đẳng cấp quốc tế của Trung Quốc
Phạm Thị Ly & Vũ Thị Phương Anh |
Đại học Liên hợp Bắc Kinh
Có thể dễ dàng nhận thấy một điểm chung giữa các nước
đang phát triển khi họ bước vào thời kỳ thịnh vượng nhờ nhanh chóng tăng trưởng
kinh tế, là những tham vọng lớn lao về giáo dục và văn hóa, trong đó có cuộc tìm
kiếm con đường đưa những trường đại học đang có lên vị trí “đẳng cấp quốc tế”,
hoặc xây dựng mới những trường đại học đẳng cấp quốc tế (world class university-
WCU). Trung Quốc (TQ) là một điển hình hết sức đáng chú ý đối với Việt
Nam , do vai trò đặc biệt của TQ trên
thế giới, do sự gần gũi về đặc điểm văn hóa và nhất là chính trị. Bài viết này
trình bày tóm tắt quá trình xây dựng và triển khai kế hoạch xây dựng những
trường đại học đẳng cấp quốc tế (ĐHĐCQT) của TQ, kết quả của những kế hoạch và
nỗ lực ấy, đồng thời thử tìm cách lý giải nguyên nhân. Trong một bài khác, chúng
tôi đã nêu lên mô hình ngũ giác bao hàm năm yếu tố cơ bản tạo nên đặc điểm của
một trường đại học: những giá trị văn hóa tinh thần, cơ cấu tổ chức và quản trị,
nguồn lực, các hoạt động và các thành quả. Con đường xây dựng các ĐHĐCQT của TQ
tiêu biểu cho sự lựa chọn nhấn mạnh ba yếu tố sau, tương tự như con đường mà
Việt Nam đang đi trong thời gian vừa qua.
Do vậy tìm hiểu bài học TQ là một việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
việc xây dựng trường ĐH đạt chuẩn mực quốc tế cho Việt Nam
1. Về quá trình xây dựng ĐHĐCQT của
TQ
Vấn đề ĐHĐCQT trong chiến lược phát triển giáo dục đại học
của Nhà nước TQ
Không thể phủ nhận quyết tâm hết sức lớn
lao của Nhà nước TQ trong việc chủ trương đưa một số trường đại học TQ vào danh
sách các đại học hàng đầu thế giới. Họ coi đó là một chiến lược phát triển quốc
gia, và điều này thể hiện rõ trước hết trong chính sách của Nhà nước TQ đối với
giáo dục đại học.
Về mặt chính sách,Nhà nước TQ coi giáo dục
đại học là một bộ phận không thể thiếu trong quá trình hiện đại hóa TQ. Mọi kế
hoạch phát triển của Nhà nước đều nhấn mạnh đến giáo dục ở mọi cấp, từ phổ cập
giáo dục tiểu học toàn quốc đến việc xây dựng ĐHĐCQT như là đỉnh cao của hệ thống giáo dục. TQ
muốn cạnh tranh với toàn thế giới trong nhiều lãnh vực, và giáo dục đại học là
lãnh vực duy nhất mà tiêu chuẩn quốc tế được chính thức dùng làm thước đo cho
những thành công ở trong nước.
Ngay từ thập
niên 50, TQ đã có chính sách đầu tư đặc biệt cho một số trường trọng điểm, và từ
giữa thập kỷ 90, khi Giang Trạch Dân, sau đó là lãnh đạo của TQ, chính thức nêu
rõ quyết tâm chuyển biến các trường đại học TQ, ngân sách Nhà nước cho giáo dục
đại học đã tăng hơn gấp đôi, lên tới 10,4 tỷ USDtrong năm 2003.Từ những năm 90,
TQ bắt đầu triển khai kế hoạch xây dựng 100 trường đại học chất lượng cao trước
khi bước sang thế kỷ 21, với một kế hoạch được gọi là Dự án 211. Năm 1998 tại lễ kỷ niệm 100 năm
Đại học Bắc Kinh, chủ tịch nước tuyên bố TQ cần có những trường đẳng cấp quốc
tế, ngay sau đó Dự án 985 ra đời nhằm thực hiện chủ trương này. Năm 2005, sau
Hội nghị Quốc tế về ĐHĐCQT do Đại học Giao thông Thượng Hải đăng cai tổ chức, Dự
án 111 ra đời để khắc phục chỗ yếu của các trường đại học tinh hoa ở TQ nhằm
nhanh chóng đạt vị trí “đẳng cấp quốc tế”.
Nếu như 211 và 985 nhằm nâng cao nguồn lực tài chính để trang bị cơ sở
vật chất và trang thiết bị nghiên cứu tối tân cho các trường, thì Dự án 111 chủ
yếu để “mua” các tài năng từ nước ngoài đem về các trường đại học TQ nhằm tăng
nhanh số lượng công bố khoa học và thành tích nghiên cứu. Các sáng kiến này chủ
yếu nhằm vào các trường hàng đầu với mục đích nâng cao năng lực nghiên cứu để
thực hiện tham vọng của TQ trong việc giành ngôi vị đẳng cấp quốc tế. Nhiều lần
các quan chức Chính phủ đã phát biểu một cách hiển ngôn niềm hy vọng sẽ đưa một
loạt các trường đại học TQ vào hàng ngũ đại học đẳng cấp quốc tế trước năm
2020.
Để thực hiện chính sách ấy, Nhà nước TQ đã
chi những khoản tiền khổng lồ cho giáo dục đại học so với tương quan GDP của
họ. Từ những năm 50, đã có những
trường được coi là “đại học trọng điểm quốc gia” (national key universities).
Năm 1954 có 6 trường được gọi là đại học trọng điểm quốc gia, đến năm 1959 thêm
16 trường và 44 trường tính đến năm 1960, rồi một lần nữa danh sách này được bổ
sung thêm 4 trường trong năm 1963. Sau cuộc Cách mạng Văn hóa, các trường đại
học trọng điểm quốc gia được đặt tên lại, thêm nhiều trường được bổ sung vào
danh sách này, tính đến năm 1981, có tất cả là 96 trường như vậy. Các trường
trọng điểm quốc gia này được ưu tiên hơn những trường khác trong các chính sách
về tài chính.
