôi hoá ra chai đá cõi lòng, vì lúc nhỏ, ai thương cho mà biết thương lại? Những ai kia từng làm bạn với tôi, xin nhớ cho tôi điều này!

Tử tôi năm tuổi, mẹ tôi giao tôi cho bà ngoại nuôi dưỡng, đến khi tôi được chín tuổi má tôi mới nhớ rằng có một đứa con, sẵn nay bà ngoại mất, má tôi mới bắt tôi theo lên Sài Gòn. Quên nói, trong khi bỏ con cho mẹ là bà ngoại tôi săn sóc, má tôi đầu tắt mặt tối, tảo tần chạy đầu này đầu kia để sinh sống, và nói ra thêm tủi thẹn, một người còn trẻ và có nhan sắc như má tôi, mà sao nhè làm bạn, “đụng” một chủ tiệm bán á phiện ở chợ Xóm Chiếu? Đến nước trẻ đẹp mà “lấy chệc” là cùng đường! Có lẽ một duyên cớ không nói ra, là má tôi thù thâm xương người cùng một giống dòng “toàn là quân đoản hậu”.

Cũng may má tôi thắng vụ kiện chia gia tài bên Ba tôi được mớ nhắm, nhờ đó làm vốn liếng nên thôi ở Xóm Chiếu, đem tôi ra ở gần Chợ Bến Thành, đường d’Espagne, mà trong hẻm nhỏ mút đường gần ga xe lửa Mỹ Tho, chỗ mấy căn nhà lụp sụp phố huyện Cần, nay còn nhìn được...

Ba tôi mất được năm năm, má tôi mới về một lần viếng mộ chồng, thì lớp bị trâu bò leo ăn cỏ đạp nhầu, lớp không ai giẫy mã nên núm mồ sụt lì gần bằng mặt đất. Mười bốn tuổi, tôi vừa trổ mã con gái, chịu tang bà ngoại thì ông chồng quan ba thầy thuốc Pháp, mãn giao kèo, cút luôn về xứ không một tiếng giã từ, một đồng một chữ cũng quên cho? Khỏi ở ăn, khỏi nằm chung với chồng ngoại quốc, về nương náu với mẹ, tưởng chi, chỉ để trở lại lãnh đòn bọng như khi chưa chồng. Nhưng khỏi bỡ ngỡ lạ lùng trong vòng tay lông lá kia, bù trừ còn sướng. Lúc ở hẻm d’ Espagne, tôi đã biết làm dáng. Có người đặt biệt hiệu lúc nhỏ tôi bán chả giò, nên thỉnh thoảng tôi còn danh hiệu “Cô Ba chả giò”. Sự thật má tôi bán đủ thứ hàng theo trên xe lửa chạy đường Sài Gòn ra Phan Thiết lúc ấy đường xuyên Đông Dương chưa thông thương như hiện giờ. Tôi đã biết làm dáng, nhờ dành dụm chắt mót từ xu, từ cắc, tôi sắm được một chiếc áo bà ba xuyến đen, khi mặt lén lúc má đi vắng, hai bên phố ai ai cũng trầm trồ “con chị Tám” nay đã coi được đến! Lúc ấy tôi thấy hạnh phúc tràn trề, là nài được một đôi guốc “ngù ngà”. Ngày nay các cô tân thời đi guốc “Phi mã”, guốc cao gót để dễ ẹo bên nầy ẹo bên kia cho đúng mốt, chớ mốt thời đó là guốc ngù ngà nầy. Nguồn gốc do các ỷ, các vợ khách giàu trong Chợ Lớn từng qua Hạ châu và Tân gia ba mang về theo kiểu đàn bà Bà lai du” (Malais(e), chà và javanais(e) đề xướng. Guốc vẫn guốc gỗ vông cho nhẹ, không quai da hòng sợ đứt, chỉ ngại đường trơn trợt, đi guốc ngù ngà, rủi trật chín thì đau thấu mây xanh, nhưng khi mang vào chơn thấy tăng vẻ đẹp thì đau cách mấy cũng rán chịu! Ngà nầy tiện trong ngà voi, càng lớn chột càng sang, và đi lâu năm ngà lên nước thì đẹp hết chỗ nói. Mặc áo xuyến và diện đôi guốc ngù ngà, là chờ má đi vắng hay má nghỉ, Trà lúc ấu thơ, hạnh phúc đòi hỏi có bấy nhiêu mà ai biết cho Trà?

Tôi nói nãy giờ cho anh ghi chép, mà quên nói sau khi quan ba thầy thuốc, ông chồng tạm bợ của tôi về Tây, tôi giúp mẹ tôi đỡ đần công việc chạy hàng dọn từ toa xe gánh mang về nhà hoặc theo xe ra Phan Thiết tải hàng về cho má. Đi bán trên xe lửa vui lắm. Tôi không may mắn học ở trường, mà tha hồ học trên xe, nào tiếng lóng tiếng lái, tiếng éo le, tiếng đôi ba nghĩa. “Lái dúm” là gì? anh là thầy lái, anh biết chớ? Trà cấm anh nói xuôi lại trước mặt Trà? Và nhờ học trên xe mà Trà bỏ túi được đôi ba tiếng Hải Nam, sau nầy có dịp sửa lưng mấy thằng Tàu con bên Xiêm mới sướng? Trà còn nhớ anh bán bánh mì chả lụa lúc ấy. Sáng sáng, xe bắt đầu lăn bánh là anh bắt đầu bày thúng bánh mì còn nóng hổi và rổ thịt giò chả lụa chả quế đủ thứ xuống sàn xe. Chẳng lành mà chớ, anh cũng bày ra cái điếu tre hút thuốc lào lên nước láng bóng. Xe lửa chạy cà rụp cà tang nghe êm tai buồn ngủ, anh lấy thuốc nhồi vào điếu, bật lửa mồi và kéo ro ro... Anh kéo một hơi dài, rồi lơ tơ mơ ngả đầu quẹo qua một bên say thuốc anh ngủ gà ngủ vịt, trong khi ấy bọn đá cá lăn dưa chực sẵn hồi nào, đứa rút bánh đứa ăn cắp thịt, anh vừa mở mắt thì mọi việc an bài, có ông Trời mà biết. Thiệt tài tình hết sức, chớ chi Trà học được nghề của chúng thì sau nầy vào sòng me Trà không thua đậm bao giờ...

31.: Duyên gặp anh Toàn

Cái ông Tây quan ba thầy thuốc tôi không nhớ! Cho đến nay, tôi gặp không biết bao nhiêu mà đếm, nhưng anh Toàn, tôi còn nhớ mãi không quên. Một buổi chiều nọ, xe Phan Thiết về, từ Hoà Hừng đã kéo còi vang rân, cho bạn hàng chợ Bến Thành biết mà đón xe lãnh hàng.

Như thường lệ, trong bộ áo bà ba “vải san đầm” đen, vắn gọn cắt khéo, may khéo và vừa vặn, - giàu thì mớ bảy mớ ba, - tôi chỉ có duy nhứt bộ áo bà ba nầy, áo quần bó sát căng thẳng vóc mình như con chim óc cau mùa lúa trổ - mông von von, vú tròn tròn, đùi dài, cẳng son, gói ghém như cô học trò trưởng áo tím chưa nếm mùi đời, nào ai thấu hiểu năm mười bốn tuổi đã bị Tây đè - mặt trái xoan, má hồng môi đỏ, mũi dọc dừa, chang mày đều đặn, lông mi dài luôn luôn ướt và cặp mắt ngây thơ của con chim bồ câu khát tình, vóc mình không béo có hơi gầy, không cao cũng không thấp, đi đứng khoan thai, tôi đâu có dè: như vậy là đẹp! Đẹp là vậy đó sao? Trời ôi! Nghèo rách mùng tơi, sát giường sát chiếu, nghe rao bột khoai, tàu hủ, thèm chảy nước miếng mà trong mình không có một đồng xu, bổ dưỡng ngày ngày toàn tương chao rau muống, bữa nảo có dưa leo là thịnh soạn trên đời, như vậy mà đỏ da thắm thịt.., trên toa xe cũng như ở sân ga, đâu đâu củng dừng lại nhìn ngắm, trâm trồ: nào Tây Thi xuất thế, nào nhan sắc phi thường! Cơ khổ! Hôm ấy tôi mãi lo đề phòng bọn lăn dưa, sợ bọn chúng chọt mất một món là củi tre lên đầu, tôi quên đề phòng cặp mắt thèm muốn của một thanh niên con cháu họ Bùi, đã theo tôi từ chút! Toàn, mối tình đầu, con cháu khách, cha Tàu mẹ người Qui Nhơn, sanh bốn con, Toàn là con cưng nhứt. Cha của Toàn là tỷ phú xứ Phan Rang, Toàn vô ra Sài Gòn như ăn cơm bữa, nhưng anh Toàn hôm ấy thần tình mê mẩn đã bị tôi thu hồn sanh cho vào túi áo ngắn từ lúc xe dừng bánh! Toàn là tay ăn chơi, biết mùi gái từ tuổi dậy thì, hôm ấy Toàn gặp chị Mười Ên (Anh) hất hàm hỏi:

- Con nhà ai đó, chị Mười?

- Ba Trà, con của chị Tám ở đằng kia kìa, chớ con ai mà hỏi?

- Chị làm mai nó cho tôi đi, tôi cho chị tiền. Chị o nó cho tôi mau mau đi!

- Trời đất! Thì ít ra cậu cũng phải bắt tình với nó trước đã chớ? Cậu viết thơ tỏ tình cho thật muồi, tôi lãnh đưa cho.

Năm đó tôi đã được mười lăm tuổi mà còn khờ ịch. Bao nhiêu thơ dài thơ vắn tôi đều đem về cho má tôi không sót thơ nào.

Nhưng quả là duyên nợ, vì má tôi không giận, có lẽ bả đã hỏi thăm gia thế của Toàn rồi, cho nên chấp nhận cho anh bước tới! Và mười lăm hôm sau, là có cha mẹ Toàn, chiều ý con, dẫn Toàn vô Sài gòn làm lễ cưới. Với mười lăm tuổi đầu, tôi theo chồng ra Phan Rang, vào làm dâu cho một gia đình Tàu, ăn ở theo phong tục Tàu. Cha chồng tôi là người Hải Nam, đã có vợ chánh để lại bên Tàu, và qua đây lập nghiệp, có đến ba bà vợ lẻ, má của Toàn, kể như chánh, ở Phan Rang, hai bà kia gìn giữ mỗi người một hiệu buôn lớn, không ai đầu phục ai, và chuyên mua bán hải vật: vi cá, khô cá mặn, bào ngư, tôm hùm ổ yến, và chi nhánh lớn đặt tại Chợ Lớn cho nên Toàn ra vô hoài hoài là vì vậy. Tôi chỉ làm dâu cho bà ở Phan Rang, và mẹ chồng tôi là người nhơn đức, đối xử với tôi rất biết điều, duy bắt buộc tôi phải ăn vận theo Tàu, - chiếc áo xẩm bó ngực lòi cánh tay càng tăng thêm vẻ đẹp: cái đẹp lộng lẫy của một phụ nữ Việt mặc áo Tàu, một nhánh hoa với nước biển thanh nhẹ hay nhờ phong thổ miền nầy có núi xanh tía, bãi cát phau phau hoà với nước biển xanh biếc, mà về đây nhan sắc tôi càng thêm mặn mòi, nước da càng tươi thắm, bộ đồ xẩm khi tôi ra đứng trước ngõ là mẹ chồng tôi kêu trở vô, vì khách ngoài đường đều dừng chân xì xồ: hoa lạ nào đây, gái Tàu hay Việt?

Tội nghiệp cho thân tôi, ngây thơ dường ấy và lộng lẫy dường ấy mà kềm không nổi Toàn. Toàn được cha mẹ cưng, cho sống theo phong tục Tàu: vợ nhà, vợ bé, mèo chuột liền liền, khi tôi khởi sự biết ghen thì Toàn càng buông lung. Một hôm tôi nổi cơn sùng, làm trận gấu ó với một nữ phạm nhe (điều dưỡng, y tá) giữa chợ đông, Toàn đã không binh vực tôi lại tỏ ra lạnh lùng vô trách nhiệm. Toàn quả là một con ong ham hoa mới, một con bướm chuộng bông lạ bông thơm, vợ nhà cũ kỹ phải chiều ý chồng, không thì chồng cũng cứ đường trường cho ngựa chạy Cái thí nghiệm của tôi với mụ y tá bòng chanh đã làm cho tôi quá thất vọng và bực quá tôi lén trốn lên xe lửa toan về với má tôi ở Sài Gòn, nhưng nhà bên chồng hay kịp, bắt về, tuy không quở phạt đánh đập, nhưng “cấm cung” không cho tôi nơi ra khỏi cửa.

Được hai năm đầu âu yếm, đeo khít bên đít không rời nửa tấc, và khi chán chê rồi, cái thứ đàn ông bọn anh mười người như một, đều như vậy hết.

Khi ấy tôi hết muốn sống trong cảnh giam cầm như vầy, dầu không thiếu món ngon vật lạ đổi thay, khi ấy tôi lén anh Toàn, viết thơ về cho má tôi, và má tôi hay tin tôi như vầy sốt ruột gởi thơ ra than nhớ con và quả anh Toàn trúng kế đưa tôi về Sài Gòn.

Chuyến về, tôi cho ảnh về không, tôi ở lại với má tôi, tưởng làm sao, té ra nhẹ nhàng chỉ chưa được nửa tháng, và sau đó tuy tôi đã có chồng, vẫn bổn cũ soạn lại, má tôi cho tôi hưởng nhiều trận đòn đau điếng. Và như vầy, thôi thì trở lại với anh Toàn mà còn hơn, và nhờ một chị bạn xót tình mua cho tôi một vé hạng ba, và chuyến “vinh qui” nầy tôi nếm được mùi ngon ngọt không bao giờ nếm lại là năm đồng xu dưa leo ăn nhín với đường táng “ăn trừ cơm” mà sau tôi nếm lại không bao giờ ngon ngọt như thuở ấy. Nay tôi đã trải xiết bao cảnh ngộ, tôi có chút triết lý là hạnh phúc không phải ngồi trên đống vàng, hạnh phúc là năm đồng xu dưa leo khi nhớ chồng bụng đói?

