trong Việt ngữ hiện đại
|
Tiếng lóng là một thực tế đầy sinh động
mà hầu như bất kỳ ngôn ngữ nào trên trái đất đều có, dù muốn hay không. Văn hào
Pháp Victor Hugo (1802 - 1885) từng chú ý sử dụng tiếng lóng trong tác phẩm
Le dernier jour d'un condamné / Ngày cuối cùng của một tử tù
(1828), thậm chí còn dành hẳn cả quyển VII trong phần thứ tư của bộ tiểu
thuyết đồ sộ nổi tiếng Les Misérables / Những người khốn khổ
(1861) để bàn luận về tiếng lóng.
Victor Hugo nhận định:
"Tiếng lóng là gì? Nó là quốc gia, đồng thời là quốc âm; đó là một đánh cắp dưới
hai hình thức: nhân dân và ngôn ngữ. (...) Tiếng lóng vừa là một hiện tượng văn
học, vừa là một kết quả xã hội. Tiếng lóng, căn bản, là gì? Tiếng lóng là ngôn
ngữ của khốn cùng. (...) Mọi nghề, mọi nghiệp, có thể mọi ngẫu nhiên của hệ
thống xã hội và hết thảy các hình thức của trí tuệ, đều có tiếng lóng của nó. Về
phương diện thuần túy văn học, nghiên cứu tiếng lóng có thể là kỳ thú hơn nhiều
khoa học khác." (Bản dịch của Huỳnh Lý, Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn, Đỗ Đức Hiểu -
NXB Văn Học, Hà Nội, 1977).
Ngày nay, trong nhiều giáo
trình ngôn ngữ học đại cương, tiếng lóng là nội dung chẳng thể thiếu ở chuyên đề
từ vựng học. Trong các hội nghị, hội thảo khoa học, chẳng hạn hội nghị Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ được tổ chức quy mô vào tháng
10-1979, một số báo cáo về nghiên cứu tiếng lóng đã thu hút sự quan tâm của khá
đông người. Cho đến nay, tồn tại lắm cách cắt nghĩa, phân loại và đánh giá khác
nhau về tiếng lóng.
Sơ lược về tiếng lóng |
Tiếng lóng ghi bằng chữ Anh, Ý, Đan
Mạch, Na Uy, Tây Ban Nha là slang; Pháp - argot; Thổ Nhĩ Kỳ - argo; Bồ Đào Nha -
gíria; Ba Lan - gwara; Hà Lan - straattaal; Séc - kolokvializmus; Đức -
Umgangssprache; Nga - сленг; Hàn -
속어; Nhật - 俗語; Hoa -
俚語 /
俚语 mà Bính âm phát liyu và phát
âm Hán Việt thành lý ngữ.
Tiếng lóng được các từ điển
định nghĩa ra sao? Tự điển Việt Nam của Ban Tu thư Khai Trí (Sài Gòn,
1971) giải thích: "Thứ tiếng dùng riêng với nhau trong một bọn, một hạng người
cùng nghề". Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (Hà Nội, 1992) cắt
nghĩa: "Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào
đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi". Từ điển Le
Petit Larousse illustré (Paris, 1993) viết: "Từ vựng riêng biệt của một
nhóm, một nghề, hoặc một giai tầng xã hội". Advanced learner's English
dictionary (London, 1993) nêu: "Các từ, cụm từ rất thân mật, không nghi
thức, thường dùng trong lời nói, nhất là những người cùng một nhóm xã hội, làm
việc cùng nhau và không được xem là thích hợp cho những bối cảnh nghi thức, cũng
như chẳng thể sử dụng lâu dài". Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1998)
ghi: "Những phương ngôn thô tục hoặc lưu hành hạn hẹp".
Qua loạt định nghĩa vắn gọn
và phổ thông ấy, một số yếu tố đặc trưng của tiếng lóng đã bộc lộ:
1. Là loại khẩu ngữ đặc thù,
dùng để giao tiếp phi chính thức trong một phạm vi xã hội hạn chế.
2. Hoàn toàn thuộc lĩnh vực
từ vựng và mang tính lâm thời, bất ổn định.