Chính sách đầu tư trọng điểm này vẫn tiếp
tục và càng lúc càng tăng cường độ. Từ năm 1984, 10 trường đại học được cung cấp
tài chính bổ sung từ Dự án Trọng điểm Quốc gia là: Đại học Bắc Kinh, Đại học
Thanh Hoa, Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Giao thông,
Đại học Bách khoa TQ, Đại học Y khoa Bắc Kinh, Đại học Remin, Đại học Sư phạm
Bắc Kinh, Đại học Nông nghiệp TQ. Trong những năm cuối của thập kỷ 80, 416
chương trình trọng điểm quốc gia ở 107 trường đã được chọn để hỗ trợ tài chính
bổ sung như một phần của Dự án Trọng điểm Quốc gia được gọi là Dự án 211. Để
thực hiện dự án này, trước hết Nhà nước Trung Quốc đầu tư 400 triệu nhân dân tệ
(khoảng 50 triệu USD) cho những trường được chọn lựa để nâng cao chất lượng
giảng dạy, học tập và nghiên cứu. Đồng thời chính quyền địa phương cũng được yêu
cầu cung cấp hỗ trợ tài chính cho những trường này. Chẳng hạn, chính quyền đặc
khu Thượng Hải đã đóng góp cho Đại học Phúc Đán và Đại học Giao thông Thượng Hải
mỗi trường 120 triệu nhân dân tệ (15 triệu USD) năm 1995 để nâng cao chất lượng
dạy học và điều kiện nghiên cứu ở cả hai trường. Điều này chứng tỏ mong muốn của
các chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ các trường đại học hàng đầu nằm
trong khu vực địa phương của mình. Đến năm 1998, khi Dự án 985 ra đời, chỉ 38
trường được hưởng nguồn tài chính từ dự án này. Đại học Bắc Kinh, Đại học Triết
Giang, Đại học Phúc Đán, Đại học Giao thông Thượng Hải, Đại học Nam Kinh, Đại
học Bách khoa TQ, Đại học Giao thông Xi’an và Viện Kỹ thuật Harbin là 9 trường
đứng hàng đầu trong những trường được sự hỗ trợ mạnh mẽ nhất của Dự án 9851. Dự án này cung cấp cho Đại học Bắc Kinh và
Đại học Thanh Hoa, hai trường trọng điểm hàng đầu của Trung Quốc một ngân sách
trọn gói trong ba năm là 1,8 tỷ nhân dân tệ (234 triệu USD) mỗi trường như một
khoản tài trợ đặc biệt nhằm xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế. Chính sách tài
chính này khiến hệ thống giáo dục đại học TQ phân hóa rõ rệt: chỉ vài mươi
trường tinh hoa đang khao khát đạt tới vị trí đẳng cấp quốc tế, và được Nhà nước
đầu tư rất mạnh, trong lúc phần lớn sinh viên phải theo học ở những trường đại
học cấp tỉnh ở địa phương, các cơ sở giáo dục cho người lớn, đào tạo từ xa qua
mạng Internet, và mới đây là các đại học tư, là những trường bị buộc phải xoay
trở để tìm nguồn tài chính mà tồn tại. Mong muốn của TQ trở thành đủ sức cạnh
tranh với cả thế giới trong nghiên cứu và đào tạo chỉ giới hạn trong một vài
trường hàng đầu, kết quả của chiến lược “nhà nghèo, con đông”: Nhà nước chỉ tập
trung cho những mũi nhọn với hy vọng tạo được sức mạnh đột phá về thành
tích.
Tuy vậy, ngay cả những trường tốt nhất mặc
dù đang nhận những khoản tài trợ đặc biệt từ Dự án 985 về Xây dựng ĐHĐCQT, cũng
phải tìm kiếm những nguồn tài chính phi Chính phủ cho ngân quỹ hoạt động hàng
năm của họ. Những nguồn tài chính hỗ trợ khác gồm có các tài trợ nghiên cứu của
Quỹ Tài trợ Khoa học Quốc gia TQ và Quỹ Tài trợ Khoa học Xã hội, mặc dù mức tài
trợ của những quỹ này thấp hơn nhiều so với những tổ chức Chính phủ ở Mỹ. Các
trường đại học cũng phải tìm kiếm sự hợp tác hỗ trợ của các doanh nghiệp hoặc tổ
chức cộng đồng ở địa phương để thực hiện những nghiên cứu ứng dụng cũng như
những chương trình giáo dục và đào tạo. Cạnh tranh giữa các trường trong lĩnh
vực này khá quyết liệt. Mặc dù nguồn hỗ trợ tài chính dành cho các trường đại
học nghiên cứu hàng đầu của TQ đã tăng rất đáng kể từ năm 1999, ngân sách hoạt
động hằng năm của họ vẫn nhỏ hơn nhiều so với các trường ĐHĐCQT của phương Tây
(ngân sách của Harvard năm 2008 là 2,996 tỷ USD!2)
Không chỉ đầu tư mạnh về tài chính, nhằm
nâng cao năng lực nghiên cứu của các trường, về mặt tổ chức, Nhà nước TQ đã tiến
hành những cải tổ quan trọng. Trong những năm 50, TQ theo mô hình trường đại học
chuyên ngành của Xô Viết. Vì hầu hết các trường ĐHĐCQT đều là các trường tổng
hợp và bao gồm nhiều chuyên ngành, Chính phủ TQ đã thực hiện tái cấu trúc các
trường đại học và coi đó như một nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả của các trường và
phục vụ cho việc đầu tư trọng điểm để xây dựng những trường ĐHĐCQT. Từ năm 1992, đã có hơn 200 trường đại học
chuyên ngành được sáp nhập lại thành các trường đại học tổng hợp và đa ngành.
Trong quá trình tái cấu trúc, hầu hết các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của
TQ đều giành được một trường chuyên ngành có chất lượng đỉnh cao như trường y
hay một số trường chuyên ngành hẹp khác. Chẳng hạn, Đại học Y khoa Bắc Kinh đã
được sáp nhập vào Đại học Bắc Kinh, Đại học Mỹ Thuật Quốc gia đã được sáp nhập
vào Đại học Thanh Hoa.