Vinh qui mà không chồng đi theo, tôi lừng khừng thấy xe ngừng lật đật xuống xe tưởng đã tới nhà, chừng xe chạy tôi chạy theo không kịp, đành bơ vơ nơi ga Mường Mán, may thời gặp lại người mai mối hai năm trước là chị Mười Anh, mừng quá, tôi được chị nầy đưa tôi trở lại Phan Thiết, nơi nhà một người tài phú Tàu coi chi nhánh hãng của cha chồng. Hôm sau tin đồn tôi té giếng sau nhà hoặc tôi tự tử..., sự thật tôi ra sau xách nước và trật chân xuýt bỏ mạng chốn nầy.

Bỗng anh Toàn lù lù ra kiếm tôi, bốn mắt nhìn nhau, tám hàng lệ thảm: mừng của chàng trai ăn năn vì thấy vợ tiều tuỵ làm sao đổi được cái mừng của tôi khỏi ăn củi đòn của người mẹ oán đàn ông ở đoản, mà nhè đầu tôi cho nếm củi nguyên cây? Hồn mẹ có linh? Con nói làm vầy, có đúng hay không, mẹ biết!

Những công việc tôi làm buổi ấy, nay nhớ lại, đều “trật chìa” tưởng vô Sài Gòn cho mẹ khuyên can cho chồng bớt bỏ bê gia đình, té ra mẹ tôi thẳng tay phân ly cặp oan ương không cho nối cánh, Toàn, anh Toàn về Phan Rang định ra lấy nữ trang cho tôi rồi sẽ trở vô rước vợ. Trước khi ra đi, ảnh dắt tôi ra chợ cho ăn mì, ngon quá rồi để tỏ vẻ ăn năn chuộc tội, ảnh mua cho tôi một lần đó đến mười cây lãnh đen, mặc sức cho tôi may! Và có lẽ từ đó bất ngờ tôi đã lăng xê cái mốt (lancer la mode) y phục ngắn quần áo lãnh cắt cùng một thứ hàng, vì với nước da trắng trẻo, vóc dáng thanh lại, bộ quần lãnh áo lãnh cắt cho vừa vặn, làm tăng vẻ đẹp người phụ nữ son trẻ Việt, không mốt nào dám bì, dẫu cắt trong hàng gì quý gia cách mấy cũng thế!

Trời đất ôi! Đất bằng sóng dậy! Hai tôi vô nhà lạy mẹ xin lỗi, nhưng má tôi nhứt quyết không cho tôi trở lại với anh Toàn: “Mầy còn trở lại với nó, tao giết mầy!”. Không phải má tôi nhẫn tâm hay ác tâm đến thế, nhưng tình mẹ thương con của má tôi biểu rằng bọn đàn ông đều vậy, và cho con trở về với chồng là để con đi trên con đường lầm lạc của mình buổi trước hay sao? Hại cho chưa khi mẹ thương con nhưng thiếu học! Báo hại nhứt cho tôi là ngày ngày ngóng trông anh Toàn trở vô, năn nỉ mẹ lại nữa, mong bả hồi tâm cho vợ chồng tôi sum hiệp, nhưng ngày qua ngày hết sớm rồi lại tối, bặt âm vô tín người thương.

Đã mười bảy tuổi đầu mà mọi việc đều trái ý, và để tránh điều cay nghiệt củi đòn củi chẻ, chỉ còn một nước bỏ nhà mẹ ra đi: “Thử xem con tạo xoay vần đến đâu”.

Trong mình tôi lúc ấy có sẵn nữ trang của anh Toàn để lại gồm một đôi bông tai vàng có nhẫn hột xoàn trị giá lúc đỏ chừng bốn trăm đồng, vì với 400$ lúc đó có thể mua sáu bảy lượng vàng như chơi (vàng 60$ mỗi lượng). Còn thêm mớ áo quần mới may, vi kiếng bao nhiêu ấy, chưa bay nhảy còn đợi chừng nào?

Con chim sổ lồng tập bay sập sận tự cánh mình, tôi trốn mẹ tôi hôm ấy sau khi khóc hết nước mắt, và chỗ tôi tạm trốn lả nhà chị Sáu Mão, từng quen biết, trong một hẻm nhỏ đường Paul Blanchy.

Quên nói chị Mão có chồng hút, chuyên nấu cơm tháng nuôi mấy thầy chưa vợ, cảnh nhà chật hẹp ồn ào còn hơn nhà chay bội, đình đám to. Mỗi đêm đều có tổ chức một cái đám cưới “chồng giờ vợ buổi”, không đám cưới thì cũng mai mối cột anh nầy với chị kia căn rứt cấu xé nhau sáng đêm Tôi gởi thân vào khốn nầy, không khác con nai tơ trong một hang hùm đầy hổ đói!

Khốn nạn nhứt là nhè lúc nầy tôi lại đau mắt. Cũng vì nhớ và khóc nhớ ảnh Toàn và khóc chồng bặt vô âm tín. Ba xôi nhồi một chõ: Ngoài việc bếp núc, phụ lực chị Mão xách nước rửa chén, ngô đâu bụng dạ đàn bà không độ được, chị Mão a ý với chồng, thấy tôi nhặm mắt, bày cách để cho anh Sáu Mão lấy lưỡi rà nụ mắt cho hết nhặm, và một đêm khuya, anh Mão không rà lưỡi lại nhè má tôi mà hôn. Tôi la lên mét cô ấy, chủ tỉnh bơ: “Anh Sáu mầy đã nói với tao rồi! Chịu đại cho êm!”

Thiệt là hết chỗ nói? Một lần thứ nhứt, tôi mới thấy một người đàn bà thương chồng kiểu nầy! Mà gẫm lại cũng không lạ. Phần đông gái sa ngã cũng vì lỡ bị anh nuôi đè với sự cho phép của chị nuôi.

Bây giờ để thoát nạn rà lưỡi, vả lại mắt tôi đã bớt, chỉ còn cách sấn thân cất bước ra đi một phen nữa, tức là trốn vợ chồng chị Mão. Nghiệt nỗi, bao nhiêu vốn liếng hồi sanh tôi đều gởi cho chỉ giữ nay hỏi, chỉ lại hăm he, doạ mét với má tôi. Hỏi nữa chị Sáu đâm liều lĩnh, rằng đồ đạc đã câm cố mới có tiền nuôi tôi hổm rày.

Ức lòng quá tôi chạy qua khai thiệt hết tự sự cho chị Ba là người quen ở cách chị Sáu vài căn nhà. Chị Ba mới chỉ vẽ tôi về nói lại với chị Sáu rằng Trà đã gặp mẹ và mẹ dạy nếu chị không trả mây món đồ gởi, má tôi sẽ xuống bót thưa. Nấn ná được vài hôm kế xảy ra vụ “chồng hôn em nuôi mà vợ bằng lòng”, - đến đây “kế cùng lực tận” qua học với chị Ba, chị nầy bàn nên bỏ hết vàng xoàn, và hãy qua ở với chị Ba cho yên thân, tôi lại còn dụ dự, hỏi “Rồi chị Sáu ganh, thì chị mới làm sao đây?”. Nhưng hễ con người ngay thì lời nói cũng thật, chị Ba đáp tỉnh bơ: “Còn đồ còn đạc thì chị ta mới ganh, hết đồ hết đạc, còn ganh chỗ nào?”.

Nghe có lý, tôi tức thì trở về nhà chị Sáu, tứ giã hết thảy, ra đi mình không qua ở tạm trú nhà chị Ba nghĩa hiệp. Nay việc đã qua lâu rồi, gẫm lại đầu dây mối nhợ tôi hư thân, cũng vì đôi bông xoàn và lòng nham hiểm của chị Sáu Mão, muốn nuốt cho trôi đôi bông và nuốt cho trơn số tiền anh Toàn cho, mà làm cho thân tôi ra cớ đỗi, lìa mẹ, xa chồng, và dấn thân vào đường truỵ lạc, cũng vì tiền.

Trớ trêu nhứt là buổi sáng tôi từ giã nhà chị Sáu Mão qua ở nhà chỉ Ba, thì đúng buổi chiều hôm ấy, anh Toàn lót tót từ Phan vào Sài Gòn tìm vợ. Phải là trời đất sắp đặt làm cho tôi hư chồng. Số là tôi có gởi thơ cho anh Toàn cho hay hiện tôi ở nhà chi Mão, nên hôm ấy anh Toàn đi ngay lại nhà chị ấy để tìm tôi.

Vừa thấy Toàn, rằng vào nhà nầy tìm vợ, chị Mão đóng tuồng thật khéo, và bụm mặt khóc oà:

- Trời đất quỉ thần ơi! Dượng Ba (nghe ngọt quá?) dượng vào đây đã trễ rồi! Cô Ba đau mắt tưởng đã không xong! May nhờ người khuất mặt che chở, nên nay đã bớt. Dượng tính coi vợ chồng tôi thì nghèo, thấy cổ đau, làm ngơ không đành, nên chạy thuốc chạy thầy, công lao khổ cực không kể, nay đổ nợ vợ chồng tôi phải lo cho đủ tiền ngày tiền góp, tiền đứng tiền ngồi, tính ra trên bảy trăm đồng, không biết phải làm sao đây? Thiệt là khổ quá chừng!

Cái khổ của vợ chồng chị Mão, làm cho anh Toàn phải lòi ra năm trăm đồng mới êm tạm tạm, nhưng Toàn nóng nảy vụt hỏi:

- Mà bây giờ vợ tôi ở đâu?

- Tôi đã đem cô ấy giấu trên kia kìa, vì sợ chị Tám bắt về đang đau thêm khốn!

- Giấu ở đâu, chỉ cho tôi biết đặng tôi rước về Nha Trang.

- Uý! Không nên! Chưa đặng đâu! Chỗ đó khó vô lắm! Để tôi nhắn cho cô Ba đến đây cho vợ chồng gặp mặt.

Cho hay, sự đời éo le, không ai biết được. Trông vợ, nhớ chồng, vợ chồng cách nhau trong gang tấc, cách nhau vài căn nhà, mà chỉ vì vàng xoàn và mở áo quần chị Mão muốn nuốt cho trọn mà đành ngăn cách vợ chồng nầy bằng muôn dặm quan san. Dám khuyên các cô nhỏ sau nầy, trước khi bỏ nhà chồng ra đi để tìm tự do, nên suy nghĩ lại cho chín chắn trước đã!

Bây giờ mọi sự đều trễ tràng. Mối tơ mãnh mành giữa Toàn và Trà đã dứt, muốn nối lại làm sao được. Trái đất cứ lăn, bánh xe cứ chạy, con chim một lòng với mẹ, hiếu đễ nhịn nhục vẹn bề, con chim ấy cũng một lòng với bạn, chung tình trinh thục có đủ, nhưng dịp tốt đã qua, con chim ấy bỗng bị gió thổi lọt ra khỏi ổ và cặp cánh tự nhiên biết dùng, “tung bay như cánh hồng cánh hộc”, chỉ có ông trời mà cản! Cản làm sao được khi nước vỡ bờ! Nói theo nhả Phật, cái “căn” cái “quả” đã gieo, “thì gieo đưa hái dưa, gieo đậu hái đậu”.

Sau hơn hai tháng đùm đậu nhà chị Mão, ngày cô lìa nơi nầy, cô Ba Trà không khác một nạn nhơn bị đắm thuyền, của cải sạch sành sanh, còn lại chăng là nhan sắc trời dành, nhưng với mớ nhan sắc có một không hồi ấy, số vốn ai nào dám gánh?

Năm 1923, tôi ra trường, chân ướt chân ráo tập ăn chơi, thì cô Ba đã là một nàng tiên trên dương thế. Từ 1923 đến 1928, tôi đổi về toà bố Sa Đéc, cô Ba lên như diều gặp gió, chiều chiều ngồi một mình trên chiếc ô tô mui trần lộng lẫy, xe êm nệm tốt, áo nệm trắng toanh, trước có hai người tài xế ăn vận lộng lẫy, cổ áo một màu với y phục cô Ba mặc, trắng toàn trắng, tím nâu toàn tím nâu một tài xế chánh để lái xe, một tài xế phụ để mở cửa xe, Ba Trà sang trọng sánh không thua thống đốc Nam kỳ vì chỉ có ông cầm đầu xứ nầy dùng hai tài xế cho chiếc xe chánh phủ mang số hiệu đặc biệt “C.20” (buổi ấy toàn vùng Sài Gòn công xa chỉ có một trăm chiếc, và chiếc xe của ông Nam trường máy Rosel là số 33, hiệu Ioraine - Dietrich, trong khi xe thống đốc hiệu Delage six cylindres và cô Ba ngồi “độc chiếc” trên xe có hai chauffeurs, ai nào dám ngó cô cho chán chường, chỉ vì sợ bà móc nhãn!

32. Gặp ông Diên Hương.

Con người ta lúc nhục lúc vinh không mấy hồi, và suốt một đời thi đậu có vợ sanh con nên nhà, nên cửa rồi “hoàn cốt khỉ” phủi tay sạch không, chỉ trong giấc mộng, gọi là mộng cháo kê cháo ngô gì cũng được. Xét cho cô Ba Trà: 9 tuổi chưa đi học, 14 tuổi bán cho Tây y sĩ mua làm vật tiêu khiển nhục dục, 15 tuổi lấy thằng chồng ích kỷ, lận đận lao đao đến năm 17 tuổi sống tạm bợ giữa hai chữ “hiếu với mẹ”, “trung trinh với chồng”, bỗng bước sang tuổi mười tám, tung hoành một cõi, “vảy may” ấy nhờ ai?