Tuy nhiên, loạt từ điển vừa
dẫn không phân biệt tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề nghiệp.
Biên soạn Giáo trình Việt
ngữ (Tập II: Từ hội học - NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1962), Đỗ Hữu Châu
khẳng định: "Tiếng lóng (argot des déclassés) bao gồm một số từ bí hiểm để che
dấu tư tưởng của người nói, không cho nhiều người ngoài tập đoàn xã hội của mình
biết". Cũng giáo sư (GS) Đỗ Hữu Châu, với giáo trình Từ vựng - ngữ nghĩa
tiếng Việt (NXB Giáo Dục, Hà Nội, 1981), lại chỉ ra: "Tiếng lóng bao gồm các
đơn vị từ vựng thuộc loại thứ hai trong biệt ngữ, tức là những tên gọi 'chồng
lên' trên những tên gọi chính thức. Hiện tượng tiếng lóng là phổ biến đối với
mọi tập thể xã hội. Hầu như tất cả các tập thể xã hội nào đã có cái gì chung về
sinh hoạt hay về sản xuất, làm việc, thì đều có những tiếng lóng của riêng mình.
(...) Do nhiều động lực khác nhau, như do ý muốn 'tự bộc lộ' cái vẻ riêng của
tập thể mình, do muốn gây được những sự chú ý đặc biệt, muốn che dấu những điều
mà những người ngoài tập thể không nên biết, muốn biểu thị thái độ một cách mạnh
mẽ, mà hằng ngày hằng giờ trong các tập thể xã hội đều xuất hiện tiếng lóng.
Những tiếng lóng này rất 'phù du', không hệ thống, lẻ tẻ, xuất hiện rồi mất
ngay".
Một số nhà nghiên cứu như
Lưu Vân Lăng và Hoàng Thị Châu liệt tiếng lóng vào loại không tốt đẹp vì phạm vi
lưu hành "là trong đám người làm những nghề bất lương, bị xã hội ngăn cấm như
bọn cờ bạc bịp, bọn ăn cắp, bọn buôn lậu". Sách Ngôn ngữ học: khuynh hướng -
lĩnh vực - khái niệm của nhiều soạn giả (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1994)
còn cho rằng: "Khác biệt ngữ, tiếng lóng có nghĩa xấu".
Thực tế, ở một số trường
hợp, khó phân lập rạch ròi ranh giới giữa tiếng lóng với biệt ngữ và tiếng nghề
nghiệp. Do đó, năm 1996, nhà nghiên cứu 在召民 / Da Zhaomin / Tại Triệu Dân của Trung Hoa đề xuất
lối gọi khác: ẩn ngữ / ám ngữ / hắc thoại. Tác giả này lại chia ra 2 loại
lớn là "ẩn ngữ nghề nghiệp" và "ẩn ngữ giang hồ". Nếu thế thì cũng chưa rành
mạch!
Một thực tế nữa: chưa hẳn
tiếng lóng "chỉ thuộc bọn người xấu", càng không thể là "ngôn ngữ dưới đáy xã
hội". GS Đỗ Hữu Châu từng nêu ví dụ về tiếng lóng của sinh viên một thời. Như
mẹ Đốp trỏ nữ sinh đáo để, nhuận sắc là đẹp một cách tươi mát,
ngỗng chỉ điểm 2, gậy - điểm 1, trứng - điểm
0.
Tùy quan niệm rộng hẹp mà có
những cách nhìn nhận khác nhau về tiếng lóng đối với công cuộc giữ gìn sự trong
sáng của tiếng Việt hiện nay.
Tiếng lóng với ngôn ngữ toàn dân |
Từ đầu thế kỷ XX, tiếng lóng
Việt Nam đã được bao học giả trong lẫn ngoài nước chú ý nghiên cứu. Một trong
những công trình đầu tiên là của Jean Nicolas Arthur Chéon (1856 - 1928), mang
tiêu đề L'argot annamite / Tiếng lóng Việt Nam đăng trên BEFEO (Bulletin
de l'Ecole Française d'Extrême-Orient: tập san trường Viễn Đông Bác Cổ) năm
1905. Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889 - 1947) từng có khảo luận L'argot annamite
de Hanoï / Tiếng lóng Việt Nam ở Hà Nội công bố năm 1925. Nhiều chuyên gia
Việt ngữ học thời gian qua cũng dành công sức nghiền ngẫm tiếng
lóng.