Bên cạnh việc tái cấu trúc, một nỗ lực đáng
chú ý của Nhà nước TQ là việc tiến hành xếp hạng các trường đại học, bao gồm cả
xếp hạng quốc gia và xếp hạng quốc tế. Xuất phát điểm của chủ trương này là ý
muốn xác định khoảng cách giữa các trường đại học TQ và các trường ĐHĐCQT và tìm
hiểu những nhân tố nào đưa một trường đại học lên hàng đẳng cấp quốc tế. Viện
Nghiên cứu Giáo dục Đại học của Đại học Giao thông Thượng Hải đã tiến hành thu
thập dữ liệu của 500 trường đại học trên toàn thế giới theo những tiêu chí xác
định, có thể xác minh được, và tiến hành xếp hạng. Bảng xếp hạng này trở thành
rất nổi tiếng và được coi là một trong hai hệ thống xếp hạng quốc tế được biết
đến rộng rãi nhất trên toàn thế giới. Năm 2005 họ đã đưa ra một danh sách xếp
hạng hầu như hoàn toàn dựa trên những sản phẩm và kết quả nghiên cứu của các
trường. TQ cũng đứng ra tổ chức Hội thảo Quốc tế về WCU năm 2005 tập hợp hàng
trăm nhà khoa học trên toàn thế giới để bàn về chủ đề
này.
Ngoài xếp hạng quốc tế, TQ còn thực hiện
xếp hạng quốc gia. Từ giữa thập kỷ 90, việc xếp hạng các trường đại học trở
thành một hiện tượng phổ biến ở TQ. Có năm chương trình xếp hạng có ảnh hưởng
mạnh, trong đó có 4 là xếp hạng trường. Kết quả xếp hạng được coi là một nguồn
thông tin quan trọng đối với sinh viên và phụ huynh. Các trường đại học và Chính
phủ cũng hết sức quan tâm chú ý tới việc xếp hạng. Dù có nhiều trở ngại trong
vấn đề xếp hạng các trường đại học ở TQ, đặc biệt là những vấn đề liên quan tới
sự sẵn sàng và độ tin cậy của dữ liệu, kết quả xếp hạng cũng đem lại cho sinh
viên một ý niệm đại khái về địa vị của mỗi trường đại học.
Về mặt quản lý, Bộ Giáo dục TQ tuy không
còn giữ lề lối hoạt động trong một xã hội được điều khiển bằng mệnh lệnh như
trước đây, nhưng vẫn giữ quyền kiểm soát những nhân tố chính của giáo dục đại
học, như giảng viên và số lượng sinh viên mỗi ngành học, mức thu học phí, việc
bổ nhiệm các chức vụ quản lý lãnh đạo cao cấp. Tuy vậy, trong bộ khung hành
chính quan liêu này, các trường đại học cũng có quyền tự chủ nhiều hơn trong
việc quyết định nội dung chương trình đào tạo, thành lập những viện nghiên cứu
mới, thay đổi cơ cấu tổ chức nhà trường, và xác lập những ưu tiên về tài chính.
Chiến lược xây dựng trường ĐHĐCQT
của các trường đại học
TQ
Tuyển dụng
nhân sự trên phạm vi toàn cầu và tăng cường quốc tế hóa:
Các trường đại học TQ hiểu rõ con người là
nhân tố quyết định cho thành công của một trường đại học. Họ không có đủ sức
mạnh tài chính để lôi cuốn được những giáo sư đẳng cấp quốc tế với số lượng đủ
để đảm bảo cho hoạt động của một trường, thay vào đó, họ có chủ trương rất rõ
ràng nhằm thu hút những trí thức Hoa kiều và những người TQ được đào tạo từ các
nước phương Tây. Các trường đại học ở Bắc Kinh và Thượng Hải đặc biệt thành công
trong việc thu hút những người học ở nước ngoài trở về nhận những vị trí nghiên
cứu và giảng dạy. Có khi họ trở về ở hẳn TQ, có khi họ thương lượng một chế độ
qua lại thường xuyên cho phép họ duy trì cương vị của họ ở phương Tây trong lúc
bỏ ra nhiều tháng mỗi năm làm việc tại TQ.
Nếu những người TQ được đào tạo ở phương
Tây có thể có nhà ở, xe cộ, những phương tiện văn hóa và trường học tốt cho con
cái họ, thì trở về TQ không còn là một sự hy sinh như trong quá khứ. Dùng những
người trở về này thay cho các chuyên gia nước ngoài cũng sẽ thích hợp hơn với
mục tiêu của TQ trong việc tự lực và tăng sức cạnh tranh dài hạn. Mặc dù chi phí
của các đại học TQ tăng cao vì mức lương của những người trở về này phải đủ sức
cạnh tranh quốc tế, trong những lĩnh vực được ưu tiên cao (đặc biệt là trong
khoa học và kỹ thuật), sự đầu tư này được coi là thiết yếu để tạo ra những
chương trình giảng dạy và nghiên cứu với những phương pháp và lý thuyết tối tân
nhất. Thêm vào đó, cơ sở vật chất mới cũng tạo điều kiện cho các trường đại học
TQ tuyển mộ giảng viên và cán bộ nghiên cứu trên phạm vi toàn cầu, nhất là các
khoa học gia người TQ có bằng tiến sĩ ở châu Âu.
Để tăng cường tính chất quốc tế hóa, TQ
cũng đang nỗ lực để trở thành thỏi nam châm thu hút sinh viên nước ngoài, thường
là từ các quốc gia châu Á, chứ không chỉ quan tâm đến việc gửi nhân tài của họ
sang phương Tây. Mục tiêu của họ là 100,000 sinh viên nước ngoài đến học tại TQ
trong một tương lai gần. Mặc dù các trường đại học TQ vẫn tiếp tục đưa ra những
chương trình học ngắn hạn về ngôn ngữ và văn hóa cho người nước ngoài, phần lớn
là người Mỹ, ngày càng có nhiều trường đào tạo sinh viên nước ngoài cả trong
những ngành học khác và cấp bằng chính quy cho họ. Với quyết tâm xác định vị trí
của mình một cách tích cực trong bối cảnh toàn cầu, các trường đại học nghiên
cứu hàng đầu ở TQ rất thiết tha với các hoạt động hợp tác quốc tế. Đã có nhiều
thành công đạt được trong những chương trình trao đổi sinh viên và liên kết đào
tạo. Nhiều trường đang có những tiến bộ vượt bậc trong việc thu hút sinh viên
quốc tế và xây dựng những chương trình hợp tác nghiên cứu. Họ đang cố gắng vận
dụng những tiêu chuẩn đánh giá có tính chất quốc tế đối với đội ngũ giảng viên
của mình cũng như đối với các chương trình đào
tạo.