Nhờ một ông lương y giàu, trước học trường thuốc Hà nội, bổ làm lương y phụ tá (médecin aưxiliaire) ở nhà thương cấp cứu đô thành Pháp gọi là Clinique Hui Bon Hoa (vì ông nầy ra tiền xây cất và xưa chức bác sĩ chỉ dành cho thầy thuốc Lang sa mà thôi). Lương y nầy giầu tiền, lại giàu tình, và khi gặp được cô Ba, ông cưng chỉ thiếu đúc nhà vàng để chứa. Lương y vừa là thi sĩ, bút hiệu là Diên Lương, tôi không hài tên mà nhiều người vẫn biết. Ông đã mất năm 1963 (còn cô Ba mất năm nào, tôi hỏi chưa ra), nhà ông trước khi dời về Đà Lạt, ở ngay góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân và người đàn bà ông ký thác giữ chừng cô Ba là bà Tư Lê, bà nầy tốt lòng thì có thật mà có tật ưa chơi me, và cũng vì ở chung bà nầy mà cô Ba lây tật chơi me, chơi cho đổ quán xiêu đình, chơi cho ngả luôn gia tài công tử và cho sập thần vì chính phủ đô hộ Pháp!

33. Nhớ bác Diên Hương

Nhớ bác hôm nay là quá muộn màng, nhưng lòng thành kính của cháu đối với bác luôn luôn không đổi. Sở dĩ xưng hô làm vậy, tuy về tuổi bác lớn hơn độ mươi ngoài hai mươi, là vì bác là người đã chứng kiến sự chào đời tại nhà thương Sốc Trăng của Tuyết người bạn mười chín năm chung sống và nay đã đường ai nấy đi, tuy dầu sao tơ lòng còn vưởng vít chưa quên. Năm cháu còn mãi ở tận Paris để học hỏi về khoa khảo cổ, hay tin bác mất trên giường bịnh dưỡng đường Grall, thi hài (ngày từ trần 10 Mai, 1963) chở lên an táng trên cao nguyên Đà Lạt là nơi bác lựa, nhưng mỗi người mỗi số kiếp, vừa hương bát nước ai lo, và người dưỡng nữ duy nhứt của hai bác đã bay về Pháp địa, ai ở bên nầy coi sóc hai nấm mồ, có lẽ lạnh lắm trên đất xa lạ và nay ít người lên tới: Đà Lạt. Nếu bác sống đến giờ nầy mới lâm chung, thì bác cũng khổ với phong tục mới: hoả táng để tay gói tay xách dễ mang theo ra nước ngoài. Trừ cái việc nằm lẻ loi trên xứ lạnh, bác là người hưởng đầy đủ nhứt trên đời nầy. Trẻ tuổi thi đậu sớm, bác là người sớm được học khoá nhứt nhì trường thuốc Hà nội, bác coi sóc sanh cô Tư Tuyết năm 1912 thì cháu còn học lớp tư lớp ba trường tỉnh, còn nhớ một buổi trưa chúa nhựt, cháu cùng chúng bạn, hái xoài chua sân toà và uống nước lạnh trong lu bố thí ngoài đường, bị bác lúc ấy đổi về dưỡng đường Sốc Trăng ngồi xe kéo đi ngang bắt gặp dạy rằng không nên uống nước ấy, vì nước không tinh khiết, chứa nhiều vi trùng bịnh thổ tả. Chúng cháu sợ, bỏ chạy và nhớ danh bác từ ấy là “thầy thuốc Trần Ngọc Án”. Lớn lên, có đôi bạn, đổi về Sài Gòn lối 1942-43, phố ở ngang nhà bác đường Aviateur Garros, nào dám nhắc chuyện xưa uống nước lu ngoài đường mà chưa chết và ăn toàn xoài sống mà không sao? Sau nầy trở vô lâm ăn tiền ngay nơi viện bảo tàng trong vườn bách thảo, thỉnh thoảng vẫn được bác không quên và mời cùng bạn mới, Năm Sa Đéc, dự nhiều bữa tiệc, khi ăn lục tuần bác gái (bà Song Thanh), khi khác ăn thất tuần của bác, lúc ấy hai bác vẫn hồng hào tươi tắn, nào hay đâu ăn sung mặc sướng như vậy mà phút chốc đều ra người thiên cổ, té ra phải ăn cực sống khổ mới là sống dai như hai đứa nầy hay sao? Cái gì bác cũng hưởng nước nhứt? Ba Trà, nói ra cho đúng một phần nào nhờ bác lăng xê. Trong mấy trang trước cháu viết Ba Trà ngồi độc chiếc trên xe hơi có hai tài xế mặc đồng phục, ấy là cháu nói hở, lấy đuôi làm đầu, kỳ trung lúc ngồi xe có tài xế phụ là sau nầy khi Trà trúng me, chọn Thìn làm chồng, còn lúc chiều chiều Trà ngồi xe “nhạn” trên đường phố Sài Gòn là ngồi xe của bác, khi cu ky khi có bác ngồi song song, và cháu dám trách bác, có của quí không giấu trong nhà lại lộ liễu đem khoe trước mắt cả trăm ngàn người, thảo nào hai dê một non một xờm, Tư Phước, Ba Huy, chẳng cuỗm của bác, thì ai vô đây mà cấm cản.

Hay là nhà đã sẵn người ngọc, bác gái của cháu hèn hỏi gì, thêm giỏi thi thơ giỏi tề gia nội trợ, bác đành gởi Trà cho cô Tư Ăng lê giữ than ôi? “Gởi trứng cho ác” thì làm sao trứng khỏi bị ăn xén ăn xớt phần nào, hai bợm bãi Phước và Huy, chúng trút lọp quyết phỗng tay trên, chúng trẻ tuổi hơn, sức lực đều là của trâu tơ dậy mẩy, chúng giàu tiền và phóng túng hơn, một đứa bán gia tài ông cha để lại lấy tiền nuôi gái, một đứa ăn cắp lúa bồ và lúa đong từng ghe chài một, hai thằng phá sản, bác làm sao lại chúng? Cô Tư Ăng lê, vì trước có chồng là người Hồng mao tóc đỏ, báo Tiếng Dội để tránh phiền phức, gọi cô là Tư Lê và bỏ dấu sai, đọc là Tu Lê, thì cháu biết đường đâu mà rờ! Mấy hàng nầy nếu lọt dưới mắt bác lúc còn sanh tiền, ắt cháu không trông gì trở lại góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân, mỗi lần bác tổ chức tiệc và yến.

Nhưng nay bác đã nằm yên một giấc ngàn thu, Trà cũng đã ra người thiên cổ, bác giận cháu làm chi và hãy để cho cháu viết, không phải để cười bác đâu, ai dám, sự thật là để cho nhiều người biết tấm lòng của bác, đáng làm gương cho những ai đã có hiền thê tại nhà mà còn chưa chừa tánh tham muốn “kim ốc trữ chi”? Nhà cô Tư Ăng lê lúc đó ở có lẽ đường Richaud, sao “động ô” bác dọn riêng cho Trà một căn phố trệt góc Richaud và Lareynière, còn cô Tư Ăng lê dọn về đường Trương Định (nay) và vẫn chứa bài cóc ken, nên Tuyết, khi chúng cháu dọn về đường Taberd, Tuyết thường đến nhà cô Tư Lê xạc bài cào hoặc đổ con mèo, mà bây giờ cháu mới truy ra manh mối, cái tật ăn không ngồi rồi, đàn bà chị nào như chị nấy, không cầm lá bài, không lấy tiền chồng nuôi me ngồi me đứng thì đâu có ra nông nỗi bác bị cắm sừng mà cháu cũng mọc sừng!

Bác gái luôn luôn nói nói cười cười và Trà, vẫn yêu vì kính nể kiêng dè bác trai bác gái như hai lượng cả thường được che chở bao dung và có lẽ vì thấy chặt chịa quá khó nuốt trôi, nên Trà mới nửa đường thay gánh! Cháu há dám bàn mô ranh với bác, chớ gái như Trà, họ muốn đổi làm vai đàn ông để có chồng bé chồng xơ cua, chớ đâu khứng phu xưởng phụ tuỳ, bỏ tiền nuôi chúng chỉ mất tiền thêm đeo sầu thảm. Cháu muốn học gương bác mà không học được. Cháu cũng vì tỵ hiềm mình đi trễ tàu, và Trà cơm đen nặng quá, nếu không thì cháu đã lỗi với bác nhiều nhiều. Cháu mới nghe có người vừa rỉ tai với cháu rằng Trà thất thân để cho “cây cột cháy” Amadou nó xúc phạm, nhưng cháu đã cải chính tin vịt và bịa đặt nầy vì cháu biết dư thằng hắc quảy ấy, lúc cháu ở đường d’Espagne, mỗi tháng đến ngày lính sơn đá xuất thành, thằng đen nầy đi tìm gái thì bao nhiêu em nuôi của động Giác đôn hẻm d’Espagne đều bỏ ổ tìm đường chạy trốn vì thằng dịch vật này tay dài như tay vượn nên đã từng cho đo ván võ sĩ Ba lan Pzysko tại võ đài Charner năm nọ, cặp giò dài fến yên xe đạp tháp cao thêm hai ba tấc mà chơn nó còn phết đất sà sà. Đã biết như vậy, tôi quả quyết, một người mình hạc xương mai như Trà, lại nữa là chủ mướn “cột nhà cháy” làm “gác cửa” nơi nguyệt tiên cũng sẽ nói sau nầy, dại gì thử lửa cho phỏng tay và hết xài trọn kiếp!

Thuở ấy, lối 1925, bọn võ sĩ ngoài việc lên vô đài kiếm tiền xúp, đều sính tài làm hộ vệ vai vế cho các cậu công tử để kiếm chác thêm: như Antoine Cường cho cô Ba Pho, Puncher manh lai Tàu, Kid Demsey cho cậu Tư Phước (Georges) và Batandier, lính Tây thành Ilè R.I.C. làm bộ hạ cho Ba Qui, v.v...

Bác tôi, phong lưu rất mực, trước khi chịu phép vì quá già đành viết sách (thành ngữ điển tích, sách dạy làm thi, v.v...) lúc thanh xuân ngày chúa nhật cũng như ngày lễ, không cho xe lửa đụng nhau (chơi bài chemin de fer), thì cũng tứ sắc và chơi có điều lệ đành rành, hoặc thiên cửu (thín cẩu) hoặc xì phè và me (vì me mà quen Tư Ăng lê, Ba Trà, Ba Huy, Sáu Nhiều, Sáu Ngọ, v.v... Các bác sĩ lục tỉnh, cỡ thầy thuốc Ngỡi, trường tiền Mỹ, vân vân đều có ký quĩ không bao giờ lãnh nơi nhà bác tôi bộn bộn).

Ăn nói có duyên, mặt hồng hào, cử chỉ hoà hoãn, chết không tai tiếng, ở với Trà như bát nước đầy, khi chia tay không một lời nặng nhẹ, Trà luôn luôn nể đôi vợ chồng nầy, vào ngạch bác sĩ ngang hàng với Pháp đầu tiên, mề đay điều, mà không nhập tịch Pháp, kể là mọt nhơn vật là trong Nam cũng xứng. Hiềm vì không con nối hậu, khi nằm xuống, tủ sách toàn sách xưa sách quí, cũng không còn, đáng tiếc vậy thay! Chỗ nhà cũ sau dinh Tổng thống nay đã xây lầu, đi ngang vẫn ngùi ngùi nbở cuộc biến thiên mau quá!

32.: Gặp ông Diên Hương.

Con người ta lúc nhục lúc vinh không mấy hồi, và suốt một đời thi đậu có vợ sanh con nên nhà, nên cửa rồi “hoàn cốt khỉ” phủi tay sạch không, chỉ trong giấc mộng, gọi là mộng cháo kê cháo ngô gì cũng được. Xét cho cô Ba Trà: 9 tuổi chưa đi học, 14 tuổi bán cho Tây y sĩ mua làm vật tiêu khiển nhục dục, 15 tuổi lấy thằng chồng ích kỷ, lận đận lao đao đến năm 17 tuổi sống tạm bợ giữa hai chữ “hiếu với mẹ”, “trung trinh với chồng”, bỗng bước sang tuổi mười tám, tung hoành một cõi, “vảy may” ấy nhờ ai?

Nhờ một ông lương y giàu, trước học trường thuốc Hà nội, bổ làm lương y phụ tá (médecin aưxiliaire) ở nhà thương cấp cứu đô thành Pháp gọi là Clinique Hui Bon Hoa (vì ông nầy ra tiền xây cất và xưa chức bác sĩ chỉ dành cho thầy thuốc Lang sa mà thôi). Lương y nầy giầu tiền, lại giàu tình, và khi gặp được cô Ba, ông cưng chỉ thiếu đúc nhà vàng để chứa. Lương y vừa là thi sĩ, bút hiệu là Diên Lương, tôi không hài tên mà nhiều người vẫn biết. Ông đã mất năm 1963 (còn cô Ba mất năm nào, tôi hỏi chưa ra), nhà ông trước khi dời về Đà Lạt, ở ngay góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân và người đàn bà ông ký thác giữ chừng cô Ba là bà Tư Lê, bà nầy tốt lòng thì có thật mà có tật ưa chơi me, và cũng vì ở chung bà nầy mà cô Ba lây tật chơi me, chơi cho đổ quán xiêu đình, chơi cho ngả luôn gia tài công tử và cho sập thần vì chính phủ đô hộ Pháp!