Đến nay, nhìn nhận hiện
tượng ngôn ngữ đặc thù này, tồn tại 2 quan điểm trái ngược nhau.
Một quan điểm cho rằng tiếng
lóng là hiện tượng không lành mạnh trong ngôn ngữ, chỉ tồn tại ở xã hội có giai
cấp, vì vậy phải triệt để chống tiếng lóng và kiên quyết gạt tiếng lóng ra khỏi
ngôn ngữ văn hóa. Đấy là ý kiến của Nguyễn Văn Tu và Nguyễn Kim Thản từng trình
bày qua các ấn phẩm Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại (NXB Đại Học &
Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1976), Tiếng Việt trên đường phát triển
(NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1982). Hai nhà nghiên cứu này bảo tiếng lóng
"không có tác dụng tích cực, không làm giàu thêm ngôn ngữ toàn
dân".
Quan điểm khác thì đề nghị
chấp nhận tiếng lóng tốt, tích cực, nhằm bổ sung vào ngôn ngữ toàn dân. Đấy là ý
kiến của Trịnh Liễn và Trần Viết Chánh phát biểu tại hội nghị khoa học Giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt về mặt từ ngữ được tổ chức ở Hà Nội năm
1979. Đồng quan điểm ấy, Nguyễn Thiện Giáp soạn sách Từ vựng học tiếng Việt
(NXB Đại Học & Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1985) đã đặt tiếng lóng
trong mối quan hệ với toàn bộ lớp từ tiếng Việt, rồi cho rằng chỉ nên lên án
những tiếng lóng thô tục; còn loạt tiếng lóng không thô tục là tên gọi có hình
ảnh của sự vật hoặc hiện tượng nào đó thì đủ khả năng phổ biến và thâm nhập dần
vào ngôn ngữ toàn dân. Sách này còn khẳng định tiếng lóng là một phương tiện
được dùng để khắc họa tính cách và miêu tả hoàn cảnh sống của nhân vật trong các
tác phẩm văn học nghệ thuật. Ấy cũng chính là điều mà nhiều nhà nghiên cứu về tu
từ học (rhétorique / rhetoric) và phong cách học (stylistique / stylistics) cũng
như nhiều nhà thơ, nhà văn, nhà báo quan tâm tìm hiểu để khéo léo vận
dụng.
Học giả Nguyễn Hiến Lê (1912
- 1984) rất hữu lý khi nhận xét rằng đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du, thấy
một trong những đoạn hay nhất chính là lời thoại độc địa phát ra từ miệng Tú Bà
lúc mụ nổi tam bành mụ lên trước giai nhân Thúy Kiều:
Này này sự đã quả nhiên,
Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi!
Bảo rằng đi dạo lấy người,
Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
Màu hồ đã mất đi rồi,
Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
Con kia đã bán cho ta,
Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
Lão kia có giở bài bây,
Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
Cớ sao chịu tốt một bề,
Gái tơ mà đã ngứa nghề lắm sao!
Rõ ngồn ngộn tiếng lóng của giới buôn
phấn bán son ở Việt Nam thế kỷ XIX. Ví thay đi dạo, rước khách, buồn mình,
màu hồ, bài bây, chịu tốt, ngứa nghề, chơi, văng bằng loạt từ ngữ "nghiêm
chỉnh", ắt đoạn lục bát vừa dẫn không chỉ mất hay mà còn hỏng bét!
Tương tự như thế, nếu thiếu
tích lũy vốn tiếng lóng phong phú để sử dụng phù hợp, làm sao bao tiểu thuyết -
phóng sự của Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) cuốn hút độc giả. Từ tác phẩm Cạm
bẫy người viết năm 1933, nhà báo kiêm nhà văn họ Vũ đã "đưa ra ánh sáng" cả
lô tiếng lóng chính hiệu cờ bạc bịp thuở nọ: mòng, mẻng, bắt, viên đạn, hòn
đạn, của, lộ tẩy, cản, quých, v.v. Đến các cuốn Kỹ nghệ lấy Tây
(1934), Số đỏ (1936), Làm đĩ (1936), Lục xì (1937) thì
Thiên Hư Vũ Trọng Phụng trình thêm cả loạt "ẩn ngữ giang hồ" mà thiếu chú thích
ắt công chúng bình thường khó hiểu nổi ý nghĩa: chạy làng, chánh, chúa, hoa
đào, ngày phiên, trô, xé giấy, v.v. Cũng xuất bản giai đoạn đó, Bỉ vỏ
của Nguyên Hồng (1918 - 1982) là thiên tiểu thuyết đã chứa đựng một lượng
lớn tiếng lóng - từ tiêu đề cho tới nội dung, thậm chí nhiều câu được vần vè
khiến bạn đọc dễ nhớ:
Không vòm, không sộp, không te,
Niễng mũn không có, ai mê nỗi gì?
Bỉ vỏ là ả ăn cắp. Vòm
là nhà. Sộp là giàu sang, hào phóng. Te là xinh đẹp. Niễng
mũn là một trinh nhỏ, tức nửa xu.
Trong số tiếng lóng từng lưu
hành, giờ đây có bao nhiêu đơn vị từ vựng trở nên quen thuộc và đi vào ngôn ngữ
phổ thông? Chắc chắn không ít. GS Đỗ Hữu Châu đã trưng dẫn cả loạt tiếng lóng
được chấp nhận gia nhập vào vốn từ ngữ chung như ba hoa, lộ tẩy, nguội điện,
cổ lỗ sĩ, gạo, phe phẩy. Tra cứu các từ điển tiếng Việt hiện đại, chẳng hạn
Từ điển từ mới tiếng Việt do Chu Bích Thu chủ biên (NXB TP HCM, 2002),
chúng ta thấy muôn tiếng lóng hiện hữu.
Tiếng Việt, cùng bao ngôn
ngữ khác, luôn cần được cộng đồng sử dụng cố gắng bảo tồn đồng thời tích cực
phát triển. Nói cách khác, phát triển vừa là nguyên nhân, vừa là mục đích của
công cuộc giữ gìn sự trong sáng tiếng Việt. Với ngôn ngữ, theo quy luật chung,
phát triển mạnh nhất luôn là từ vựng. Đóng góp vào khía cạnh này, rõ ràng có
tiếng lóng. Sau một thời gian tồn tại phi chính thức, bất ổn định trong phạm vi
xã hội hạn hẹp, biết bao tiếng lóng không còn là... tiếng lóng. Phần lớn biến
mất. Phần còn lại trở thành những đơn vị từ ngữ của toàn dân, được mọi người sử
dụng rộng rãi - không chỉ trong các tác phẩm báo chí, văn chương, màn nhung, màn
bạc, mà còn xuất hiện ở nhiều văn bản hành chính. Chẳng hạn các từ nhí, quậy,
xỉn, xịn, mánh mung, móc ngoặc, quay cóp, phớt lờ. Từ xì ke, xuất xứ
bởi tiếng lóng scag của Hoa Kỳ, là ví dụ khác.
Phê bình một từ điển tiếng lóng |

Sách Tiếng lóng Việt Nam
dày 236 trang kích cỡ 13 x 19cm, được chia làm 2 phần. Phần đầu là khảo luận
Đặc điểm của tiếng lóng Việt Nam chiếm 39 trang. Phần còn lại là Từ
điển từ ngữ lóng tiếng Việt. Xét dung lượng, sách chính là pho từ điển tiếng
lóng Việt Nam - một công trình rất hữu ích cho nhiều người. Song le, lần giở
cuốn sách công cụ này, hẳn bạn đọc liên tục phân vân.
Nguyễn Văn Khang bỏ sót một
thao tác tuy đơn giản song bất kỳ nhà từ điển học nào cũng đều chú ý nêu bật
trước tiên: thống kê số lượng mục từ trong từ điển. Kế tiếp, đây là từ điển
tiếng lóng - mà soạn giả đã xác định rõ tính chất của nó là dạng ngôn ngữ "ký
sinh" và "lâm thời" - thì cần thiết phải hạn định thời khoảng. Một đơn vị từ
vựng hôm nay là tiếng lóng, song ngày mai hết còn là tiếng lóng. Ấy thế mà từ
điển này thu thập tiếng lóng suốt thời gian dài, nhưng lại... ngắt quãng: tiếng
lóng trong tiểu thuyết Bỉ vỏ của Nguyên Hồng (vào thập niên 1930), rồi
tiếng lóng cuối những năm 1970 và đầu những năm 1980 liên quan nhóm xã hội "vượt
biên - di tản"; đoạn tiếng lóng khoảng thập niên 1990. Kỳ thực, từ điển còn góp
nhặt hàng loạt tiếng lóng dùng trong trại giam ở miền Bắc thập niên 1960 thông
qua tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (NXB Thanh Niên, Hà
Nội, 2000) nhưng lại không chua nguồn thư tịch.
Đi vào nội dung từ điển
tiếng lóng Việt Nam của Nguyễn Văn Khang, bạn đọc có hiểu biết ít nhiều về lĩnh
vực này chắc chắn khó tránh khỏi thất vọng vì cách biên soạn thiếu khoa học.
Buồn cười nhất là quá nhiều tiếng lóng bị định nghĩa... sai! Ý kiến ngắn của Bùi
Cát đăng trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật 24-6-2001 đã vạch 9 đơn vị từ vựng của
từ điển này cắt nghĩa trật lất: khâu chẳng phải "cây vàng" (lượng / lạng
vàng); nhạc sến chưa hẳn "nhạc buồn"; tài pán khác "chủ chứa";
mắt trừu nào phải "bao cao su tránh thai"; hết xí quách đâu chỉ
"hết tiền"; ca ve (cavalière) không phải "gái mại dâm hoặc tiếp viên nhà
hàng có hành nghề mại dâm"; mặt rô (ma cô / maquereau) chưa chắc là "dân
giang hồ dao búa"; bà già không phải là mọi loại máy bay cánh
quạt.
Có thể trưng thêm cả lô
tiếng lóng bị Nguyễn Văn Khang giải thích thiếu sót, lắm phen nhầm lẫn tới
mức... phi thực! Từ ái đâu chỉ là "con trai có tính cách, cử chỉ, điệu bộ
rụt dè (sic!) như con gái". Thế con gái bị gọi ái thì sao? Chẳng qua, đó
là rút gọn cụm từ ái nam ái nữ nhằm chỉ trường hợp lưỡng giới tính
(bisexual), có khi còn được hiểu là đồng tính ái (homosexual). Tiếng lóng
ái cũng đồng nghĩa gai / bóng / pê đê / bê đê (do chữ gay và
pédérastre chỉ đồng tính ái nam); chứ bê đê không phải là "giật đồng hồ".
Giới xã hội đen quen gọi hành động giật đồng hồ bằng các tiếng lóng thổi đổng
/ bốc hồ / múc hồ / tát hồ. Từ bắt dế đâu có nghĩa "chép tài liệu vào
miếng giấy nhỏ quấn lại bằng con dế mang vào phòng thi" mà chỉ động tác nhặt tàn
thuốc lá. Từ chặt hẻo không trỏ mọi hình thức "chơi bài ăn tiền" mà là
cách gọi một lối chơi với bộ bài tây: tiến lên. Hẻo là biến âm của heo
tức con bài 2 nút. Chứ bày bài tây mà đánh xì phé, binh xập xám, dẫu ăn tiền
hay không, chẳng ai gọi chặt hẻo bao giờ. Hàng tiền đạo có nghĩa
dãy răng cửa, chứ chẳng phải "hàm răng hơi bị vẩu". Kết mô đen không chỉ
"quan hệ yêu đương" mà nói chung là thích, khoái, muốn. Mát xi mum đâu
phải "nhậu hết cỡ" mà là bất kỳ điều gì đạt tới ngưỡng cực đại, do thuật ngữ
Latinh maximum (đối lập với minimum). Mì dê vốn xuất xứ bởi chữ
tickler, tiếng Hoa Kỳ trỏ một dụng cụ dành cho dân chơi, còn gọi mắt
trừu, chứ chẳng phải "bao cao su tránh thai".
Nhiều từ ngữ bị từ điển của
Nguyễn Văn Khang ghi sai chính tả, điều khó chấp nhận đối với loại sách dùng để
tra cứu. Ví như rụt dè (rè), sui (xui / rủi) thấy mồ. Nhiều
tiếng lóng bị ghi không đúng hình thức ngữ âm. Chẳng hạn bá chảy (cháy /
chấy), chè nghim (ghim), đam (đâm) chuột. Từ chè ghim
xuất hiện bởi nói lái chìm ghe. Từ đâm chuột được diễn dịch
đâm tí rồi nói lái chệch thành đi tắm. Do thiếu tìm tòi về từ
nguyên, đặc biệt là những tiếng lóng có nguồn gốc ngoại ngữ hoặc được cấu tạo
bởi phương thức nói lái, nên Nguyễn Văn Khang chưa giải thích đúng, đủ, đảm bảo
sức thuyết phục. Đó là loạt từ đai, mo, xuya, bứt cỏ, chà đồ nhôm, hạ cờ tây,
v.v.
Lại thấy bao đơn vị từ vựng
lâu nay thuộc ngôn ngữ toàn dân, ai cũng biết, cũng hiểu, cớ sao Nguyễn Văn
Khang đùng đùng xếp vào kho tiếng lóng? Như các từ mây mưa và gò bồng
đảo vốn là các điển cố văn học mà bạn đọc quá quen thuộc qua thơ Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương. Ngay cả loạt từ ngữ bình thường, chẳng mang ý nghĩa đặc biệt và
bí hiểm gì - như ấm đầu, bà xã, bộ cánh, bộ đồ vía, của quý, gà mờ, ô dù,
phê, đã, quỹ đen, sa lưới, sâu mọt, tồ, trồng cây si, viêm màng túi, vượt cạn,
xe ôm - mà bị Nguyễn Văn Khang dán "mác" tiếng lóng e chưa thích
đáng.
Trong Việt ngữ hiện đại,
tiếng lóng ngày càng có xu hướng phát triển mạnh, nhất là với giới trẻ ở các đô
thị. Điều đó tạo hiện tượng được các nhà nghiên cứu đặt tên là ngôn ngữ đường
phố (langues de la rue / street languages). Hiểu biết và vận dụng tiếng lóng đạt
mức độ cần thiết có thể tạo nên những tác phẩm văn chương lẫn báo chí giá trị,
hấp dẫn. Jacques Prévert (1900 - 1977) ở Pháp là minh chứng sinh động: thơ của
ông đầy rẫy tiếng lóng, có tập được xuất bản tới hàng triệu cuốn. Giữa thời
nguyên tử, "cú bùng nổ thi ca" vô tiền khoáng hậu ấy khiến thiên hạ suy nghĩ
quanh câu hỏi: tiếng lóng thu hút đông đảo bạn đọc vậy ư? Với việc dịch thuật,
gặp những văn bản nhất định, cũng rất cần tiếng lóng. Tiểu thuyết The
Godfather / Bố già lừng danh của nhà văn Mỹ gốc Ý Mario Puzo (1920 - 1999)
đã được nhiều người dịch sang tiếng Việt, song bản chuyển ngữ của Ngọc Thứ Lang
thành công nhất nhờ tìm được chuỗi tiếng lóng Mỹ - Việt tương ứng.
Không những các cây bút văn
chương và báo chí, mà rất nhiều ngành hoạt động khác - như kịch nghệ, truyền
hình, phim ảnh, du lịch, giáo dục, pháp lý, từ thiện xã hội, v.v. - có nhu cầu
tra cứu từ điển tiếng lóng. Dĩ nhiên, đó phải là pho từ điển tiếng lóng được
biên soạn cẩn trọng, đàng hoàng, khoa học. Cuốn sách công cụ cần thiết kia bao
giờ mới được trình làng?
PhanxipăngĐã đăng trên tạp chí Tài Hoa Trẻ từ số 172 (15-6-2001) đến số 175 (5-9-2001)
Đăng lại trên tạp chí Thế Giới Mới 869 (18-1-2010) & 870 (25-1-2010)