Đầu tư mạnh
vào phòng thí nghiệm và trang thiết bị phục vụ nghiên
cứu
Các trường đại học TQ rất chú trọng nghiên
cứu và đào tạo về khoa học kỹ thuật, đầu tư các nguồn quỹ mà họ có quyền chủ
động sử dụng vào việc xây dựng những phòng thí nghiệm mới với những thiết bị kỹ
thuật tối tân. Việc cộng tác với các đại học nước ngoài là một cách đã được thử
thách qua thời gian để các đại học TQ khởi động những chương trình nghiên cứu ở
trình độ quốc tế.
Năm 1986, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc
gia đầu tiên được xây dựng tại Đại học Bắc Kinh. Điều này đánh dấu sự khởi đầu
của các đại học nghiên cứu cùng với khoản tài trợ nghiên cứu và phát triển cho
các phòng thí nghiệm được Nhà nước Trung ương hỗ trợ và đặt tại các trường đại
học, và việc các nghiên cứu của trường đại học được xem như một bộ phận của hệ
thống nghiên cứu khoa học cơ bản của quốc gia. Ý tưởng thành lập các phòng
nghiên cứu trọng điểm của quốc gia và đặt tại các trường đại học thực ra là học
tập từ mô hình của các trường đại học nghiên cứu ở Hoa Kỳ. Trong những năm cuối
thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90, chủ trương tài trợ của Nhà nước Liên bang Hoa Kỳ
đối với việc nghiên cứu của các trường đại học đã ảnh hưởng mạnh đến việc cải
cách hệ thống nghiên cứu khoa học ở Trung Quốc.Ví dụ phổ biến nhất là Phòng Thí
nghiệm Quốc gia Lawrence Berkeley, Phòng
Thí nghiệm Quốc gia Lawrence Livermore, và Phòng Thí nghiệm Quốc gia Los Alamos
tại hệ thống đại học California. Trong lúc các phòng thí nghiệm quốc gia tại các
trường đại học Trung Quốc hầu hết dựa trên cơ sở chuyên ngành nhằm mục đích tạo
ra các trung tâm chất lượng cao trong từng lĩnh vực, sự thành lập của những
phòng thí nghiệm ấy biểu hiện niềm hy vọng các trường đại học Trung Quốc rồi đây
sẽ có được những phòng nghiên cứu giống như những phòng nghiên cứu mà Đại học
California đang có.
Dựa trên những thông tin của Mạng lưới
Nghiên cứu và Giáo dục Trung Quốc, đến năm 2002 đã có 91 phòng thí nghiệm trọng
điểm quốc gia tại các trường đại học hàng đầu. Hiện nay chỉ riêng Đại học Bắc
Kinh đã có 13 phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia như thế, những công trình
nghiên cứu tại đó gắn chặt với những vấn đề khẩn thiết nhất của quốc gia trong
việc phát triển.
Xây dựng các
trường đại học nghiên cứu và coi nghiên cứu như là một chức năng chính ở các
trường trọng điểm khác
Trong thập kỷ 50, TQ áp dụng mô hình Xô
Viết về việc thành lập các viện nghiên cứu độc lập và nằm ngoài trường đại học,
kể cả Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia TQ, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội TQ, Viện
Nghiên cứu Nông nghiệp. Những viện hàn lâm này có hàng trăm viện nghiên cứu bao
gồm tất cả các lãnh vực chuyên ngành. Cho đến thập kỷ 80, hầu hết các hoạt động
nghiên cứu ở TQ đều được thực hiện ở các viện nghiên cứu độc lập này, còn nhiệm
vụ chính của các trường đại học chỉ là giảng dạy. Chủ trương xây dựng ĐHĐCQT
khiến Nhà nước TQ phải xem lại điều này. Không phải ngẫu nhiên mà hệ thống tiêu
chí xếp hạng quốc tế của SJTU rất xem trọng thành quả nghiên cứu của các trường.
Thành tích nghiên cứu hiển nhiên là tác động trực tiếp tới uy tín của nhà
trường, hiển nhiên là tác động tới trình độ phát triển của quốc gia, và chắc
chắn có ảnh hưởng tích cực đối với việc giảng dạy và đào tạo. Vì vậy những
trường đại học hàng đầu và được đầu tư trọng điểm ở TQ để đạt đẳng cấp quốc tế
đều xác định rõ định hướng nghiên cứu của mình. Quỹ Khoa học Quốc gia TQ thành
lập năm 1986 đã mang lại cho các trường đại học TQ cơ hội cạnh tranh các nguồn
tài trợ dành cho việc nghiên cứu. Việc dựa trên những sáng kiến nghiên cứu của
Bộ Khoa học Công nghệ và các bộ khác trong Chính phủ TQ trong thập kỷ 80 và 90
cũng tạo cho các trường đại học TQ thêm nhiều cơ hội quan trọng. Đồng thời, bản
thân các trường đại học khác cũng bắt đầu chú trọng hơn đến công tác nghiên cứu,
vì nghiên cứu đã được thừa nhận là một chức năng trọng yếu của nhiều trường đại
học ở TQ. Nhà nước TQ tiến hành phân loại đại học nghiên cứu loại 1, loại 2,
v.v…căn cứ vào tỷ lệ sinh viên cao học, và những trường được phân loại là đại
học nghiên cứu được cấp kinh phí cao hơn. Các giáo sư ở những trường hàng đầu TQ
đang dành thời gian cho nghiên cứu nhiều hơn là giảng dạy. Một số lớn các giáo
sư và phó giáo sư chẳng hề dạy một môn nào ở bậc đại học. Để nâng cao chất lượng
đào tạo bậc đại học, Bộ Giáo dục thậm chí đã phải ban hành một hướng dẫn năm
2003 yêu cầu các giáo sư và phó giáo sư phải tham gia giảng dạy ở bậc đại học.
Sự thành công của các trường đại học nghiên
cứu Hoa Kỳ đã được công nhận là một khuôn mẫu cho giáo dục đại học trên toàn thế
giới. Ở thập kỷ 80 Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế thậm chí đã bắt đầu thảo luận về mô hình hệ
thống nghiên cứu khoa học của Hoa Kỳ. Mô hình Hoa Kỳ có một tác động rất lớn đối
với hệ thống giáo dục đại học Trung Quốc. Từ năm 1978, hàng ngàn giảng viên và
sinh viên Trung Quốc đã đổ xô vào Hoa Kỳ vì họ quan tâm đến giáo dục và tri thức
bậc cao. Rất nhiều hội thảo và ấn phẩm tập trung vào các trường đại học nghiên
cứu Hoa Kỳ: họ đã hoạt động như thế nào và chúng ta có thể học tập ở họ những
gì. Kinh nghiệm Hoa Kỳ đã trở thành cội nguồn cho rất nhiều ý tưởng về cải cách
giáo dục đại học ở Trung Quốc, trong đó có ý tưởng về xây dựng các trường đại
học nghiên cứu.