33. Nhớ bác Diên Hương

Nhớ bác hôm nay là quá muộn màng, nhưng lòng thành kính của cháu đối với bác luôn luôn không đổi. Sở dĩ xưng hô làm vậy, tuy về tuổi bác lớn hơn độ mươi ngoài hai mươi, là vì bác là người đã chứng kiến sự chào đời tại nhà thương Sốc Trăng của Tuyết người bạn mười chín năm chung sống và nay đã đường ai nấy đi, tuy dầu sao tơ lòng còn vưởng vít chưa quên. Năm cháu còn mãi ở tận Paris để học hỏi về khoa khảo cổ, hay tin bác mất trên giường bịnh dưỡng đường Grall, thi hài (ngày từ trần 10 Mai, 1963) chở lên an táng trên cao nguyên Đà Lạt là nơi bác lựa, nhưng mỗi người mỗi số kiếp, vừa hương bát nước ai lo, và người dưỡng nữ duy nhứt của hai bác đã bay về Pháp địa, ai ở bên nầy coi sóc hai nấm mồ, có lẽ lạnh lắm trên đất xa lạ và nay ít người lên tới: Đà Lạt. Nếu bác sống đến giờ nầy mới lâm chung, thì bác cũng khổ với phong tục mới: hoả táng để tay gói tay xách dễ mang theo ra nước ngoài. Trừ cái việc nằm lẻ loi trên xứ lạnh, bác là người hưởng đầy đủ nhứt trên đời nầy. Trẻ tuổi thi đậu sớm, bác là người sớm được học khoá nhứt nhì trường thuốc Hà nội, bác coi sóc sanh cô Tư Tuyết năm 1912 thì cháu còn học lớp tư lớp ba trường tỉnh, còn nhớ một buổi trưa chúa nhựt, cháu cùng chúng bạn, hái xoài chua sân toà và uống nước lạnh trong lu bố thí ngoài đường, bị bác lúc ấy đổi về dưỡng đường Sốc Trăng ngồi xe kéo đi ngang bắt gặp dạy rằng không nên uống nước ấy, vì nước không tinh khiết, chứa nhiều vi trùng bịnh thổ tả. Chúng cháu sợ, bỏ chạy và nhớ danh bác từ ấy là “thầy thuốc Trần Ngọc Án”. Lớn lên, có đôi bạn, đổi về Sài Gòn lối 1942-43, phố ở ngang nhà bác đường Aviateur Garros, nào dám nhắc chuyện xưa uống nước lu ngoài đường mà chưa chết và ăn toàn xoài sống mà không sao? Sau nầy trở vô lâm ăn tiền ngay nơi viện bảo tàng trong vườn bách thảo, thỉnh thoảng vẫn được bác không quên và mời cùng bạn mới, Năm Sa Đéc, dự nhiều bữa tiệc, khi ăn lục tuần bác gái (bà Song Thanh), khi khác ăn thất tuần của bác, lúc ấy hai bác vẫn hồng hào tươi tắn, nào hay đâu ăn sung mặc sướng như vậy mà phút chốc đều ra người thiên cổ, té ra phải ăn cực sống khổ mới là sống dai như hai đứa nầy hay sao? Cái gì bác cũng hưởng nước nhứt? Ba Trà, nói ra cho đúng một phần nào nhờ bác lăng xê. Trong mấy trang trước cháu viết Ba Trà ngồi độc chiếc trên xe hơi có hai tài xế mặc đồng phục, ấy là cháu nói hở, lấy đuôi làm đầu, kỳ trung lúc ngồi xe có tài xế phụ là sau nầy khi Trà trúng me, chọn Thìn làm chồng, còn lúc chiều chiều Trà ngồi xe “nhạn” trên đường phố Sài Gòn là ngồi xe của bác, khi cu ky khi có bác ngồi song song, và cháu dám trách bác, có của quí không giấu trong nhà lại lộ liễu đem khoe trước mắt cả trăm ngàn người, thảo nào hai dê một non một xờm, Tư Phước, Ba Huy, chẳng cuỗm của bác, thì ai vô đây mà cấm cản.

Hay là nhà đã sẵn người ngọc, bác gái của cháu hèn hỏi gì, thêm giỏi thi thơ giỏi tề gia nội trợ, bác đành gởi Trà cho cô Tư Ăng lê giữ than ôi? “Gởi trứng cho ác” thì làm sao trứng khỏi bị ăn xén ăn xớt phần nào, hai bợm bãi Phước và Huy, chúng trút lọp quyết phỗng tay trên, chúng trẻ tuổi hơn, sức lực đều là của trâu tơ dậy mẩy, chúng giàu tiền và phóng túng hơn, một đứa bán gia tài ông cha để lại lấy tiền nuôi gái, một đứa ăn cắp lúa bồ và lúa đong từng ghe chài một, hai thằng phá sản, bác làm sao lại chúng? Cô Tư Ăng lê, vì trước có chồng là người Hồng mao tóc đỏ, báo Tiếng Dội để tránh phiền phức, gọi cô là Tư Lê và bỏ dấu sai, đọc là Tu Lê, thì cháu biết đường đâu mà rờ! Mấy hàng nầy nếu lọt dưới mắt bác lúc còn sanh tiền, ắt cháu không trông gì trở lại góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân, mỗi lần bác tổ chức tiệc và yến.

Nhưng nay bác đã nằm yên một giấc ngàn thu, Trà cũng đã ra người thiên cổ, bác giận cháu làm chi và hãy để cho cháu viết, không phải để cười bác đâu, ai dám, sự thật là để cho nhiều người biết tấm lòng của bác, đáng làm gương cho những ai đã có hiền thê tại nhà mà còn chưa chừa tánh tham muốn “kim ốc trữ chi”? Nhà cô Tư Ăng lê lúc đó ở có lẽ đường Richaud, sao “động ô” bác dọn riêng cho Trà một căn phố trệt góc Richaud và Lareynière, còn cô Tư Ăng lê dọn về đường Trương Định (nay) và vẫn chứa bài cóc ken, nên Tuyết, khi chúng cháu dọn về đường Taberd, Tuyết thường đến nhà cô Tư Lê xạc bài cào hoặc đổ con mèo, mà bây giờ cháu mới truy ra manh mối, cái tật ăn không ngồi rồi, đàn bà chị nào như chị nấy, không cầm lá bài, không lấy tiền chồng nuôi me ngồi me đứng thì đâu có ra nông nỗi bác bị cắm sừng mà cháu cũng mọc sừng!

Bác gái luôn luôn nói nói cười cười và Trà, vẫn yêu vì kính nể kiêng dè bác trai bác gái như hai lượng cả thường được che chở bao dung và có lẽ vì thấy chặt chịa quá khó nuốt trôi, nên Trà mới nửa đường thay gánh! Cháu há dám bàn mô ranh với bác, chớ gái như Trà, họ muốn đổi làm vai đàn ông để có chồng bé chồng xơ cua, chớ đâu khứng phu xưởng phụ tuỳ, bỏ tiền nuôi chúng chỉ mất tiền thêm đeo sầu thảm. Cháu muốn học gương bác mà không học được. Cháu cũng vì tỵ hiềm mình đi trễ tàu, và Trà cơm đen nặng quá, nếu không thì cháu đã lỗi với bác nhiều nhiều. Cháu mới nghe có người vừa rỉ tai với cháu rằng Trà thất thân để cho “cây cột cháy” Amadou nó xúc phạm, nhưng cháu đã cải chính tin vịt và bịa đặt nầy vì cháu biết dư thằng hắc quảy ấy, lúc cháu ở đường d’Espagne, mỗi tháng đến ngày lính sơn đá xuất thành, thằng đen nầy đi tìm gái thì bao nhiêu em nuôi của động Giác đôn hẻm d’Espagne đều bỏ ổ tìm đường chạy trốn vì thằng dịch vật này tay dài như tay vượn nên đã từng cho đo ván võ sĩ Ba lan Pzysko tại võ đài Charner năm nọ, cặp giò dài fến yên xe đạp tháp cao thêm hai ba tấc mà chơn nó còn phết đất sà sà. Đã biết như vậy, tôi quả quyết, một người mình hạc xương mai như Trà, lại nữa là chủ mướn “cột nhà cháy” làm “gác cửa” nơi nguyệt tiên cũng sẽ nói sau nầy, dại gì thử lửa cho phỏng tay và hết xài trọn kiếp!

Thuở ấy, lối 1925, bọn võ sĩ ngoài việc lên vô đài kiếm tiền xúp, đều sính tài làm hộ vệ vai vế cho các cậu công tử để kiếm chác thêm: như Antoine Cường cho cô Ba Pho, Puncher manh lai Tàu, Kid Demsey cho cậu Tư Phước (Georges) và Batandier, lính Tây thành Ilè R.I.C. làm bộ hạ cho Ba Qui, v.v...

Bác tôi, phong lưu rất mực, trước khi chịu phép vì quá già đành viết sách (thành ngữ điển tích, sách dạy làm thi, v.v...) lúc thanh xuân ngày chúa nhật cũng như ngày lễ, không cho xe lửa đụng nhau (chơi bài chemin de fer), thì cũng tứ sắc và chơi có điều lệ đành rành, hoặc thiên cửu (thín cẩu) hoặc xì phè và me (vì me mà quen Tư Ăng lê, Ba Trà, Ba Huy, Sáu Nhiều, Sáu Ngọ, v.v... Các bác sĩ lục tỉnh, cỡ thầy thuốc Ngỡi, trường tiền Mỹ, vân vân đều có ký quĩ không bao giờ lãnh nơi nhà bác tôi bộn bộn).

Ăn nói có duyên, mặt hồng hào, cử chỉ hoà hoãn, chết không tai tiếng, ở với Trà như bát nước đầy, khi chia tay không một lời nặng nhẹ, Trà luôn luôn nể đôi vợ chồng nầy, vào ngạch bác sĩ ngang hàng với Pháp đầu tiên, mề đay điều, mà không nhập tịch Pháp, kể là mọt nhơn vật là trong Nam cũng xứng. Hiềm vì không con nối hậu, khi nằm xuống, tủ sách toàn sách xưa sách quí, cũng không còn, đáng tiếc vậy thay! Chỗ nhà cũ sau dinh Tổng thống nay đã xây lầu, đi ngang vẫn ngùi ngùi nbở cuộc biến thiên mau quá!

33.: Nhớ bác Diên Hương

Nhớ bác hôm nay là quá muộn màng, nhưng lòng thành kính của cháu đối với bác luôn luôn không đổi. Sở dĩ xưng hô làm vậy, tuy về tuổi bác lớn hơn độ mươi ngoài hai mươi, là vì bác là người đã chứng kiến sự chào đời tại nhà thương Sốc Trăng của Tuyết người bạn mười chín năm chung sống và nay đã đường ai nấy đi, tuy dầu sao tơ lòng còn vưởng vít chưa quên. Năm cháu còn mãi ở tận Paris để học hỏi về khoa khảo cổ, hay tin bác mất trên giường bịnh dưỡng đường Grall, thi hài (ngày từ trần 10 Mai, 1963) chở lên an táng trên cao nguyên Đà Lạt là nơi bác lựa, nhưng mỗi người mỗi số kiếp, vừa hương bát nước ai lo, và người dưỡng nữ duy nhứt của hai bác đã bay về Pháp địa, ai ở bên nầy coi sóc hai nấm mồ, có lẽ lạnh lắm trên đất xa lạ và nay ít người lên tới: Đà Lạt. Nếu bác sống đến giờ nầy mới lâm chung, thì bác cũng khổ với phong tục mới: hoả táng để tay gói tay xách dễ mang theo ra nước ngoài. Trừ cái việc nằm lẻ loi trên xứ lạnh, bác là người hưởng đầy đủ nhứt trên đời nầy. Trẻ tuổi thi đậu sớm, bác là người sớm được học khoá nhứt nhì trường thuốc Hà nội, bác coi sóc sanh cô Tư Tuyết năm 1912 thì cháu còn học lớp tư lớp ba trường tỉnh, còn nhớ một buổi trưa chúa nhựt, cháu cùng chúng bạn, hái xoài chua sân toà và uống nước lạnh trong lu bố thí ngoài đường, bị bác lúc ấy đổi về dưỡng đường Sốc Trăng ngồi xe kéo đi ngang bắt gặp dạy rằng không nên uống nước ấy, vì nước không tinh khiết, chứa nhiều vi trùng bịnh thổ tả. Chúng cháu sợ, bỏ chạy và nhớ danh bác từ ấy là “thầy thuốc Trần Ngọc Án”. Lớn lên, có đôi bạn, đổi về Sài Gòn lối 1942-43, phố ở ngang nhà bác đường Aviateur Garros, nào dám nhắc chuyện xưa uống nước lu ngoài đường mà chưa chết và ăn toàn xoài sống mà không sao? Sau nầy trở vô lâm ăn tiền ngay nơi viện bảo tàng trong vườn bách thảo, thỉnh thoảng vẫn được bác không quên và mời cùng bạn mới, Năm Sa Đéc, dự nhiều bữa tiệc, khi ăn lục tuần bác gái (bà Song Thanh), khi khác ăn thất tuần của bác, lúc ấy hai bác vẫn hồng hào tươi tắn, nào hay đâu ăn sung mặc sướng như vậy mà phút chốc đều ra người thiên cổ, té ra phải ăn cực sống khổ mới là sống dai như hai đứa nầy hay sao? Cái gì bác cũng hưởng nước nhứt? Ba Trà, nói ra cho đúng một phần nào nhờ bác lăng xê. Trong mấy trang trước cháu viết Ba Trà ngồi độc chiếc trên xe hơi có hai tài xế mặc đồng phục, ấy là cháu nói hở, lấy đuôi làm đầu, kỳ trung lúc ngồi xe có tài xế phụ là sau nầy khi Trà trúng me, chọn Thìn làm chồng, còn lúc chiều chiều Trà ngồi xe “nhạn” trên đường phố Sài Gòn là ngồi xe của bác, khi cu ky khi có bác ngồi song song, và cháu dám trách bác, có của quí không giấu trong nhà lại lộ liễu đem khoe trước mắt cả trăm ngàn người, thảo nào hai dê một non một xờm, Tư Phước, Ba Huy, chẳng cuỗm của bác, thì ai vô đây mà cấm cản.

Hay là nhà đã sẵn người ngọc, bác gái của cháu hèn hỏi gì, thêm giỏi thi thơ giỏi tề gia nội trợ, bác đành gởi Trà cho cô Tư Ăng lê giữ than ôi? “Gởi trứng cho ác” thì làm sao trứng khỏi bị ăn xén ăn xớt phần nào, hai bợm bãi Phước và Huy, chúng trút lọp quyết phỗng tay trên, chúng trẻ tuổi hơn, sức lực đều là của trâu tơ dậy mẩy, chúng giàu tiền và phóng túng hơn, một đứa bán gia tài ông cha để lại lấy tiền nuôi gái, một đứa ăn cắp lúa bồ và lúa đong từng ghe chài một, hai thằng phá sản, bác làm sao lại chúng? Cô Tư Ăng lê, vì trước có chồng là người Hồng mao tóc đỏ, báo Tiếng Dội để tránh phiền phức, gọi cô là Tư Lê và bỏ dấu sai, đọc là Tu Lê, thì cháu biết đường đâu mà rờ! Mấy hàng nầy nếu lọt dưới mắt bác lúc còn sanh tiền, ắt cháu không trông gì trở lại góc đường Nguyễn Du và Thủ Khoa Huân, mỗi lần bác tổ chức tiệc và yến.

Nhưng nay bác đã nằm yên một giấc ngàn thu, Trà cũng đã ra người thiên cổ, bác giận cháu làm chi và hãy để cho cháu viết, không phải để cười bác đâu, ai dám, sự thật là để cho nhiều người biết tấm lòng của bác, đáng làm gương cho những ai đã có hiền thê tại nhà mà còn chưa chừa tánh tham muốn “kim ốc trữ chi”? Nhà cô Tư Ăng lê lúc đó ở có lẽ đường Richaud, sao “động ô” bác dọn riêng cho Trà một căn phố trệt góc Richaud và Lareynière, còn cô Tư Ăng lê dọn về đường Trương Định (nay) và vẫn chứa bài cóc ken, nên Tuyết, khi chúng cháu dọn về đường Taberd, Tuyết thường đến nhà cô Tư Lê xạc bài cào hoặc đổ con mèo, mà bây giờ cháu mới truy ra manh mối, cái tật ăn không ngồi rồi, đàn bà chị nào như chị nấy, không cầm lá bài, không lấy tiền chồng nuôi me ngồi me đứng thì đâu có ra nông nỗi bác bị cắm sừng mà cháu cũng mọc sừng!

Bác gái luôn luôn nói nói cười cười và Trà, vẫn yêu vì kính nể kiêng dè bác trai bác gái như hai lượng cả thường được che chở bao dung và có lẽ vì thấy chặt chịa quá khó nuốt trôi, nên Trà mới nửa đường thay gánh! Cháu há dám bàn mô ranh với bác, chớ gái như Trà, họ muốn đổi làm vai đàn ông để có chồng bé chồng xơ cua, chớ đâu khứng phu xưởng phụ tuỳ, bỏ tiền nuôi chúng chỉ mất tiền thêm đeo sầu thảm. Cháu muốn học gương bác mà không học được. Cháu cũng vì tỵ hiềm mình đi trễ tàu, và Trà cơm đen nặng quá, nếu không thì cháu đã lỗi với bác nhiều nhiều. Cháu mới nghe có người vừa rỉ tai với cháu rằng Trà thất thân để cho “cây cột cháy” Amadou nó xúc phạm, nhưng cháu đã cải chính tin vịt và bịa đặt nầy vì cháu biết dư thằng hắc quảy ấy, lúc cháu ở đường d’Espagne, mỗi tháng đến ngày lính sơn đá xuất thành, thằng đen nầy đi tìm gái thì bao nhiêu em nuôi của động Giác đôn hẻm d’Espagne đều bỏ ổ tìm đường chạy trốn vì thằng dịch vật này tay dài như tay vượn nên đã từng cho đo ván võ sĩ Ba lan Pzysko tại võ đài Charner năm nọ, cặp giò dài fến yên xe đạp tháp cao thêm hai ba tấc mà chơn nó còn phết đất sà sà. Đã biết như vậy, tôi quả quyết, một người mình hạc xương mai như Trà, lại nữa là chủ mướn “cột nhà cháy” làm “gác cửa” nơi nguyệt tiên cũng sẽ nói sau nầy, dại gì thử lửa cho phỏng tay và hết xài trọn kiếp!

Thuở ấy, lối 1925, bọn võ sĩ ngoài việc lên vô đài kiếm tiền xúp, đều sính tài làm hộ vệ vai vế cho các cậu công tử để kiếm chác thêm: như Antoine Cường cho cô Ba Pho, Puncher manh lai Tàu, Kid Demsey cho cậu Tư Phước (Georges) và Batandier, lính Tây thành Ilè R.I.C. làm bộ hạ cho Ba Qui, v.v...

Bác tôi, phong lưu rất mực, trước khi chịu phép vì quá già đành viết sách (thành ngữ điển tích, sách dạy làm thi, v.v...) lúc thanh xuân ngày chúa nhật cũng như ngày lễ, không cho xe lửa đụng nhau (chơi bài chemin de fer), thì cũng tứ sắc và chơi có điều lệ đành rành, hoặc thiên cửu (thín cẩu) hoặc xì phè và me (vì me mà quen Tư Ăng lê, Ba Trà, Ba Huy, Sáu Nhiều, Sáu Ngọ, v.v... Các bác sĩ lục tỉnh, cỡ thầy thuốc Ngỡi, trường tiền Mỹ, vân vân đều có ký quĩ không bao giờ lãnh nơi nhà bác tôi bộn bộn).

Ăn nói có duyên, mặt hồng hào, cử chỉ hoà hoãn, chết không tai tiếng, ở với Trà như bát nước đầy, khi chia tay không một lời nặng nhẹ, Trà luôn luôn nể đôi vợ chồng nầy, vào ngạch bác sĩ ngang hàng với Pháp đầu tiên, mề đay điều, mà không nhập tịch Pháp, kể là mọt nhơn vật là trong Nam cũng xứng. Hiềm vì không con nối hậu, khi nằm xuống, tủ sách toàn sách xưa sách quí, cũng không còn, đáng tiếc vậy thay! Chỗ nhà cũ sau dinh Tổng thống nay đã xây lầu, đi ngang vẫn ngùi ngùi nbở cuộc biến thiên mau quá!

34.: Nhớ Georges Lê Văn Phước

Không xứ nào nhiều quan liêu cho bằng xứ Huế: không phò mã đô uý thì cũng Hường nầy Hường kia, cùng cực cũng phải mua chức Nghè (tuy không từng đi thi), chức Khoá (tuy chưa biết thế nào là trường ốc), và tệ lắm cũng có chức “ấm” để dễ bề xưng hô.

Trái lại trong Nam, không xứ nào có nhiều đốc phủ sứ thiệt thọ về hưu hoặc đốc phủ sứ danh dự mà tục gọi “hàm” (tuồng của Lê Hoài Nở: quan Huyện hàm hàm, vị răng rụng sạch chỉ còn hai cái hàm trơ trơ, nên cũng gọi tri huyện Mâchoire: tri huyện hàm hàm hay hàm tri huyện danh dự tuy vẫn là “huyện móc (ưa móc ưa khều gái tân), huyện móm (vì mất răng trọn bộ), huyện nói, vì mỗi lần chơi bài ưu lo le cái bóp lớn bằng chiếc nóp của bạn ghe chài.

Ông đốc phủ cho con trai là Lê Văn Phước sang Pháp du học và cho một em của người thiếp theo hầu cậu và học ké. Người nầy cần mẫn chăm học, chẳng mấy năm đậu bằng tú tài Pháp, trở về xứ được tuyển làm commis lên lần tới tuyệt đích đốc phủ sứ, những năm lộn xộn trong nước ông sớm lánh nạn bên Pháp và đã từ trần. Con trai quan đốc phủ chẳng học hành gì nên thân, quan giận bắt về, và đe dạy con chuộc tội bê tha, bắt con phải gánh hồ cho thợ xây nhà, nhưng thay vì ăn năn người con tức giận, sau quan mất, người con ăn chơi phóng túng. Lúc ấy có phong trào tập ca tập hát lập gánh cải lương ở Mỹ Tho, nói chí đáng, cậu (bây giờ được các bạn tôn làm cậu) cậu bụng dạ rất rộng rãi và dối xử với bọn nghèo đã không khinh khi mà còn giúp đỡ nhiều bề. Thiếu nón đội, cậu cho, đến nón Fléchet mới và đắt tiền cậu không tiếc, thiếu tiền xài, cậu giúp, và khi gánh hát diễn tuồng trên sân khấu, cậu cho mượn bộ ghế sa lon của cha để lại và diễn xong cậu không đòi lại và chẳng bao nhiêu năm ruộng vườn nhà cửa đều theo ngón hào hiệp của cậu mà bay tứ tán... Cậu chỉ được danh là dám ăn dám xài, cậu trắng trẻo thanh bai, được giới phong lưu tặng mỹ danh “Bạch công tử” cậu có một tiểu tật ít người để ý là có vảy cá một mắt (không nhớ mắt nào), ngoài ra ăn nói nhỏ nhẹ thanh nhã, đẹp trai, (trong Nam gọi lịch sự trai), gái nào gần cũng thích và cậu có nhơn tình rất nhiều, phần đông trong giới ca kịch, khi cậu mất chỉ để lại một gái tên Ly Ly, là kỷ niệm với danh ca Sáu Ngọc Sương đã nói nơi đoạn trước.

Lúc ấy chưa dùng danh từ Hậu giang và Tiền giang nên nay chỉ còn nhắc danh Bạch công tử hay cậu Tư Phước Georges.

35.: Hắc công tử (cậu Ba Bạc Liêu thay vì công tử Hậu giang, tộc danh là Qui)

Ông nầy lớn tuổi hơn Georges, uy danh kém hơn Bạch công tử, vì ăn nói hơi khinh người, ưa “mầy tao mi tớ” duy xài tiền thì “cảng” không thua. Ghe cảng là ghe đi biển, ăn xài cảng là ăn xài lớn. Cậu ta là người xứ cá mặn, tôm khô, ruộng muối, da cậu ngâm ngâm đen, hình thù vằm vỡ to xương, y như con gà cù lự chuyên đá đòn, bình thường cậu thích xe sport, mắt kiếng đen gọng đồi mồi to, cổ quấn khăn lông thứ người Âu châu dùng trong nhà tắm, mình mặc áo thun thể thao dày, khi nào bước xuống xe mới cặp nách thêm một cái áo nỉ sport mà ít khi choàng vào hai vai, khiêu vũ có điệu vào sòng bạc dám ăn thua bạc ngàn bạc muôn, chữa me cho cậu chơi mới thấy tiền lâu to tác, bữa me nào xui, có thân phụ cậu lẹp xẹp dưới lầu bước lên, cậu chuồn cửa sau mất dạng, thì bữa ấy chết cha tiền xâu, chủ chứa lỗ nặng vì ông hội đồng quản hạt kiệm hội đồng cố vấn thời Pháp thuộc, (huý là Trạch) chỉ chuyên đánh nhỏ, ăn thua ít ít đủ mua vui, một đêm me có cậu dự, xâu lên đến bạc ngàn, một đêm có ông hội đồng vừa giúp xâu chưa tới bạc trăm, và các tay khác cũng rút lui sớm, chủ chứa lỗ tiền hồ là vì vậy, trở lại nghề lái xe, hễ cậu ngồi vào cầm volant thì chạy hết tốc lực, trừ khi cậu đi với “bồ” ngồi băng sau thì cũng phải biết ý cậu, bác tài phải đường trường không cho xe nào qua mặt, và xe của cậu, thứ tám máy (huit cylindres) là để được có tiếng có xe hạng chiếng chớ tánh tình y như trong “Năm chục năm mê hát” đã tả, mất một tờ giấy năm đồng nơi rạp hát, cậu bỏ coi diễn để lo mò kiếm “tờ giấy bạc con công” (5$00), trong khi Bạch công tử ngồi kế bên, hay được Hắc công tử kiếm tờ năm đồng, Georges miệng cười hề hề, tay móc túi đốt tờ giấy hai chục (20$00) dùng làm đuốc rọi... Tư Phước ngọt với em út bao nhiêu thì cậu Ba cũng ngọt với bồ bịch bấy nhiêu, duy “chiến lược” mỗi chàng mỗi khác. Phước chuộng người phải cho đẹp, cậu Ba chọn người phải cho “ngon”, phần đông tuyển trong hàng gái vườn, tập khiêu vũ chơn chưa rửa sạch phèn. Cậu Tư cho tiền không bao giờ lấy lại. Cậu Ba lúc gặp buổi đầu, thường dắt bồ lên lầu hãng Chamer tha hồ lựa nước hoa đắt tiền, phấn son mua bao nhiêu cũng được, gặp cô nào biết nghề già giặn, kéo cậu lại nhà bán kim cương Giuntoli, lựa mua cậu cũng không từ chối, nhưng khi cậu chán chê thì cậu giờ ngón đểu, giả đò thua me, mượn cầm đỡ vào tiệm mà không bao giờ chuộc lại và cậu cũng lánh mặt luôn với chiếc xe chạy ngày mấy trăm cây số ngàn, có giỏi lội bộ theo mà bắt? Lỡ khóc lỡ cười, gái nào biết khôn thì vơ vét cho đã và sớm phải học thuộc bài “tẩu mã”. Vỏ quít dày, móng tay nhọn!

Một hôm tôi nghe cậu Ba phân trần với ông Kính: “Mình lâu ngày kiếm cho ổng một “con mèo” cho ổng vui, không dè ổng bị bà ấy làm cho ông suyễn luôn trót tháng, tưởng đã không xong? (Ôi tình cha con trong giới nhà giàu!) câu nầy dùng hạ màn tả hình dạng cậu Ba. Hết đảo chánh qua phong trào xôi thịt, mãi về lâu, Tư Phước hết tiền, chết trước, cậu Ba còn tồn tại sau trào Diệm vẫn còn...