2- Những kết
quả mà TQ đã đạt được
Thành
tựu
Cùng với sự phát triển nhanh chóng của giáo
dục đại học tại TQ và sự hỗ trợ tài chính mạnh mẽ của Chính phủ TQ, các trường
đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ đang có những bước đi quan trọng để nâng cao
chất lượng hoạt động chuyên môn của họ và tạo ra những tiến bộ rất đáng kể nhằm
đạt mục tiêu chiến lược của họ là trở thành những trường
ĐHĐCQT.
Trong khoảng
từ năm 2000 đến 2005, số lượng công bố khoa học của các trường đại học nghiên
cứu hàng đầu trong danh mục SCI đã tăng gấp đôi. Đại học Thanh Hoa đã có khoảng
2700 bài báo được liệt kê trong danh mục SCI năm 2003, gần bằng con số của các
trường hàng đầu thuộc top 50 của thế giới. Các trường đại học nghiên cứu hàng
đầu của TQ cũng đã bắt đầu nhấn mạnh đến chất lượng của các công bố khoa học
bằng cách khen thưởng những bài báo có tỉ lệ được trích dẫn cao hoặc xuất hiện
trên những tạp chí chuyên môn danh tiếng. Xu Tian, nhà nghiên cứu di truyền học
hàng đầu được đào tạo tại Đại học Yale và hiện nay vẫn đang dạy tại đó, phụ
trách một phòng thí nghiệm ở Đại học Phúc Đán nơi tiến hành những nghiên cứu về
biến đổi gene. Ngày 12 tháng 8 năm 2005, nghiên cứu có tính đột phá của ông đã
được nêu trên trang bìa của tờ tạp chí nghiên cứu uy tín lừng lẫy- Tạp chí
Nghiên cứu Các Tế bào- lần đầu tiên một khoa học gia TQ có vinh dự
ấy!
Số giảng viên
có bằng tiến sĩ đã đạt đến 50% ở các trường đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ
tính đến năm 2005 và hy vọng sẽ đạt đến 75% trước năm 2010. Những trường này cam
kết nâng cao số giảng viên có bằng tiến sĩ từ các trường ĐHĐCQT. Các nhà quản lý
của Đại học Bắc Kinh ước lượng khoảng 40% cán bộ giảng dạy của họ được đào tạo ở
nước ngoài, chủ yếu là ở Mỹ.
Thêm vào đó, họ còn nỗ lực đặc biệt để lôi
cuốn các giáo sư đẳng cấp quốc tế bằng nhiều cách. Trường Đại học Bắc Kinh đã
lôi kéo được tài năng của Tian Gang- một nhà toán học hàng đầu của MIT, trong
việc xây dựng một trung tâm nghiên cứu quốc tế về toán cao cấp trong số các
trung tâm nghiên cứu trình độ cao khác.
Tỉ lệ của học
viên sau đại học (kể cả các khóa học chuyên môn) với sinh viên đại học vẫn còn ở
mức 1:1. Các trường đại học đang phải đấu tranh với việc nâng cao chất lượng đào
tạo sau đại học, đặc biệt là năng lực sáng tạo và đổi mới của một bộ phận nghiên
cứu sinh tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ thường được yêu cầu có bài đăng trên
tạp chí quốc tế trước khi có thể bảo vệ luận
án.
Nhìn rộng ra cả hệ thống, chỉ trong vòng
một thế hệ, kể từ năm 1978, TQ đã đưa tỉ lệ những người trong độ tuổi vào đại
học từ 1,4% lên đến 20%. Chỉ riêng trong lãnh vực kỹ thuật, TQ tạo ra 442,000 cử
nhân hằng năm, cùng với 48,000 người hoàn tất bằng thạc sĩ và 8,000 người đạt
học vị tiến sĩ.
Tuy vậy, cho đến nay chỉ có Trường Đại học
Bắc Kinh và một vài trường hàng đầu của TQ là được thế giới công nhận là có chất
lượng cao. Tiêu chí số lượng bài báo khoa học trong danh mục SCIE và SSCI tính
trên đầu người được đưa ra nhằm phản ánh hiện tượng cạnh tranh quốc tế ngày càng
phát triển và đặt TQ trong một bối cảnh có tính chất quốc tế. Con số thấp nhất
về tỉ lệ công bố khoa học trên đầu người trong số 60 trường thành viên của Hiệp
hội Các trường Đại học Hoa Kỳ được chọn làm tiêu chuẩn cho TQ, chỉ số này được
xác định là 0,7 trong năm 2004. Chỉ có 10 trường đại học TQ có được chỉ số này ở
trên mức tối thiểu của Hoa Kỳ.
Khoảng cách,
và những thử thách đang đặt ra
Trong bảng xếp hạng quốc tế của SJTU năm
2005, không một trường đại học TQ nào lọt vào danh sách 200 trường hàng đầu trên
thế giới. Chỉ có 8 trường đại học TQ lọt vào danh sách 500 trường hàng đầu. Vị
trí cao nhất mà các trường đại học TQ đạt được là trong khoảng 151 đến 2003. Còn trong bảng xếp hạng THES cùng năm, Đại
học Bắc Kinh được xếp thứ 15, và chỉ có 5 trường đại học TQ nằm trong top 200 mà
thôi. Ba năm sau, trong bảng xếp hạng năm 2008 cũng của SJTU thực hiện với cùng
phương pháp và tiêu chí, vẫn không có tên một trường đại học nào của Trung Quốc
trong danh sách 200 trường hàng đầu. Năm trường lọt vào thứ hạng cao nhất từ
152-200 là Đại học Bắc Kinh, Đại học Thanh Hoa,
Đại học Nam Kinh, Đại học Giao Thông Thượng Hải, Đại học Chiết Giang,
Shanghai Jiao Tong University, tức là không có bước tiến nào đáng kể so với kết
quả xếp hạng năm 2005. Trong bảng xếp hạng THES năm 2008, chỉ có 2 trường đại
học TQ lọt vào danh sách 100, nhưng lại tụt hạng so với chính họ: Đại học Bắc
Kinh xếp hạng 50 năm 2008 trong lúc được xếp hạng 36 năm 2007, hạng 14 năm 2006.
Mặc dù giới khoa học quốc tế gièm pha, chê bai cả hai hệ thống xếp hạng này vì
những đánh giá không thỏa đáng về chất lượng, nhưng các trường đại học TQ thì
nhìn vấn đề này một cách nghiêm túc như là một chỉ số cho thấy vị trí cạnh tranh
của họ. Họ biết rằng phải mất một thế hệ
hoặc hơn nữa để các trường đại học TQ có thể có chất lượng thực sự ngang bằng
với những trường của Âu Mỹ. Các học giả TQ không phải là không có lý khi nghĩ
như vậy, vì mặc cho mọi khác biệt về phương pháp và kỹ thuật, vẫn có một sự đồng
thuận rất cao giữa hai hệ thống xếp hạng về 12 vị trí đầu tiên của bảng xếp
hạng, điều này cho thấy uy tín của các trường ĐHĐCQT là một thực thể thực sự tồn tại khách quan và đo lường được.
Điểm phân biệt chủ yếu giữa các trường đại
học nghiên cứu hàng đầu của TQ và các trường đại học đẳng cấp quốc tế là chất
lượng của giảng viên và nghiên cứu, được thể hiện qua số cán bộ khoa học đoạt
được các giải thưởng khoa học quốc tế chính, qua số lượng tác giả được nhiều nhà
khoa học khác nêu trích dẫn trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu, qua số lượng
cán bộ giảng viên được đào tạo bậc tiến sĩ ở các trường đại học đẳng cấp quốc
tế, qua số lượng các bài báo khoa học được công bố quốc tế, và qua một số nhân
tố khác nữa.
Các trường ĐHĐCQT có trung bình 4,4 giảng
viên đoạt giải Nobel và Huy chương của ngành, có trung bình 56 nhà nghiên cứu
được nhiều người trích dẫn trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu, trong lúc
không một trường đại học nào ở TQ có được một cán bộ khoa học đạt giải Nobel
hoặc Huy chương Field. TQ cũng thiếu những tác giả được nhiều người trích dẫn
trong những lĩnh vực khoa học chủ yếu.4
Hơn 85% giảng viên tại các trường đại học
đẳng cấp quốc tế có bằng tiến sĩ do các trường thuộc top 100 trên toàn thế giới
cấp, trong lúc con số này chỉ là 10% ở các trường đại học TQ hàng đầu như Đại
học Thanh Hoa hay Đại học Bắc Kinh5. Số
trích dẫn trung bình trên mỗi bài báo khoa học trong Danh mục Trích dẫn Khoa
học- SCI vào khoảng từ 2 đến 3 đối với các đại học nghiên cứu hàng đầu của TQ
như Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, so với 25 ở Harvard 6.
Sự kiểm soát của Nhà nước đối với các
trường đại học TQ đang giảm đi. Tuy vậy Nhà nước TQ vẫn giữ ảnh hưởng mạnh mẽ
thông qua việc phân bổ nguồn lực, chuẩn thuận chương trình đào tạo, đánh giá dự
án, và vô số các buổi họp hành. Vẫn còn một chặng đường rất dài để các trường
đại học TQ có thể đạt được sự mở rộng quyền tự chủ. Vì năng lực đổi mới kỹ thuật
của công nghệ TQ rất yếu kém, Nhà nước khuyến khích các trường đại học nghiên
cứu phục vụ việc phát triển kinh tế của quốc gia. Phần lớn các nghiên cứu thực
hiện ở TQ là nghiên cứu ứng dụng và tuyệt đại đa số là có liên quan đến phát
triển công nghệ. Nghiên cứu cơ bản vẫn
còn là một thứ xa xỉ đối với các trường đại học nghiên cứu ở
TQ.
Chỉ có một số rất nhỏ các giáo sư đại học
thực hiện việc nghiên cứu vì những mối quan tâm thuần túy khoa học. Phần lớn họ
dạy học và làm nghiên cứu như một cách để kiếm sống. Chất lượng giảng viên, tiêu
chí đề bạt, và quy trình đánh giá còn rất xa so với ước muốn xây dựng trường đại
học đẳng cấp quốc tế. Vì vậy, cải cách triệt để, tận gốc rễ là một điều hết sức
thiết yếu.
Bên cạnh đó, cuộc cạnh tranh giữa Viện Hàn
lâm Khoa học TQ và các trường đại học đang ngày càng mạnh mẽ. Viện Hàn lâm được
bảo đảm quyền cấp bằng sau đại học, và mục đích của họ là đạt được 50.000 nghiên
cứu sinh trước năm 2020. Hơn nữa, họ còn có ngân sách bổ sung do Nhà nước Trung
ương cấp bên cạnh ngân sách hoạt động thường xuyên. Bởi vậy khả năng cạnh tranh
của họ trong những khoản tài trợ nghiên cứu chính và đáp ứng nhu cầu của đất
nước sẽ tăng lên.
Dù các trường đại học nghiên cứu hàng đầu
của TQ đang tìm cách trở thành đại học đẳng cấp quốc tế, họ đang chú ý nhiều hơn
đến cạnh tranh trong nước thay vì cạnh tranh quốc tế để duy trì vị thế hiện tại
và giành các nguồn lực cần thiết, điều này làm giảm sự tập trung trong những nỗ
lực cạnh tranh quốc tế của họ.
3- Bài học
Trung Quốc
Qua con đường của TQ và những thành tựu mà
họ đạt được đã nêu tóm tắt trên đây, có thể nói, nhờ Nhà nước TQ có chính sách
đẩy mạnh giáo dục đại học, TQ đã tiến một bước rất dài trong việc đại chúng hóa
giáo dục đại học, và đã đạt được những thành tựu rất đáng kể. Tuy nhiên, kể từ
khi Chính phủ TQ chính thức tuyên bố tham vọng có được những trường đại học đẳng
cấp quốc tế vào năm 1998 đến nay, mười năm đã trôi qua cùng với những khoản đầu
tư khổng lồ, khoảng cách của các trường đại học hàng đầu của TQ với những trường
đẳng cấp quốc tế vẫn còn rất xa.