* * *

Một ông trưởng giả sắm một cảnh hoa viên phụ để thỉnh thoảng vào vườn hái trái, bỗng bị hai bợm hái trộm đào non, nói cách khác bác thầy thuốc vì gởi cục cưng nhà ra vô cờ bạc, bị hai đứa nó chơi lú lận, lén chớ nàng xinh tốt kia đi một vòng xuống Hậu giang... Hết sức bị một mụ tú đầm lai dụ dỗ mời về nhà hơn ở nhà má Tư Ăng lê, Trà về học lại má, hai người đấu khẩu đến sanh giận hờn, bác thầy thuốc hay được mới dọn phố riêng đường Richaud gần đường Lareynière cho Trà về ở, nhưng ở chưa lâu đã bị hai công tử đứa đốc, đứa lói, đứa xúi giục, đứa mời mọc, cùng nhau bộ ba đưa nhau xuống miền Tây kiếm me vườn để gỡ gạt, cô nghe ham, nhưng me đâu không thấy chỉ thấy hai cậu trổ tài hào hoa phong nhã, mướn phòng khách sạn Bangalow đánh bài tay ba, chia xong dành nhau chung tiền, cô Ba gom tiền không hết, nhưng đụng chạm nói chơi thì có mà không có chuyện kia, vì mãng kỳ đà vần công, cả hai đều tốn tiền để ăn trét!

Cô Ba chuyến về có tiền xọc xạch trong túi, sắm thêm bàn ghế, tuy chưa hề bị ai nhám hiểm” nhưng bác thầy sanh nghi.

Đến đây là một khúc quanh gay cấn: ghen thì đổ vỡ, chặt quá thì đứt dây, lỏng quá thì bị trút lọp, lấy xâu thêm tức. Con lừa của lão Buridan đứng giữa thùng nước và thùng thóc, thì phân vân lưỡng ước, khát cũng có mà uống làm sao nhơi thóc, nhược bằng xơi thóc thì uổng thùng nước ngon lành, bộ ba nầy cũng vậy: cô Ba thấy đức ông chồng quá biết điều, cô Ba thêm kính, nhưng thèm thuồng tự do giữa Georges xứng đào xứng kép vì “anh ta” quá đắt mèo, vì cậu Ba tuy đen đúa mà nghe nói bồ lúa no lắm tràn trề đến xúm nhau moi móc mà cha hiền không hay hoặc hay mà không nói, vì rầy la, cậu Ba khai thiệt số nợ thâm thủng càng thất công “bán lúa trả” thà để nó lắm lét sợ tránh mặt mình mà ít tốn hơn. Giữa lúc ấy, Tư Phước không ham me bài nên bỏ lảng đay qua đào biết ca êm tài thêm sắc đẹp có thua gì cô Ba, còn cậu Ba vì nóng tánh, đeo theo hoa, bị gai cho trầy trụa khá bộn mà chưa được chấm mút mật ngon nào nên cũng bớt hăng hái. Gay cấn và khó xử nhứt là bác tôi, như đã nói “già néo thì đứt dây”, nhưng lúc ở nhà bị tiếng bấc tiếng chì, nhẹ thôi của bác gái, cũng lâu ngày sanh bực, một hôm bác tôi dỗ ngọt em cưng: và hai người nói với nhau như đánh dây thép:

- Ba tuần nay không thấy mặt em ở nhà dì Tư (Tư Ăng lê)?

Làm thinh, không trả lời.

- Em đi đâu và ở đâu?

- Không ở đâu hết!

- Bộ em ngủ ngoại trời hay sao?

- Dạ không! Tôi ngủ tại nhà bồi của dì Tư.

- Sao anh ghé tại đó mà không thấy?

- Tại tôi dặn bồi nói như vậy!

- Vì lẽ nào em nói dối với anh?

- Vì tôi sợ người ta biết mà nom theo.

- Ai?

- Các chủ nợ?

- Em làm gì đến thiếu nợ?

- Tôi giấu anh, tôi thua me ở đường Testard và nay mắc nợ khá nhiều.

- Khá nhiều là bao nhiêu?

- Ba ngàn, ủa bốn ngàn.

- Em trốn chủ nợ rồi trốn anh nữa hay sao? Hay là em có mèo? Em lỡ thương ai, cứ nói thiệt cho anh biết đi.

- Tôi buồn, tôi có đi chơi với họ, mà tôi không thương ai hết!

(Một câu quá trống trải, không thương luôn bác tôi hay sao?)

Nhưng sự thật, bao nhiêu gái buổi đầu lỡ chơn trái đều bước một thứ như nhau, làm quen với cậu Tư, cọ dĩa với Hắc công tử, nhưng lòng luôn luôn gởi đám mây Hằng, thỉnh thoảng nhớ mẹ, chập chôn nhớ chồng, người anh rộng lòng tha thứ như biển Ô Cấp, tuy chưa thương về xác thịt nhưng cảm phục về nét quân tử hải hà.

Thoạt nghe tiếng kèn ô tô ngoài cửa, bác tôi vụt nói:

- Kìa xe cậu Tư!

Vô tình cô Ba chạy ra cửa coi có quả vậy không, nếu như ai đã tam bành nổi lên, nhưng bác tôi tỉnh như trước bàn phé gay cấn, chờ cô trở vô, hỏi tỉnh bơ:

- Nếu không có tiền em làm sao? Có ở nhà không?

- Thưa không?

- Còn nếu có tiền?

- Tôi sẽ ở nhà.

Không nói gì, bác tôi từ giã ra về sau khi căn dặn cô tạm lánh mặt trong hai ngày, mà cho đến nay cô Ba nói với tôi không hiểu vì sao lại dặn lánh hai ngày, tiền nhà ông dư dật, muốn lấy bao nhiêu có sẵn, hay là để đủ ngày giờ ông quơ ở ngoài chớ không đụng chạm tủ két trong nhà, e chị lớn hay!

Và quả đúng hai ngày, ông đem ba ngàn đưa cho em càng khuyên đừng đánh bài, đừng chơi bạc nữa... nhưng con vụ đã quay thì phải lăn, lời khuyên như nước đổ vào hàng “lá môn” không thấm vào đâu, được tiền đã không trả nợ lại quyết gỡ, gỡ đâu không thấy, thấy thua sạch số tiền ba ngàn kia. Mắc nợ ba ngàn đến phải “trốn”, nay dồn dập thêm ba ngàn nầy nữa, thì còn lối thoát nào? Đến đây mới thấy cái hại của cô bạc và cái hại vì quá tin và có lòng tốt tha thứ không nhằm chỗ, nhứt là thiếu người để theo kiềm con ngựa hay chứng “ưa đâm đầu vào hàng rào”!

Chớ chi bác tôi già tay ấn, đưa nàng đi một vòng miền Trung hay lục tỉnh sau khi dứt khoát nợ nần, thì hoạ may con chim không cơ hội vẫy cánh tung bay, chớ bác quá tốt nơi dây thì con diều kia gặp gió dữ làm sao không đứt chỉ!

Trong khi đang khủng hoảng tinh thần, ma dắt lối quỷ đưa đường, không ma quỷ gì cả mà Phước Georges lù lù đem xe lại rủ đi một vòng xuống Cần Thơ ăn cá cháy.

Đi thì đi. Mặc cho con Tạo... đến đâu hay đó?

Xe chạy rồi nước mắt bỗng cầm không đậu, khóc ăn năn vì thương anh thầy quá tốt, - xin anh hỉ xả cho em phen nầy, - khóc vì hối hận sao quá xui lấy cái phản bội trả ơn một người nếu đáng trách chỉ là đã có vợ rồi! Từ buổi ấy hai người xa nhau và để kỷ niệm mối tình lỡ khóc lỡ cười, cô Ba giữ biệt hiệu, của bác thầy nhơn xem chớp bóng thấy cô đào trên màn bạc giống cô Ba bèn mượn tên Yvette gọi luôn và Yvette Trà rất xứng với Georges Phước.

Diều đứt dây, chim sổ lồng! Cô Ba từ đây bay với cánh của mình, có khác. Cặp nhơn tình vừa xuống tới quán khách Bungalow Cần Thơ, xe chưa nguội máy thì chiếc tám máy của cậu Ba cũng vừa xuống tới, cả ba nhập bọn, đôi bên cười thầm “chạy đường trời cũng không khỏi nắng”! Nắng và mưa còn dễ tránh, dễ gì thoát khỏi tay một người không biết tiếc tiền và đương ham lấy cho được người đẹp tức cậu Ba. Nhưng ái tình có nhiều cái bất ngờ. Vả lại cậu Ba muốn chưa phải lúc. Lúc đó cậu Tư Georges cung cấp cho cô Ba đầy đủ quá, không làm phật lòng một mảy mai nào thì làm sao con cá nầy ăn câu của cậu Ba cho được! Một hôm Phước lột chiếc cà rá nhận hột xoàn trị giá trên ba ngàn thời đó để trên bàn bước vô phòng tắm, bận ra thấy cô Ba đã đeo cà rá vào tay vừa cười, vừa nói:

- Anh Tư, coi vừa ngón tay em quá nè!

- Vừa thì em đeo luôn đi, anh cho em đó! (ấy tánh cậu Tư là vậy, bình sanh từ nhỏ không màng vật gì, dẫu quí đến đâu cũng thế, gặp lúc cậu hứng ai xin gì đều được toại lòng). Chuyện trở về Sài Gòn bộ ba đưa cô Trà về phố cũ của bác thầy mướn, buổi chiều là Trà đã khoe với dì Tư chiếc cà rá của cậu Georges tặng. Ít hôm sau, cậu Ba hay được vội biếu cô Ba một chiếc khác hột còn to xấp hai chiếc kim cương của Phước, nhưng cái số cô Ba không phải là tay “cầm của”, chẳng bao lâu cả hai chiếc cá rá hột xoàn đều được gởi vào tiệm cầm đồ, và có bao nhiêu tiền cô đều thua vào sòng của thầy Bảy Phương đường Testard hết ráo.

Bây giờ cái thuyết “ái tình không đi đôi với đổ bác” vẫn có người không tin rằng có thật, nhưng sự thật là cô Ba vừa cho “mò tỳ” đêm đó thì sáng ngày thua trút túi không còn một xu teng? Bởi vậy bợm cờ bạc rất sợ mèo chuột, chủ cái lập ngành thầu, rủ nhau hùn vốn hốt me, tuỳ người đẹp, nhưng đem theo để trưng chơi nhử chưng hoa kiểng và tuyệt nhiên không dám mó đến, vì sợ xui lây. Trừ khi nào đánh ăn, định nghỉ đánh mới dám “tả xíu quảy” (đả tiểu hoa) mò chút ít chớ không dám đi sâu sợ xúi quảy?

Ba Trà đạp vào vòng đổ bác, ban đầu tưởng đánh ăn để có bạc đền ơn lòng tốt dì Tư, nhưng nghề cờ bạc, xem cho cùng thua nhiều ăn ít, khi ăn thì ăn xài cho lớn, cho chác mua sắm hời hợt, bao nhiêu cũng hết, khi thua vơ vét, bán sạch không tiếc, khi trắng tay thì đã muộn rồi. Chừng nợ nần lút đầu hút cổ, dì cháu bàn bạc, mới nghĩ đến việc tìm một chỗ buôn bán cho có đồng ra đồng vào, và vì vậy mà dì Tư Ăng lê mới bày sẵn ông Lý Kỳ Quân tính sang nhà hàng bán cơm Việt ở đường d’Espagne, giữa nhà hàng Quảng Thạp bán cơm Tây và nhà hàng Cửu Long giang ở góc đường d’Espagne và Aviatsut Garros, chiều thứ bảy có đờn ca điệu tài tử nay chạy tiền “từng” nhà Đông Pháp lữ quán của họ Lý, con Ba mầy ngồi két (caisse), không lo gì khách hai nhà kia tựu sang đây “để ngó mầy”!

- Nhưng tiền đâu có mà sang mà làm vốn sau nầy?

- Thì vay bạc chà sét ty là có tiền, lo gì!

Và vài hôm sau Đông Pháp lữ quán được thay chủ mới, ông Lý Kỳ Quân lấy vốn, lỗ lã cũng bộn, lui về tỉnh nhà là Rạch Giá, trở lại nghề cũ là khẩn đất làm ruộng vùng kinh xáng mới khai rừng Phước Long, Vĩnh phú, cô Marie Huệ, ngồi kết, cũng là một tay nhan sắc đương thời nhưng đã trộng tuổi nay nhường chỗ cho Ba Trà là phải điệu. Lúc ấy tôi học còn một năm nữa là thi ra trưởng, và nhờ lấy năm nầy làm mốc mà biết được năm 1923, Đông Pháp lữ quán được dì Tư Ăng lê đứng điều khiển, cô Ba Trà đứng két.

Đó là chiêu bài chánh thức, chớ bề trong là thỉnh thoảng chứa một “sòng me chạy” mới chịu nổi với sở phí nhà nầy. Mỗi chúa nhựt tôi đã từng làm khách đến đây dùng một bữa cơm trưa, vì khi học, tôi không có người thay mặt bảo lãnh (correspondant), tôi phải nhờ bạn học ra trường đứng tờ bảo lãnh nhưng anh Từ Văn Chấn nhà quá xa, tôi thường mướn phòng khách sạn Đỗ Văn Bình đường Amiral Courbert làm nơi nghỉ chân và luôn luôn ăn cơm quán, nhưng rất vừa túi tiền, khi mua một trăn bánh hỏi thịt bò nướng gần khách sạn thì giá tiền không hơn hai cắc bạc (0$20), bữa nào cao hứng lại Đông Pháp lữ quán để ngắm hoa biết nói, thì một bữa cơm mắm ruột rau sống chỉ tốn bốn cắc (0,$40), bữa nào thịnh soạn con gà ba món hay cua xào giấm thì cũng lối bảy cắc mà bữa ấy hoặc đãi bạn hoặc bạn đãi mình, tức ăn hai đứa mới ăn hết ba món kia và một chúa nhựt xài không quá hai đồng (2$00) mà có đủ ciné trong ấy.

Lúc đó Sài Gòn trổ ngón ăn chơi, nhà Quảng Thạp là của một anh Hải Nam, trước nấu bếp cho thống đốc Cognacp, sau có vốn lập quán cơm Tây nầy là danh tiếng đang thời tôi đã nói buổi café sáng vừa bánh mì vừa bơ lạt, vừa café moka thơm ngát mà giá chỉ có hai cắc bạc, tha hồ quết bơ lên bánh mì lút bánh mà chủ nào có nói gì, nhà hàng Cửu Long Giang là nơi tựu hội các ông già viết tuần báo Nguyễn Tử Thức, Lê Sum (Trường Mậu) và Lão Ngạc Nguyễn Viên Kiều, v.v.., còn nhà Đông Pháp lữ quán từ ngày về tay cô Ba, ban ngày là quán cơm ban đêm là ổ me ổ cờ bạc và nơi tụ hội các tay ăn chơi lục tỉnh thường đến đây để gầy sòng và hút xách(1).