Năm 2005, Tạp
chí McKinsey đã thực hiện một nghiên cứu về thị trường lao động TQ và kết luận,
thật nghịch lý là TQ có hàng triệu người tốt nghiệp đại học nhưng lại thiếu nhân
tài. Diana Farrell và Andrew J. Grant ước lượng chỉ khoảng 10% các kỹ sư trẻ
người TQ có những kỹ năng thích hợp cho công việc trong các doanh nghiệp đa quốc
gia; số còn lại không có đủ kỹ năng ngôn ngữ và những hiểu biết văn hóa cần
thiết để thực hiện chức phận của mình trong những công việc có tính cạnh tranh
cao. Truyền thống giáo dục của TQ là một trong những thủ phạm gây ra vấn đề này.
Điển hình là lối dạy thuần túy thuyết giảng và lối học ghi nhớ: các giáo sư
thường đòi hỏi sinh viên phải nhớ bài giảng và những nội dung trong sách giáo
khoa rồi lặp lại trong các bài thi thay vì phải phát triển sự hiểu biết thấu đáo
và tinh thần sáng tạo. Đã vậy, sinh viên ngành kỹ thuật còn phải chịu đựng những
chương trình đào tạo đã quá lạc hậu. Có rất ít cơ hội làm việc cùng nhau, cũng
như không có dịp cho họ trải nghiệm thế giới thực, và những vị trí thực tập thì
không đủ cho tất cả mọi người. Đặt những nhân tố này cùng nhau, các nhà phân
tích McKinsey kết luận rằng TQ sẽ không thể chuyển sang công nghiệp dịch vụ
trong thập kỷ tới và như vậy cũng không thể cạnh tranh ở mức toàn cầu về công
nghệ kỹ thuật cao trong tương lai gần7.
Hiển nhiên là các học giả TQ biết rõ họ
phải nỗ lực đẩy mạnh cải cách và tư duy phê phán. Một số trường hàng đầu đã xây
dựng chương trình giáo dục tổng quát ở bậc đại học nhằm đem lại cho sinh viên
một nền tảng kiến thức rộng rãi hơn, mặc dù những nỗ lực này chưa đủ để đem lại
những kết quả mong đợi vì bị cấy ghép vào một hệ thống thi cử khắt khe và cứng
nhắc, một hệ thống vẫn còn đang ban thưởng cho sự học vẹt! Điều này chắc chắn
cũng sẽ phải thay đổi trong một vài năm tới đây.
Đó là nói về giáo dục đại học TQ nói chung,
còn nói riêng về giấc mộng ĐHĐCQT của TQ, thì lý do chính khiến TQ chưa thể lọt
vào danh sách các trường hàng đầu trên thế giới là do TQ thiếu những tài năng
đỉnh cao trong khoa học cơ bản đủ để sánh bằng thành tích của các trường ĐHĐCQT.
Một số nhà hoạch định chính sách và lãnh đạo các
trường tỏ ra hết chịu đựng nổi cuộc tranh luận vẫn đang tiếp diễn về vấn đề
ĐHĐCQT. Người ta bắt đầu nhận ra rằng xây dựng
một ĐHĐCQT là một quá trình lâu dài chứ không
phải là kết quả tức thời của một ước muốn và một số tiền đầu tư “một cục” khổng
lồ. Thực ra, nhiều người thậm chí còn hoài nghi về khả năng liệu TQ có thể thực
sự xây dựng được một ĐHĐCQT hay không, bởi vì
những trường được công nhận rộng rãi là một mẫu mực về ĐHĐCQT như Oxford ở Anh hay Harvard và Yale ở Hoa Kỳ đều đã phải
trải qua hàng thế kỷ phát triển. Chẳng những thế, những trường này đều đã rất
tiến triển trong một môi trường chính sách khác và hình thức khác của cơ cấu
quản lý đại học.
Thử đi tìm
nguyên nhân
Nhà nước TQ và giới học giả, giới quản lý
giáo dục đại học có một quyết tâm hết sức to lớn trong việc xây dựng trường đại
học đẳng cấp quốc tế, và đã dành nhiều nguồn lực tài chính lớn lao cho kế hoạch
này, nhưng dường như kết quả đạt được vẫn chưa được như họ mong đợi.
TQ đang tập
trung vào khoa học tự nhiên và kỹ thuật, những lĩnh vực phản ánh nhu cầu phát
triển của quốc gia, nhưng đồng thời cũng phản ánh sự thiên vị của một hệ thống
chính trị độc tài vốn ngăn cấm những phát biểu tự do. Khoa học xã hội và nhân
văn thường liên quan tới những ý tưởng phê phán về chính trị, kinh tế và lịch
sử. Nhà nước ít nhấn mạnh đến việc đạt đẳng cấp quốc tế trong những môn này. Tuy
vậy, nhiều người TQ cũng nhận định –thường là một cách gián tiếp- rằng việc hạn
chế những cuộc tranh luận khoa học có thể cản trở những nỗ lực tạo ra các trường
ĐHĐCQT.
Lin Jianhua,
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Bắc Kinh nhận định: “Hiện nay, tôi cho rằng chẳng
có trường đại học nào ở TQ có một bầu không khí có thể so sánh được với các
trường đại học lâu đời ở phương Tây- Harvard hay Oxford- về mặt tự do diễn đạt ý
tưởng” (…)Chúng ta cố gắng đem lại cho sinh viên một môi trường tốt hơn, nhưng
để có thể làm được điều đó, cần có thời gian. Không phải là 10 năm, mà là một
hay hai thế hệ”8.
Ge Jianxiong,
một nhà địa lý lỗi lạc ở Đại học Phúc Đán, nói rằng văn hóa Trung Hoa đòi hỏi
những kết quả nhanh chóng, điều này có thể xói mòn việc nghiên cứu. “Ở TQ, các
dự án thường ngắn hạn, thông thường là 3 năm. Sau đó người ta đòi hỏi phải có
các ấn phẩm đồ sộ. Trong những cuộc nghiên cứu thực sự, cần phải cho các nhà
khoa học sự tự do cần thiết để có được kết quả tốt, chứ không chỉ là kết quả mà
người ta muốn”. Trong khi đó, cơ chế bảo đảm quyền tự do học thuật ở phương Tây
cho phép một nhà khoa học có thể chẳng có một bài nghiên cứu nào được công bố
trong hàng chục năm, để rồi đến năm thứ mười chẳng hạn, thì công bố một bài báo
đưa ra cách giải quyết cho những câu hỏi đã tồn tại hàng trăm năm nay mà chưa có
lời đáp!
Ge bổ sung
thêm những khó khăn của giáo dục khi nó luôn luôn được coi là công cụ của chính
trị. Điểm yếu lớn nhất, như nhiều nhà khoa học TQ đã cho biết, là sự thiếu vắng
tự do học thuật. Yang, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Phúc Đán, cảnh báo rằng
nếu không xây dựng được một bầu không khí đúng đắn, những bộ óc vĩ đại ở nước
ngoài có thể sẽ chỉ đến TQ một hay hai năm là tìm đường rút vì bực bội.
Gong Ke, Phó
Hiệu trưởng Trường Đại học Thanh Hoa, nói rằng các trường đại học “có bổn phận
bảo đảm cho tự do học thuật”.
"Chúng tôi có
những giáo sư dạy ở đây, người nước ngoài, đang dạy rất khác với quan điểm của
chính phủ TQ”. Ông nói thêm: “Có những người phê phán mạnh chính sách kinh tế
của TQ”.
Điều cần nhất
bây giờ, như các nhà khoa học giỏi nhất của TQ nói, và nhấn mạnh, là những bộ óc
độc đáo.
Điều vĩ đại nhất mà TQ đã làm
được trong 20 năm qua là đưa 200 triệu người thoát cảnh đói nghèo. Xu nói: “Tuy
vậy, TQ vẫn chưa nhận ra rằng nếu muốn tiến lên một trình độ mới, thì phải hiểu
rằng các con số là không đủ. Chúng ta cần một cuộc cách mạng mới để đưa chúng ta
ra khỏi nền văn hóa mà giải thưởng là trở thành quan chức Nhà nước. Chúng ta
phải học cách ban thưởng cho những đổi mới thực sự, cho những tư tưởng độc lập,
và những công trình học thuật chính cống!”9
Phải chăng
tình trạng thiếu vắng tự do học thuật là nguyên nhân khiến các trường hàng đầu ở
TQ chưa thể đi xa hơn được, dù quyết tâm của Chính phủ rất lớn và đầu tư cũng
không nhỏ? Liệu điều này có thể giải thích những hạn chế của hệ thống giáo dục
đại học TQ, khi tự do học thuật không phải là vấn đề đối với các bộ môn khoa học
kỹ thuật và ứng dụng, những lĩnh vực mà Nhà nước TQ rất khuyến
khích?
Có lẽ câu trả
lời phải tìm không chỉ trong những nhân tố về thể chế, mà còn trong những nhân
tố văn hóa. Nền giáo dục TQ chưa bao giờ thoát ly hoàn toàn truyền thống Khổng
giáo, nơi người ta đi học là để tiếp thu những chân lý có sẵn của thánh hiền,
chứ không phải để thử thách hay cọ xát với những tri thức đã có. Điều này tất
nhiên ảnh hưởng lớn đến phương pháp dạy và học trong nhà trường và không khuyến
khích tinh thần phản biện, tinh thần tự do sáng tạo, là những nhân tố cốt yếu
của đời sống đại học, và là những nhân tố quyết định đối với năng lực nghiên
cứu.
4- Kết
luận
Thực tiễn xây
dựng đại học đẳng cấp quốc tế ở Trung Quốc cho chúng ta thấy quyết tâm của Nhà
nước có ý nghĩa rất quan trọng, vì nó giúp mang lại những nguồn lực cần thiết
cho các trường để thực hiện nâng cao chất lượng hoạt động. Tuy nhiên, chỉ nguồn
lực thôi thì không đủ để tạo ra được những thay đổi mong đợi. TQ đã đi từ Dự án
211 đến Dự án 985 theo hướng tập trung tăng cường nguồn lực tài chính cho một số
ít trường trọng điểm, rồi lại tiếp tục đến dự án 111 theo hướng “mua” người tài
từ bên ngoài về để tăng nhanh số lượng công bố khoa học và thành tích nghiên
cứu, nhưng kết quả vẫn không được như họ mong muốn, bởi vì đó vẫn chỉ là những
giải pháp đắp vá. Phải chăng TQ đã nhắm đến những nhân tố bề ngoài, những thứ ở
phần ngọn, những biểu hiện của kết quả hoạt động chẳng hạn số lượng công bố khoa
học và trích dẫn, thay vì phải nhắm vào những nhân tố bên trong, những thứ có ý
nghĩa cốt lõi và là nguyên nhân của thành công, chẳng hạn những chính ách thực
sự giải phóng năng lực của con người? Phải chăng những chính sách ấy chính là
điều mà TQ cần, để tạo ra một tầng lớp trí thức có thể sáng tạo ra những giá trị
tinh thần thực sự, vì chỉ với những giá trị ấy, trường đại học mới thực sự là
nơi kiến tạo tri thức, vun trồng tài năng và thực hiện được sứ mệnh của nó? Xét
cho cùng, thứ hạng trong bảng xếp hạng chỉ quan trọng nếu nó phản ánh được mức
độ đạt được sứ mạng mà một trường đại học phải thực hiện. Đó là sứ mạng làm động
lực thúc đẩy sự phát triển của từng cá nhân, của cả cộng đồng, của từng quốc gia
và sau hết là sự tiến bộ của toàn thể nhân loại.
---------1 Nian Cai Liu, 2005. Research Universities
in China : Differentiation,
Classsification, and Future World-Class Status
2 Nguồn: QS Quacquarelli Symonds
(www.topuniversities.com)
3Institute of Higher
Education , Shanghai Jiao Tong University 2005. Academic ranking of world
universities-2005.http://ed.sjtu.edu.cn/ranking.htm.
4 Cheng,
Y., S. X. Liu. 2005. When will Chinese universities be able to become world –
class? Journal of Higher Education
26 (4) : 1-6
5
Jiang, Y., P. 2004. The origins
of doctoral degrees of faculty members in world-class universities. Jiangsu Gaojiao no. 4:
106-09.
6 Nian Cai Liu, 2005. Bài đã
dẫn
7
Kathryn Mohrman 2005. Nguồn: http://www.saisjhu.edu/pubaffairs/publications/saisphere/winter06/
8 Howard W. French 2005. Nguồn: The International Herald Tribune, 27 October
2005
9 Howard W. French 2005. Bài đã
dẫn