Nhưng như đã thành thông lệ lúc đó nảy ra một thành ngữ mới, mọc ra có mấy năm đó rồi lặn luôn không nghe nhắc tới là muốn đến Đông Pháp lữ quán nhắp một ly khai vị hay ăn sò nướng hoặc đông nướng, nhộng chiên, thường nói “Đi lại Yvette chơi!” đủ biết cái đẹp của cô Ba quyến rũ thế nào?

Sự thật cái nhà hàng Đông Pháp lữ quán đúng ra mới là cái lò đào tạo Ba Trà, từ một gái quê thiếu học, biến ra một ả tứ thời đẹp vì còn mơn mởn đào tơ, và đẹp thêm cũng nhờ tay dì Tư Ăng lê và Marie Huệ dạy cho từ cách giồi làm sao, trau trìa làm sao cho phấn hiệu nào ăn với da mặt, cây son nào ăn với làn môi, không đỏ choẹt giả tạo vì son rẻ tiền, cũng không đỏ mét vì lấy giấy bao nhang thấm ướt mượn màu hường dợt thoa môi má hồng men mét tai tái mà khoe làn thu thuỷ, nét thu ba sao được. Vì muốn đền đáp dì Tư cái ơn tái tạo sanh ấy, mà cô Ba đạp nhằm cái tật đeo theo bài bạc me sòng, và thua mãi công tử chưa thấy sự nghiệp ông cha tan tành, mà cô đã thấy tài làm đổ quán xiêu đình chỉ đem lại bản thân nợ nần lút đầu lút cổ đến sau nầy “sập tiệm”. Ăn xài huy hoát, tiền vô không đếm xiết mà tiền ra cũng tuông như cầm chĩnh mà đổ, đưa tiền mua món nào, bồi bếp đem về tiền lẻ, cô Ba không bao giờ lấy lại, hoặc nói “để đó mà xài”, tức là cho anh cho mầy luôn đó, hoặc những lúc thua thiếu, chỉ dạy bỏ vào một rổ con để gần bàn phấn, đứa nào thèm chè cháo chút đỉnh cứ lấy đó mà chi tiêu, cô không bao giờ tra hỏi cũng không nói một lời khi thấy rổ đang đầy bỗng hoá rổ không, vì tiền hoang chuột chù cứ khoét!

Tội nghiệp cho mấy tay chủ điền nửa mùa muốn học làm sang, đưa con lên Sài Gòn, chạy chọt lo lót cho con vào học trường Chasseloup khỏi thi nhập học, tức nhiên phải biết cửa mà đút sáp, khi học ban quartier européen dành cho bọn Tây lai côi cút hay cho bọn con nhà giàu gộc khách trú hay con đại điền chủ có Pháp tịch, sinh viên được ăn cơm Tây và mặc âu phục, giờ chơi cũng như giờ học phải dùng Pháp ngữ làm gốc, nhờ vậy mà mau giỏi mau rành tiếng Tây, không nữa thì xin vào học ban quartier indigène, gọi ban bổn quốc, ăn cơm Việt, được tha hồ nói tiếng mẹ đẻ nhưng thầy dạy vẫn là thầy lang sa chung cả hai ban. Nếu không xin vô trường Chasseloup được thì đóng tiền xin học nội trú trưởng nhà dòng là trường Taberd, dạy dỗ cho các thầy dòng, ép buộc kinh thánh quá nhiều và dụ dỗ hay thế nào mà anh nào vô học Taberd mười anh nhiễm đạo Gia-tô đến gần nửa chục, tuy học có kém Chasseloup nhưng số thi ra trường lại đông hơn vì ở Taberd là học gạo, còn ở Chasseloup giáo sư Pháp chuyên dạy về học thức, thể dục, âm nhạc cho ra người lịch duyệt sau nầy, còn phần hồn vẫn để tự do, ai theo đạo nấy, không ép buộc, thậm chí lối 1922-1923 giáo sư Goupillon còn lập ra phái Patronage laique, chiêu dụ sinh viên nhập phái, đóng tiền nguyệt liễm mỗi tháng sáu cắc bạc (0$60) mà ngấm ngầm là chống đạo Gia-tô. Tội nghiệp cho mấy ông đại điền chủ dắt con và đem tiền lên trên nầy lo cho con có chỗ ăn học, chuyến về nhà, con thì gởi “tại trường lớn”, nói với má bù trẻ làm vậy mà nào dám nói thật bao nhiêu tiền đem theo, lớp trả tiền mướn phòng ngủ sang trọng nơi Hôtel des Nations (lữ quán vạn quốc) cho thêm sang, đó là tiền xài chính đáng, má bù trẻ nào nói gì, duy tiền không lổ gởi vào áo túi Ba Trà, mẹ ai dám nói. Con lên đây ăn học, cha lên đây tập làm sang, tứ sắc năm cắc một lện (0$50) nếu tính ra tiền ngày nay biết là mấy trăm mấy ngàn, hoặc me hoặc bài cào, thét vô rồi cậu Năm B. chủ rạp chớp bóng ở Cần Thơ đề nghị, và có ông hội đồng Th. tỉnh Rạch giá tán thành, đánh bài chung tiền không sướng bằng đánh “tứ sắc ăn hôn”, thua thì thua thiệt có dấu hiệu Banque de l‘Indochine (ngân hàng Đông Dương), còn thắng thì được phép “hôn” mà trời đất ôi, chớ chi được hun ngay vào má cô Ba thì còn sung sướng chút nào, gần hơi hương hít hơi hương (hay hơi gì đó) tưng an ủi phần nào, đàng này lập lệ người thắng, bài ăn 7/10 thì cho hôn mo bàn tay cô Ba một cái, nhược bằng thắng lớn, ăn quan tỷ dụ 17/40 thì bốn cái hun trót trót trên da trơn trợt, hoặc đúng máu con cháu họ Bùi (Bùi Kiệm), thì được phép gởi một cái hôn lại kỳ thắng sau.

Ông hội đồng Rạch giá và cậu nhà giàu Cần Thơ ở trên nầy trót tháng, rốt lại phải từ giã cô Ba, để mạnh ai về xứ nấy, kẻ luyện phi đao, người luyện phi bạc, chỉnh tu binh mã để kỳ bãi trường tới rước con về sẽ chiến đấu tranh nhau hôn cái da non của bàn tay mềm mại của cô Ba, thành ngữ đổ quán xiêu đình, vào khoảng 1920-1945 nên đổi lại “xiêu điền nát ruộng” cũng vì đua nhau tranh tiếng hảo “có ngủ có gần cô B. người đẹp số “dách” đất Sài gòn”.

Lúc khách ở Đông Pháp lữ quán bắt đầu thưa, vì đến mùa gieo mạ các chủ điền phải rút về đốt đồng làm mùa mới, khi ấy cô Ba bèn nhớ lại người ân là bác thầy thuốc của tôi. Hai người gặp nhau, ông sẵn lòng tha thứ, con chim biết nói trở về, thì cứ mở lồng cho chim được “kim ốc trử chi”. Phen nầy bác thầy tổ chức lấy xe nhà đưa đứa em lạc đàng tắm biển để hưởng lại tuần trăng tái hợp

Tưởng đưa cưng ra Cấp để hàn gắn mối thương lòng, dở lò hương cũ, nối lại tình xưa, té ra đại thất vọng, cô Ba ra tới Ô Cấp, thấy biển xanh non thắm, bỗng vụt khóc oà, bác sĩ A. thất kinh lật đật hỏi, cô trả lời: “Tôi nhớ nhà!”

Bác sĩ hoà hưởn hỏi tiếp:

- Nhà gì? Ở đâu?

- Thú thật với anh, tôi nhớ chồng tôi lắm!

- Chồng nào nữa?

- Dạ thưa, người chồng ở Phan Rang.

- Tại sao em ra đi với anh, em lại nhớ chồng Phan Rang?

- Tại vì ra đây thấy núi thấy biển, tôi nhớ anh Toàn, chồng của em! Tôi tưởng chỉ ngoài ấy mới có núi có biến, ngờ đâu ở đây cũng có núi có biến y như ngoài ấy.

Thế là đổ vỡ. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên. Duyên em nằm trong vòng tay anh mà em mơ tưởng người khác, chi cho bằng...

Dầu tốt đến bực nào, Phật trên bàn có khi cũng phải đứng nhỏm dậy vì ngồi lâu đã mỏi? Đề huề trở lại Sài Gòn, dẹp bỏ chuyện tái trùng phùng nối lại duyên xưa. Về tới Chợ Bến Thành, ghé xe đường d’Espagne trả cô về Đông Pháp lữ quán mặc dầu trong bụng rất là không bằng lòng, bác sĩ A. dạy xe về nhà ở gần lối đó, dối với bác gái rằng biển động mưa gió lu bù, Ô Cấp lúc này ở không được nên về sớm ở nhà nghỉ khoẻ hơn.

Lên võng nằm, ôn lại chuyện cũ: tại mình quá tốt. Đi sai một nước cờ, tâm lý cao thượng quá cũng không xong. Phép nuôi chim, phải khéo giữ giữ, chẳng bao giờ để chim sút lồng. Chim sút lồng ra ngoài không khí tự do, nếm được hột trái rừng, uống được nước suối trong nguồn chảy ra, bao giờ chim ưng trở lại lồng xưa với gạo giã quá trắng mất ngon, nước cũng vậy, nước nhà máy dẫu sạch cách mấy cũng còn chút mùi khử độc, không mùi thuốc tím thì mùi canh ty dót, tức mùi nhà thương, bác sĩ A. dầu ngọt thế nào, sao bằng anh Tư G. bảnh trai hoặc sao bì anh Ba H. đen đúa thật mà lúa bồ lúa ghe chài, một người tốt thật, rộng rãi thật là ông A., nhưng quen nghề quen tật, mỗi mỗi đều đo lường, có cho thì cân đúng mấy chỉ hay là nhiểu từng giọt đếm không cho thiếu và chẳng bao giờ cho dư, sao bì hai anh hẩu tố dành (hảo đa nhơn) nầy, cà rá xoàn khen chơi một tiếng là cho luôn không tiếc.

Tử đây, con chim sống theo cánh chim tự do, thiếu chi mai mối, nào ông hội đồng xứ nước mắm nhỉ, ruộng cò bay thẳng cánh kiếng, nào anh Năm B. chủ rạp hát ở Cần Thơ, tiền xài như nước, nào Hắc công tử đang đút đơn mà mình chưa thâu nhận, nào Bạch công tử, mình chưa trả ơn nghĩa đền... Bác sĩ anh ôi, em xin chịu lỗi anh tốt với em thật, nhưng ngồi xe anh, em vẫn ngại ngại sợ ngày nào chị cả không bằng lòng, thì cơ hội tốt của em cũng qua rồi, em hối sao kịp. Bác sĩ anh ôi! Có thương thì đừng giận, nếu giận thì đã hết thương, chi cho bằng anh trả tự do cho em kiếp nầy, và nói theo truyện Tàu và theo tâm lý quân tử Tàu, anh với em, xin chớ liếp tái sanh, kết cỏ ngậm vành em sẽ trả!

Nghĩ cho cùng, việc đời đưa tới với cô Ba chớ cô nào muốn. 14 tuổi đụng thằng Tây sồn sồn, không khác hoa lan vừa chởm nở, gặp dông tố phũ phàng, may sao chàng về Tây, kế 18 tuổi gặp anh Toàn, anh cho mặc áo xẩm, lại càng thêm lạ mắt? Bơ vơ sau cơn đau mắt tưởng đến mù, vớ được ông bác sĩ biết điều, như người đang đau gặp người giỏi khoa điều trị thêm được mát tay, mặc sức đoá hoa rừng tươi thắm. Ai dạy cô đánh bạc? Dì Tư hay chính bác sĩ đã có vợ đẹp sẵn tại nhà? Nhưng từ khi lỡ tay thua sạch và sẩy chân khỏi lồng độc chiếc (lấy Tây, lấy Toàn, lấy A., đều là đánh một sức một nêu cũng gọi đánh độc chiếc), sau nầy cọ dĩa hắc bạch - nhị công tử, tập tành so sánh chơi bài tay ba, rồi đụng Năm B. Cần Thơ, hội đồng H. Rạch giá, ngồi sòng me đụng chạm nhiều tay nhiều hơi đàn ông khác, khiến nên khi chồng ơn chồng nghĩa chớ ra Vũng Tàu, cổ thèm khát tự do cỏ mượn cớ nhớ núi nhớ biển mà nhắc lại Toàn, và một một hai hai cô vẫn nài trở về Sài Gòn cho bớt nhớ. Bực quá bác tôi trả chim về ổ cũ, mặc tình nhớ cảnh nhớ rừng.

Đông Pháp lữ quán sau khi hết sức tấp nập dập dìu công tử vương tôn, đến hồi vắng khách, may sao có một chàng Huê kiều có máu Việt, ở Chợ Lớn họ Lương, làm nghề mại bản, triệu phú, ngoài gọi Lương mái chính, gặp nàng và thích ý, bằng lòng bao bọc quyết chuyện trăm năm, nhưng với điều kiện kiếm chỗ khác cho được yên tịnh để xây tổ uyên ương, chớ Đông Pháp lữ quán quá ồn ào, gần chợ gần chỗ đông người, y không muốn. Thiệt là buồn ngủ mà gặp chiếu manh, chớ Đông Pháp lữ quán đã động ổ rồi, cò bót khởi sự dòm ngó, lại nữa chủ nợ tới lui khó chịu! Nhưng chỗ tôi muốn nói là “bầu tròn ống thẳng”, cô Ba Trà là gái thiếu học, lúc thanh xuân thiệt thà như cục đất, vừa hiếu mẹ vừa biết sợ chồng, duy xấu là xã hội tập cho xấu, ở ngay ổ cờ bạc là nhà dì Tư Ăng lê, không khác cô Ba Pho bị công tử Bích dạy cho giải buồn bằng đánh me hốt cái hoặc chơi tay con, và cái bông đẹp tự nhiên từ Cần Đước dời qua Sài Gòn, chớ xuống Vĩnh Long, Cần Thơ, bắt mùi giang hồ lưu lạc, dì Tư dạy cho trang điểm, ông bác sĩ dạy cho cầm nĩa dao tay, nào xắt thịt ăn cá cơm Tây lấy xương làm sao, nhứt là tập ăn thịt bò còn máu cho thêm bổ, ban đầu cho ăn bít tết, sau cho ăn thịt bò con chiên kiểu Chateaubriand, thưởng thức biết ngon rồi, ép trở lại nếm bít tết dầu ngon cách mấy cũng chê lợm giọng, bèn giả chước nhớ nhà nhớ biển, để cho tui sống theo tui, anh à.

Dịp may, cô đi dự đám cưới của Tuyết, con của thầy Ba Kính, đến căn phố lầu mà tôi từng được ở mấy tháng và làm lễ tân hôn tại đây, cô Ba chíp bụng, nên khi ông Bô của tôi đề huề dọn xuống phố ông hội đồng Trạch 69 đường Taberd, nơi tiền hơn (80 đồng mỗi tháng), lầu 260 Richaud vừa trống, không rõ ai chỉ đường dọn nẻo, cô đến mướn (lúc chúng tôi ở là 160$ mỗi tháng và chủ phố là trưởng toà Tư ở Vĩnh long), không treo bảng hiệu không đánh trống rinh rang, nhưng đó là NGUYỆT TIÊN CUNG đã tả rồi trong báo Tiếng Dội năm 1952 và nay tôi nhắc lại:

Mấy năm sau nầy, tôi nói đây là chuyện trước năm 1975, phố xá Sài Gòn mọc lên như nấm, đẹp to cao tốt, phố cũ ví làm sao được nhưng vào năm 1928, căn 260 Richaud là xinh bực nhứt rồi. Mặt tiền độ sáu thước bề ngang, một từng lầu thôi, nhưng thênh thang chắc chắn, và bề tiện nghi, không chỗ chê, vì dài thấu ra mặt hậu là đường Colombier (nay là đường Hồ Xuân Hương), cửa sau là cửa nhà chứa xe, rồi trở lên tới nhà bồi nhà bếp, còn phía trước day mặt ra Richaud là lầu năm ngăn bảy nắp, gọi cho rôm là “Nguyệt tiên cung” nghe cho kêu, chớ thật không biết thâm ý của kiến trúc sư hay của chủ nhà thế nào, chớ nhà nầy dành chứa me đánh bài thì tuyệt diệu, vì có ngả hậu để lui binh, có thang lầu riêng biệt để khi tấn khi thối, khi xuất khi hiện, đố lính tráng nào theo kịp bước lúc có báo động Tây gọi là alerte! Tôi được ở nhà nầy mấy tháng trước khi kết hôn nơi đây với cô Tuyết, nên vẫn biết được bề trong của Nguyệt tiên cung nầy, không đến bí ẩn như Tiếng Dội từng viết, nhưng khi lọt vào tay cô Ba, ông thợ bà thợ nào đây sắp đặt thiệt là kín đáo, nhưng theo tôi, cái khéo nhứt chốn nầy là cô Ba mượn nhà nầy mà “thỉnh” cựu phu quân Toàn đến đây cho thưởng thức một đêm ở trong nguyệt mà chẳng bao giờ được gần người nguyệt và trả thù lúc trước bị hất hủi bỏ rơi, trả thù như vầy tôi cho là tuyệt khéo. Ăn năn như Toàn, ỷ y như Toàn, ao ước ong cũ nút nhuỵ xưa không được, chớ mãi đến sáng thì mới hay “tình xưa” vẫn ở trên lầu, một đêm gần trong gang tấc chớ nào phải “cô tôi vô Chợ Lớn ăn tiệc, có lẽ mắc lỡ tay đánh bài, xin cậu rán chớ”, chờ đến sáng, tức giận lui binh, thì một tiếng kêu “anh Toàn” từ trên câu lơn lầu kêu xuống, - bị thoa mỡ bò cho tuột dên cách ấy, ai bày kế nầy, tôi cho là khéo và sướng không biết lá gan của cô Ba lúc ấy nở đến bực nào)

Còn cái chuyện câu khách làng chơi từ nạp tiền lễ ra mắt 1.000 bạc chẵn chòi mà phải lựa toàn giấy xăng giấy lớn (nạp tiền lẻ tiền nhỏ, tỏ ra vét tủ và keo kiết) cô cho ra rìa, về không, rồi khi được nhập hội, qua khỏi cửa có hạch gác, có chuông reo sang qua tay á múi mời vào phòng khách có chén trà sâm giải khát, chuyền qua phòng kế một xẩm con tiếp mời một chén yến nấu đường phèn hay yến chưng cách thuỷ với bồ câu ra ràn, rồi chuyền tay một phen nữa qua phòng có tiểu mỹ nữ Tàu mời tắm nước nóng và thay y phục nhẹ, bao nhiêu ấy để rồi tốt số thì may gặp nàng Trà, xấu số thì thâu bửu bối ra ngả sau chuồn về với bao nhiêu tức ấm ách vì người dẹp nàng tiên cho leo cây, những chi tiết tôi đã đọc trong Tiếng Dội 1952, tôi không dám tin hoàn toàn là có. Theo tôi nghe nói, thì quả vô nhà Trà rất khó vì là chỗ chứa me, thang lầu trên dưới đều có đèn báo động... nay chỉ còn dư âm, mỗi người thuật lại tuỳ theo trí tưởng tượng của mình, duy cái bóng giai nhân, mỗi lần có dịp đi ngang chốn cũ, trước 1975 thì lúc ấy phòng mạch bác sĩ Hồ Văn Nhựt cố nhân vẫn ở sát vách cung xưa mấy lúc sau nầy, cũng còn dịp trở lại đây, cảnh thì còn đó, phố lầu trơ trơ vô tri vô giác, biết với ai mà nhắc chuyện vang bóng một thời!

Tôi còn nhớ năm 1928, vào làm rể ông Kính, lúc ấy dãy ngang số 260 còn là đất trống cây mọc che khuất một vuông nhà lụp xụp bằng gỗ đã cũ kỹ, dường như là trại cưa súc ván, chung quanh chưa có dinh thự xinh tốt như bây giờ, mỗi ngày tôi đi làm nơi trường máy, một cuốc xe kéo tay phải trả 0$15 vì đường xa khá đến, chiều chiều là tôi được ngồi ghế strapontin (ghế phụ) trên chiếc Peogeot mui trần, băng sau danh dự là ông Kính chễm chệ ngồi giữa, bên tả là cô Tuyết, ái nữ con riêng của phu nhơn, và bà Kính vẫn ngồi bên hữu, xe đảo mấy vòng hết chợ cũ qua chợ mới Bến Thành rồi đảo xuống Nhà Rồng lăng tô (láng thọ), ghé các tay bài quen để hỏi tối me hốt nơi đâu, rồi trở lộn về nhà xơi cơm tối hối hả rồi ngồi xe trở lại để kiếm sòng gầy tụ, hoặc tôi xin ở lại nhà, hoặc tôi phải đi theo vào các nhà xét trong Chợ Lớn cho đến khuya lơ khuya lắc, may đánh ăn thì về sớm, thua thì ở lại trông mong gỡ gạc, khi thì: như ngày thứ bảy và ngày lễ có tổ chức đờn ca tại nhà, thức muốn lòi con mắt, và thân làm rể nhờ hột cơm, vẫn ngủ ghế bố bày ra nơi câu lơn lầu trong, không mùng, trị muỗi cắn bằng nhang khoanh hiệu Nhựt bổn, ấy ai thì như tiên đến đây để giỡn tiền cho biết thế nào là người đẹp, duy tôi nằm tại đó mà nào biết đó sau trở thành Nguyệt tiên cung là cái cung động gì? Tôi chỉ nhớ nhà nầy đối với tôi là xui xẻo nhứt, muốn cưới Tuyết nên phải lăn vào lửa, thân xếp ve cân không tới 40 kí, làm ra tiền khá đến, thơ ký hạng tư lương mỗi tháng 80 đồng, kiếm thêm được 60 đồng nữa nhờ dạy Việt văn cho ba ông Tây chủ sở, nhưng những 140 đồng ấy tương đương với lương tri phủ chớ phải ít ỏi gì sao, nhưng nào đủ cho tôi ngồi nhà hàng và hút thuốc thơm con mèo nguyên hộp.

Khi cô Ba Trà thuật và nhắc lại cảnh cũ, cũng làm cho tôi hồi hộp nhớ lại kỷ niệm riêng buổi nào, và lúc nầy cô Ba mới thật là xinh tốt như hoa, tuy biết bề trong thì ắt đó là hoa đã nở từ sáng, xiết bao ong bưởm đã mở đàng đi lối về, nhưng bọn đàn ông nào ai xét chi chỗ đó, chỉ biết cô còn nheo nhẻo như nữ học sinh áo tím vừa ra trường, mỗi chiều cô ngồi xe trần mặt hoa da ngọc, đàn ông nào lại chẳng muốn nhào vô, đâu phải lấy cô mà chỉ muốn được danh là biết cô cũng đủ. Duy tôi thanh minh một lần nữa, nhiều người không được gần rồi tra tiếng oán, chớ cô biết giữ gìn danh tiếng, không phải hễ có tiền là được gần cô đâu!

Ngày hội đồng Th. Rạch giá và cậu Nam B. Cần Thơ từ giã cô Ba để về xứ làm cho cô lấy làm lạ, hỏi:

- Coi! Hai anh sao về đi? Ở lại đây chơi mà!

Cả hai như sắp đặt trước, đồng trả lời một lượt:

- Chúng tôi có nguyện ngày nào cô mặc trở lại chiếc áo lần đầu khi ba ta gặp nhau, thì chúng tôi rút lui, kể như đã công thành duyên mãn. Hôm nay cô mặc trở lại bộ com lê (complet) nữ sinh trường áo tím, ấy cũng là ngày chúng tôi tự bãi trường.

Cô nghe nói mới sực nhớ lại, y phục quá nhiều, cô mặc chiếc áo còn lằn xếp đã trót bốn tháng mới lấy từ trong tủ ra... Bắt tay từ giã, xe chạy nghe cái vù, cậu Cần thơ văng luôn rạp hát bóng đang ăn khách, ông Rạch giá bay luôn mấy sở ruộng luôn và năm sáu đìa cá đồng, tuy không cánh mà biết đằng vân, phép cô Ba hay thật. Cái hại mê nữ sắc!

Và nhan sắc cô Ba lúc ấy thật là quyến rũ: hai chàng về tỉnh chưa được bao lâu, kẻ ngứa ngáy hai chơn, người động lòng bốn phương, cả hai tom góp “gió máy” được vừa nặng túi, không hẹn mà đồng hè trở lên Đông Pháp lữ quán, ông Hội quyết dâng đủ sính lễ cưới nàng, cậu Bích (không phải Bích Trà Vinh) cũng quyết dâng trái tim mặc cho nàng mổ xẻ, miễn nàng ừ một tiếng nhìn nhận làm chồng, và cả hai đều đưa đơn nhờ dì Tư Ăng lê chuyển đạt. Thấy việc khó xử, bà mai nói phân hai:

- Việc ấy nói thẳng với Ba, chớ qua tính là tính làm sao được?

Đến đây ta mới thấy cái ma lực của ái tình. Chính chuyên, chung tình thì xuýt bị thằng ghiền Sáu Mão bày đặt chuyện rà lưỡi trị mắt nhặm để trước hôn má, sau sẽ viếng động tiên, qua khỏi truông chị Sáu toa rập với chồng, vì quá thua me, sổ lồng ông A. thì bị kế hắc bạch hai chàng, chớ đi giáp vòng Hậu Giang Ba Thắc, nay đến lượt chồng sờ sờ đó mà hai người nầy đòi cưới là cưới làm sao? Đơn lên tới cô Ba, cô lạnh lùng trả lại: “Tôi là gái có chồng?” Rồi đúng một cái, không thắng không bại mà sòng me Hắc Bạch Cần Rạch tự nhiên xên: cậu Ba đeo mà không được đành làm con ong già bay qua bông khác, cậu Tư bị mấy cô đào cải lương thu hồn vì xem tích Hồ nguyệt cô bị Tiết Giao đoạt ngọc, đến lượt hai anh công tử vườn nầy, hốp tốp, đơn đưa cô Ba quyết định, bỗng bị một tay triệu phú Huê kiều, như đã nói nơi đoạn trước là Lương H., đóng vai Thúc sinh quen thói bốc rời, ra lịnh dẹp Lữ quán Đông Pháp và lập cho cô một động mới: Nguyệt tiên cung. Lương thắng cuộc, chiếm được mỹ nhân, cuộc thi đua giữa các công tử tạm chấm dứt, vì giỡn tiền không lại mái chính triệu phú Tàu.

Chú thích:

(1) Ngày nay các tay viết Bắc thường viết "hút sách", tôi không biết dựa vào điển tích nào và tôi vẫn giữ chính tả của riêng tôi viết “hút xách” dựa theo điển nầy: có mặt ông già thần tinh Sốc, xứ tôi, linh ứng lắm, không ai dám nói xúc phạm hay có cử chỉ bất nhã nào với ngài, một hôm đạp đồng lên dặn người từ coi miếu dặn không nên cho bợm hút vào miễn bất cứ sang hèn cũng vậy, các đạo lấy làm lạ, hỏi duyên cớ, ngài để tên ngồi đồng đáp: "Làng nầy người nào cũng tốt, duy bợm hút phải coi chừng, vì khi nó ghiền, lư lương tao nó cũng xách!”.

Hút xách đi đôi đi cặp với nhau là vì diễn nầy. Tôi nói cho tôi và ai muốn viết sao mặc ý.



Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved