Home » » CƠ HỌC TIẾN HÓA - T5

CƠ HỌC TIẾN HÓA - T5

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012 | 20:21

QUYỄN NĂM
TINH-THẦN HÓA VÀ HY-SANH
1971
SỰ CHIẾN-ĐẤU CUỐI CÙNG
Nhưng trước khi đạt được sự an-tịnh hoàn toàn, có một lúc nguy-hiểm mà “ TIẾNG NÓI VÔ THINH” đã thốt lên để báo trước. Có một lúc khi gần đạt được cái Điểm nơi đó ngọn đèn Tâm không còn xao-xuyến nữa thì cái Trí và Linh-hồn vẩn còn chiến-đấu mảnh-liệt với nhau trong một trận cuối cùng. Lúc đó cái Trí vùng-vẫy như một con voi điên trong rừng. Phải làm thế nào để thắng được nó. Đó là trận chiến-đấu cuối cùng của cái Trí. Đó là bản-ngã thấp-hèn cố gắng một lần chót để chống lại Chơn-Nhơn cao cả để vứt bỏ cái ách mà nó thấy đang đè nặng trên vai nó. Đó là sự nổi dậy của bản-ngã thấp hèn như những kinh sách nói về sự Điểm-Đạo đã đề-cập đến.
Trong tất cả Kinh sách nói về Minh-Triết Huyền-Bí điều có ghi rằng : Khi Thí-Sanh Đi Gần Đến Thềm-Cửa, Trước khi Bước Vào Thánh-Điện, Tất Cả Những Sức Mạnh Của Thiên-Nhiên Điều Hợp Lại Để Cản Bước Y. Tất Cả Những Mảnh-Lực Của Thế-Gian Điều Chống Lại Y, Để Lôi Y Về Phía Sau. Đó Là Trận Chiến-Đấu Cuối Cùng Trước Khi Hoàn-Toàn Thắng Trận.
Y phải làm thế nào để chiến-thắng ? –Trên con Đường -Đạo đầy thử-thách, y phải làm thế nào để nối gót những vị Tiền-bối. Lúc nầy, những lời dạy của Chơn-Sư lại đến cứu y, chính Ngài đã thốt ra lời khuyên-nhủ để díu dắt ta. Tiếng Nói Vô Thinh đã bảo : “ Cần phải có những cứ điểm để thu-hút Linh-Hồn con người lên với Linh-Hồn Kim-Cương”.
LINH-HỒN KIM-CƯƠNG.
Vậy Linh-Hồn Kim-Cương là Linh-Hồn gì ?
Đó là Linh-Hồn đã hợp-nhứt được với Chơn-Linh cao cả, đó là Linh-Hồn không khuyết-điểm, không dấu vết, trong suốt như một viên Kim-cương, thuần-khiết, nó tập-trung Ánh-Sáng của Đức Thượng-Đế trong một tiêu-điểu duy-nhất cho nhân-loại chúng ta. Cái danh từ oai-nghiêm mà tôi (Bà A.BESANT) vừa kể trên đây, và tôi còn có thể kể nhiều danh-từ khác nữa, chúng cũng có một ý-nghĩa tuy chúng thuộc về những ngôn-ngữ của các quốc-gia khác nhau. Danh từ nầy là tên của một Linh-hồn cao cả nhứt trong các Linh-hồn cao cả, xứng đáng với danh-hiệu Linh-Hồn Kim-Cương. Vì Ánh sáng của Thượng-Đế chiếu rọi qua Linh-hồn nầy không bị lu-mờ, vì viên Kim-Cương hết sức tinh-khiết, vì cái Linh-hồn vô-giá nầy hết sức trong trắng.
Trong những lúc ước-nguyện cao siêu, chúng ta dâng cao tấm lòng lên Linh-Hồn Kim-Cương đó, và Linh-Hồn nầy chỉ cần phóng ra một tia-sáng Mỹ-Lệ, một ngọn lửa liếm qua cũng đủ để thu-hút ta lên với nó rồi.
Vì giống như bông hoa phát-triển về phía mặt trời, Linh-hồn con người phát triển hướng về nguồn cội của chính bản-thể mình và những điểm thu hút nó chính là những tia sáng huy-hoàng mà Linh-Hồn Kim-Cương phóng ra chung quanh vậy. Linh-hồn người Đệ Tử mặc dầu còn yếu-đuối và do-dự thì cũng đồng Bản Chất với Linh-Hồn cao cả. Vì thế cho nên Linh-Hồn cao cả thu hút Linh-hồn con người bằng một thần lực rất Thiêng-Liêng để hai bên được hợp-nhứt với nhau. Và khi mà sự hiểu biết của Thí-sanh càng được minh-bạch thì y cành hiểu được Linh-Hồn Kim-Cương là gì ? Y hiểu rằng một ngày kia Linh-Hồn Kim-Cương cũng sẽ phát hiện nơi y.
“Ngươi hãy nhìn bản-thân ngươi, ngươi là Phật đấy”. Y hiểu rằng : Trí khôn của y cũng như thể xác của y chỉ là những dụng-cụ của Linh-Hồn Kim-Cương mà thôi, nếu dụng cụ nầy không thốt ra được những âm thanh xứng-đáng để có thể vang lên trên những cảnh cao siêu hơn thì nó không hữu-ích và quí-báu gì cả.
Chính lúc đó những sợi dây đàn của Linh-Hồn phải nhờ lòng sùng-đạo hoàn toàn mà được điều-hòa với nhau. Lúc đó Linh-hồn trở thành một cây đàn xứng đáng để bàn tay của Chơn-Sư khảy, một cây đàn có thể trổi vang lên tất cả những bản du-dương của cõi Trần và cõi Thượng-thiên vậy.
Đi đến trình-độ nầy, Linh-Hồn được tự do bước qua thềm Thánh-Điện và từ ở Sân ngoài đi vào trong Thánh-Điện của Đức Thượng-Đế.
TINH-THẦN HOÁ hay là KHOA LUYỆN KIM TINH-THẦN
Thí-sanh cũng nên biết về : Tinh-thần hoá hay là khoa luyện-kim Tinh-thần và Định-luật hy-sanh.
Thế nào là Luyện-kim Tinh-thần ? Theo ý nghĩa bao-quát nhứt của nó, phương-pháp Luyện-kim Tinh-thần nầy có thể được coi như một sự biến-hoá các mãnh lực.
Ai ai cũng có nơi mình Sự-Sống : năng-lực, sức-mạnh, quyền-năng của ý-chí, vân vân…Đó là sức-mạnh mà con người phải sử-dụng như khí-cụ. Đó là những khả-năng sẽ giúp cho y đạt được mục-đích.
Theo một phương-phát mà người ta có thể gọi là phương-pháp luyện-kim, y biến-hoá những mãnh-lực nầy bằng cách áp-dụng chúng vào những mục-đích cao thượng hơn. Y biến-đổi những năng-lực thô-bạo thành những năng-lực tinh-thần đã được tinh-luyện.
Không phải y chỉ thay đổi mục-đích mà thôi---không phải sự thay đổi mục-đích mà tôi (Bà A. Besant) muốn làm nổi bật lên đây mà chính là y đã thay đổi và tinh-luyện những sức-mạnh đó mà không làm hư-hoại cái bản-chất cốt-yếu của chúng.
Giống như một nhà luyện-kim lấy một thứ vật-chất thô-sơ và bắt nó phải chịu một phương-pháp tinh luyện thâm-sâu ; không những y chỉ loại ra những cặn bã ngoài mặt, mà để xúc-tiến sự tinh-luyện đến mức sâu xa hơn nữa, y chuyển nó lên đến một trạng-thái tinh-vi hơn, để khiến cho những nguyên-tố của nó tạo-thành được một thứ kim-loại quí báu và thuần-túy hơn
Chư huynh có thể tưởng-tượng nhà luyện-kim tinh thần nắm lấy mọi mãnh-lực trong bản-tánh mình, nhìn-nhận chúng như những sức mạnh đáng kể và biết rõ sự hữu ích cùng tánh-cách cần-thiết của chúng,--nhưng y biến đổi chúng, tinh-luyện chúng một cách có phương-pháp.
MỤC ĐÍCH THỨ NHÌ CỦA SỰ LUYỆN-KIM TINH-THẦN
Sự luyện-kim tinh-thần không phải chỉ có một mục-đích duy-nhất là biến-hóa các mãnh-lực, tuy rằng điều nầy là mục đích chánh-yếu của nó.
Nó còn mục đích thứ nhì nữa mà ta phải kể tới.
Những linh-hồn, chỉ vì những dục-vọng của mình mà phải bị trói buộc vào đời sống hồng-trần, vào bánh xe sanh-tử, luân-hồi. Chúng bị sự vô minh cột chặt vào đấy ; chúng bị ràng buộc bởi chúng thèm muốn hưởng thụ những thú vui vật-chất, những niềm vui vật-chất, những niềm vui được nếm trải trong sự chia rẽ, trong cảnh cô-đơn.
Luôn luôn hoạt-động, Linh-hồn tự buộc trói mình bằng những sự hành động của mình. Dù những hành động nầy là chí-thiện hay là tàn-ác, cứu-giúp hay là hảm-hại kẻ khác, luôn luôn ở trong người tầm thường, chúng có một tánh-cách chung là : LÒNG HAM MUỐN VÀ CHÍNH LÀ LÒNG HAM-MUỐN RÀNG BUỘC VÀ CỘT TRÓI CON NGƯỜI.
PHẢI LÀM THẾ NÀO ĐỂ CHO SỰ HÀNH-ĐỘNG CỨ THỰC-HIỆN MÀ CON NGƯỜI VẪN ĐƯỢC TỰ-DO.
Đây cũng là một trường hợp luyện-kim Tinh Thần. Nhờ sự luyện-kim nầy, con người Tiến-Hóa nhất sẽ hành động một cách hết sức linh-hoạt để phụng-sự nhơn-loại,---nhưng việc của Ngài làm không ràng buộc Ngài vì Ngài là môt Linh-hồn đã được giải-thoát.
Đó là một thí-dụ, thoạt đầu xem chừng nó có vẻ mâu-thuẩn : một sự giúp-đỡ để cho người chủ được hoàn-toàn tự-do.
Nay khi đề-cập đến một sự luyện-kim tinh-thần, nó khiến cho ta được hoàn-toàn tự-do, tôi muốn nói đến Định Luật Hy-sanh căn-bản,---đó là Định Luật tối-cao trong cõi Thế-giới hữu hình nầy, nó là căn bản của mọi sự, luôn luôn nó được tuyên-bố từ xưa đến nay.
SỰ HY-SANH.
Trong cõi Hạ-giới, sự hy-sanh có thể được coi như là một sự giúp-đỡ lẫn nhau; sự quay chuyền không ngừng bánh xe đời, trong đó mỗi người thu-nhận và ban rải ra . Con người không thể tránh sự thu-nhận, và không thể khước-từ sự ban ra.
Trong sự làm quay chuyển bánh xe đời không ngừng, mọi vật đều có dự-phần vào trong đó, dù một cách hữu-ý hay vô-tâm. Sự hợp-tác của chúng có tánh-cách hữu-ý nhiều hay ít tùy theo chúng đã tiến-hóa đến đâu.
Sự hy sanh theo cách đó đã được trình bình bày rõ rệt, còn rõ-rệt hơn bất cứ ở nơi nào khác, trong Kinh Bhagavad Gita (Khúc ca của Thượng-Đế), một trong những Thánh-Kinh của Ấn-Độ, nói về Bánh xe của Sự Sống, trong đó chư huynh biết được cái điều cần phải biết, là CÁI CÁCH-THỨC HỢP NHỨT SỰ HY-SANH VỚI SỰ HÀNH-ĐỘNG.
THƯỢNG-ĐẾ, vị Sư-Phụ cao cả nói :
“Thế-gian bị ràng buộc bởi một hành-động nào mà không có sự hy sanh làm mục-đích. Vậy hởi con cái của Kounti (1) [(1) Kounti là mẹ của 3 vị : Ardjouna, Bhima và Souddhichthrita. ] trong khi hành-động, nhà ngươi phải lấy sự hy-sanh làm mục đích và tự giải-thoát “ ra khỏi mọi điều ràng buộc”…..
Chư huynh có trước mặt cái bánh xe luân-chuyển của Sự-Sống, nó làm ra nền tảng của sự Hy Sanh trong các Tôn-giáo. Tôn-giáo càng tinh khiết, càng cao-thượng bao nhiêu thì cái ý-niệm hy-sanh thấm nhuần nó lại càng tinh-khiết và cao-thượng bấy nhiêu. Chư huynh hãy chú-ý rằng ở nơi đây, chúng ta thấy cái tư tưởng luyện-kim là luôn luôn biến-đổi, đã thực-hiện đến mức-độ nào. Đồ ăn biến-thành chất bổ dưỡng nuôi sanh-vật, nhưng muốn có đồ ăn thì phải có mưa, muốn có mưa rơi xuống thì phải cúng-kiến Thần-minh, và Thần-minh sẽ nuôi dưỡng sanh-vật.
Chư huynh luôn luôn gặp sự vận-chuyển rõ-ràng theo cái vòng tròn nầy trong các Tôn-giáo lớn thời xưa. Thí dụ người Bà-la-môn ném lễ vật vào lửa vì người ta nói rằng : Thần Agni (Hỏa-Đức Tinh Quân) là miệng của các Đâng Thần-minh. Ngày xưa người ta ném lễ vật vào lửa và đọc những câu thần-chú, những câu châm-ngôn, do những những vị Minh-triết đặt ra. Các Ngài cho những lời nói của câu thần-chú có ảnh-hưởng đối với những mãnh-lực thấp-thỏi của Thiên-Nhiên---Cách dâng lễ vật như vậy khiến cho những sức mạnh thiên-nhiên (mưa gió) được thuận-hòa, ảnh-hưởng đến trái đất, sanh ra những rau trái, những thực-phẩm cho con người. Tuy dâng lễ-vật là một hành-động tượng trưng cho điều có thật và sức mạnh được thốt ra tự miệng của nhà Tu-sĩ hành-lễ tinh-khiết cũng có thật nữa. Sự tượng-trưng nầy dạy cho dân gian biết rằng : đời sống chuyển-động theo vòng tròn. Họ phải hiểu rằng : trong bản-chất của nó, sự hành-động phải là sự hy-sanh và tất cả mọi hành-động điều bắt-buộcphải có tánh cách hy-sanh, hay là nói theo cách khác, ta phải hành-động vì đó là điều lành chớ không phải là vì một lý-do nào khác.--- Phải hành-động để cho con người được điều hòa với Định-Luật,---phải hành động vì đấy là cái cách con người ứng-đối với Định-Luật, và đó là phần công-tác của y trong công-nghiệp chung.
Theo thuyết nầy thì sự hy-sinh là một sợi dây bằng vàng liên-kết vạn-vật trong thế-giới hữu-hình nầy, và Hành-động là căn-bản của sự hy-sinh, sự hành-động phát-sanh từ nơi Đức Thượng-Đế sáng-tạo. Ngài tự biểu-lộ trong Vũ-Trụ nên người ta nói rằng :
“Brahman, Đức Thượng-Đế ngự-trị trong mổi sự hy-sinh. Từ đó mỗi bổn phận điều coi như là một bổn-phận đối với thế-gian, không ham muốn gì cho cá-nhân mình, không muốn điều lợi-ích riêng-tư nào cho mình, không mong-mỏi kiếm được cái bản-ngã chia-rẽ; chính ở bản-ngã nầy ta thấy lộ ra cái lý-do thấp-hèn ti-tiện, ích-kỷ, nó ngự sau nầy ở trong sự hy-sinh.
Đó là đặc-tính của sự luyện-kim, nó góp sức làm quay-chuyển bánh xe của đời sống, làm đầy đủ bổn phận mình vì mến yêu bổn-phận, biến-hóa sự hành-động thành một sự hy-sinh, đốt cháy những sợi dây ràng buộc của dục-vọng và giải-thoát con người đã giác-ngộ. Được ngọn lửa Minh-triết tinh-luyện như vậy, sự hành-động không còn ràng buộc được Linh-hồn nữa. Linh-hồn hợp-tác với Thượng-Đế trong thiên-nhiên, và mổi hành động được hiến dâng lên bàn thờ của bổn-phận điều trở thành một sức-mạnh làm quay chuyển bánh xe của đời sống, nhưng không còn có thể trói buộc Linh-hồn được nữa.
Sự trao đổi liên-tiếp bất-biến nầy, sự giúp-đỡ lẩn nhau nầy, là hình-thức của Đại-Luật Hy-Sinh.
Sự biến-đổi đã xong xuôi, việc làm đã được thực-hiện như một bổn-phận thì trở nên một thành-phần của sự điều-hòa của Vũ-Trụ, thúc đẩy sự tiến-hóa và giúp cho nòi giống tiến-bộ một cách rõ-ràng.
Công việc của Tân Tín đồ ở Sân-ngoài là tự luyện-tập lần lần để hành động trong cái Tinh Thần Hy-sinh đó, y hiểu rõ-ràng rằng y làm như vậy mà không tìm kiếm một sự gì, không mong mỏi một mối lợi gì, không nài xin một phần thưởng nào, y làm vì bổn-phận chớ không phải vì một lý-do nào khác. Hành-động như vậy tức là thực-hiện khoa luyện kim Tinh-thần, nó tinh-luyện mỗi hành-động trong ngọn lửa của sự Minh-triết, và vì tự điều-hòa một cách có ý-thức với Thiên-ý trong Vũ-Trụ hữu hình cho trở thành một sức mạnh thúc đẩy sự tiến-hóa, một năng-lực nâng đỡ sự tiến-bộ.
Tất cả nhơn-loại điều được hưởng quả tốt của sự hành-động nầy; nếu nó không có tánh-cách hy-sinh thì nó sẽ chỉ đem lại cho kẻ chủ-động một kết-quả cá-nhân mà thôi, và cái kết-quả đến lượt nó, lại trở thành một sợi dây ràng buộc Linh-hồn, làm giảm bớt những khả-năng tiềm-tàng của nó trong điều thiện.
Đó là lối tác-động của Định-Luật Hy-sinh được xem-xét theo quan-điểm thấp kém.
QUAN-ĐIỂM CAO-SIÊU CỦA ĐỊNH-LUẬT HY-SINH
Bây giờ ta hãy nghiên-cứu nó trên một Quan-Điểm cao siêu.
Cái tư-tưởng mà tôi xin chư huynh có ngay lúc ban đầu là xem-xét sự hy-sinh ở trong bản-chất theo tôi dường như Hy-sinh có nghĩa là cho ra, ban rải ra phía ngoài. Lý do của nó là muốn cho ra, cái tinh-hoa của bản-chất nó là rất muốn ban rải ra ngoài một vật sở-hữu, một vật mà người chủ rất quí-trọng, vì đó là một báu vật nên người sở-hữu muốn ban phát nó ra để giúp đỡ và làm vui lòng kẻ khác.
Vậy thì lần nầy, tự một quan-điểm nội-tâm, chớ không phải theo ở bề ngoài, ta phải coi sự Hy-sinh trong thiên-nhiên là sự cho ra, sự ban rải ra ngoài để cho kẻ khác được sung-sướng. Vì vậy nên sự Hy-sinh trong căn-bản của nó, là một niềm vui chớ không phải là một nổi đau-khổ. Có thể nói rằng : đặc tính của sự hy-sinh là niềm-vui vì được tự hiến dâng.
Chư huynh sẽ hỏi tôi : Tại sao lại trong niềm-vui ?---Vì tôi đã xin chư-huynh đi theo tôi đến trái tim sự-sống và trung-tâm của cõi đời hữu-hình nầy. Tôi đã dám nói ở một cuốn sách khác (Minh-Triết Cổ truyền--La Sagesse antique) rằng : sự hy-sinh cao cả là cái hành-động do đó, Đức Thượng-Đế, tức là Đời Sống Duy-nhất, tự hạn-chế lấy mình, do đó Ngài đã sanh ra Đức Thượng-Đế hữu-hình, dưới hình-thức, năng-lực
Vậy thì Định-Luật Hy-sinh có nguồn-gốc nơi Bản tánh thiêng-liêng. Sự Hy-sinh cao cả sinh-sản ra Vủ-Trụ, chính là Thiên-Nhiên Chí-Phúc, tự Hiến-Dâng, vì vậy tất cả điều có mục-đích, chia sớt, ban rải Hạnh-phúc. Sau chót, cội rễ của sự Hy-sinh của Thượng-Đế là niềm vui, vì được tự ban rải ra ngoài để có thể hợp nhứt nhiều Linh-hồn lại với Ngài,---hiệu-quả của sự hợp nhứt nầy là sự “AN-LẠC TUYỆT VỜI” không thể quan niệm được……….
Một khi đã rõ thì ý-tưởng nầy khiến ta nhận-thức rõ-ràng được Định-Luật Hy-sinh và nhìn thấy hai khía cạnh của nó trong sự cho ra.---Trước nhứt là có sự vui, nhưng Bản-ngã thấp-hèn lại tham-lamhơn là rộng-lượng cho nên theo quan-niệm của Bản-ngã thấp-hèn “Sự Hy-sinh không ngớt là đau-khổ” Nhưng mà chỉ tại người ta chưa thông hiểu Luật Nhân-Quả,---Người ta tưởng rằng hể Bố-thí thì mất tiền của, không dể kiếm lại được.---Nhưng mà thật-sự : khi mình bố-thí bao nhiêu thì chẳng bao lâu, Thiên-Đình sẽ cho mình có lại bấy nhiêu,---mà thường thường, của thâu vô còn cao hơn số mình đã xuất ra nữa.
Ai có kinh-nghiệm điều chứng minh rằng : Sự nầy quả luôn luôn có thật như vậy, không bao giờ sai.
Làm những việc Phước Đức với tấm-lòng Vô-Tư-Lợi tức là Hy-sinh, không hề trói buộc Hành-giả vào bánh xe Luân-hồi.
SỰ HY-SINH CỦA TIÊN-THÁNH VÀ CÁC VỊ ĐỆ TỬ
Người ta đã nói với chúng ta về những vị Đệ-Tử Hy-sinh, không màng lên cõi Thiên-Đường, xin trở lại thế-gian liền đặng Phụng-Sự. Các vị Tiên-Trưởng Hy-sinh từ khước cảnh Niết-Bàn.
Như vậy chúng ta phải hiểu rằng : mặc dầu chúng ta cảm thấy điều nầy môt cách mơ-hồ,---tất cả những vị nầy đã hợp-nhứt với các huynh-đệ của mình cho đến mức sự chia sớt cái kết-quả của những cố-gắng của các Ngài với kẻ khác là một bổn-phận thiêng-liêng của các Ngài vậy ; --- cái phần-thưởng thiệt thọ của các Ngài không phải là niềm vui ở Thiên-Đường, không phải là những hạnh-phúc tuyệt vời không thể tưởng-tượng được ở cảnh Niết-Bàn. Các Ngài chỉ muốn hưởng một niềm vui duy-nhất là chỉ cổi bỏ những sở-hữu của các Ngài, cổi bỏ những gì mà các Ngài có thể thụ-hưởng, đặt chúng vào một nơi để làm của chung cho tất cả mọi người. Theo cách đó : các Ngài thúc đẩy sự tiến-hóa tổng quát ; các Ngài dự một phần vào cái công việc thúc đẩy sự tiến-bộ của nhơn loại, trong đó các Ngài cũng là những phần-tử.
TẠI SAO NGƯỜI ĐỆ-TỬ PHẢI CÓ MỘT HẠNH-KIỂM VƯỢT BỰC NGƯỜI THƯỜNG
Trước khi kết-thúc, tôi tưởng phải nhấn mạnh một lần nữa về việc bắt buộc người Đệ-tử phải có một Hạnh-kiểm vượt bực người thường.
Chu huynh hãy thí-dụ rằng y hãy còn có những nhược-điểm rất thông-thường của thế-tục; như là : các lổi lầm của những kẻ xung-quanh hãy còn làm cho y nổi giận, những việc thường xảy ra trong đời sống hằng ngày còn làm được cho y nản lòng, bối rối ; chư huynh thử thí-dụ y không làm chủ được sự bình-tỉnh của mình, y không có một tấm lòng từ-bi luôn luôn tăng-trưởng, một tấm lòng thiện-cảm bao-la và rộng-rải, chu huynh thử thí-dụ rằng một khi bị chửi rủa, y nổi giận chớ không phát tâm từ-bi, y quạu quọ chớ không tha thứ, nói tóm lại là y hẹp-lượng khoan-hồng và không kiên-nhẩn---nếu thu-nhận một người như vậy vào trong Thánh-Điện, nếu đặt vào tay y, dù rất ít, những quyền-năng phi-phàm vượt mức người thường thì kết quả ra sao ? --Người ta sẽ lo ngại hay biết chắc-chắn rằng những lổi-lầm nhỏ bé đó---rất thông-thường với những người thế-tục sẽ xảy ra những tai-hại kinh-khủng. Nếu một người Đệ-tử hay nổi giận thì những quyền-năng mới được nảy nở nơi Linh-hồn y, cái sức mạnh của ý-chí y, cái sức mãnh-liệt của Tư-Tưởng y nếu không được ngự-trị thì y sẽ là nguồn gốc của sự nguy-hiểm cho các đồng-loại. Thí-dụ y không lòng khoan-dung, y không biết thương-xót, không thông cảm với những ai còn có những khuyết-điểm mà y đã ngự trị được rồi, không hiểu được rằng sự sa-ngã là một việc rất dễ-dàng, thì người đã được Điểm-Đạo sẽ sống cách thế nào giữa nhơn-loại ?
Y có thể nhìn rõ những tư-tưởng, phân biệt những nhược-điểm, nhìn thấy cái hào-quang mà chúng ta vừa nói đến ở trên kia, và có thể đọc ở đó như đọc trong một cuốn sách mở rộng mà biết những nét đặc-biệt sâu kín của tánh nết mà con người thường phải giấu-giếm nhau dưới lớp che-đậy bề ngoài, người có Thần-nhản nhìn thấy thực-trạng của tâm-hồn đồng-loại mình, chớ không phải dáng-điệu của họ muốn phô-trương đâu, một người như vậy thì sẽ ra sao ? Dĩ nhiên không phải là làm mộtviệc chánh-đáng hay hữu-ích khi trao quyền-năng như vậy---và đó là một quyền-năng nhỏ bé nhất của kẻ đã được Điểm-Đạo---cho một người mà sự thử-thách vốn chính y đã trải chưa tập cho y biết thương-xót những người yếu-đuối hơn, một kẻ mà sự hồi-ức lại những làm-lỗi cũ của chính mình y, không khiến y cúi xuống để cứu giúp và tội-nghiệp cho người tội lỗi nhất trong đám đông mà y gặp trên đường.
Thật là một điều công-bằng và tốt lành khi bắt buộc người Đệ-tử phải có đầy-đủ những điều-kiện gắt-gao bất di bất dịch đó trước khi bước qua thềm Thánh-Điện. Y bắt buộc phải loại trừ một phần lớn những lổi-lầm thông thường của con người trước khi được thu-nhận vào Thánh-Điện Oai-Linh là nơi chỉ để dành cho người phụ-tá đã hiến mình cho công việc phụng-sự và cỏi lòng tràn-trề tình yêu nhơn-loại. Và cái công việc mà y phải hoàn-thành có vẻ vĩ-đại đến nỗi ở bước đầu, y phải thực-hiện được một sự tấn-bộ rõ-ràng, đó là một điều cần-thiết. Vì công việc nầy chính là việc tiêu-diệt mọi dấu vết của những nhược-điểm của con người, hoạch-đắc tất cả những sự hiểu biết trong giới-hạn vũ-trụ của chúng ta, phát-triển nơi bản-thân những quyền-năng có thể để sự hiểu biết ở trước mặt mình và cần tự chú-định vào một phương-hướng nào thì ngay khi đó thâu thập được tất cả những gì đáng hiểu.
Đó quả thật là cái trạng-thái của các vị Chơn-Tiên. Vị Chơn-Tiên là “Người không còn học hỏi về một điều gì nữa” trong Thái-Dương-hệ nầy và quả vị Chơn-Tiên chỉ là đoạn chót của con Đường-Đạo ở bên trong Thánh-Điện mà hiện giờ chúng ta đang xem xét đây, và chúng ta phải vượt qua trong vài kiếp ngắn-ngủi,-- đó là một công việc vĩ-đại, một sự thực-hiện cao siêu đến nỗi nếu không có những người đã hoàn-thành được nó trong dĩ-vãng, nếu không có kẻ khác đang hoàn-thành nó trong hiện-tại thì nó sẽ dường như là không sao thực-hiện nổi. Theo quan-điểm của những người tầm-thường thì không thể nào làm được khi ấn-định cho năm bảy kiếp sống ngắn-ngủi phải thực-hiện một sự tiến-bộ phi-thường, nó đem người Đệ-tử từ một trình độ tương-đối thấp kém của sự Điểm-Đạo lần thứ nhứt tiến lên đến cái chót đỉnh cao-siêu của các vị Chơn-Tiên toàn-thiện, các Ngài là những đóa hoa, là cái kết-quả rực-rỡ của sự tiến-hóa của nhơn loại. Và nếu đó là công việc khó-khăn mà chúng ta phải hoàn-thành và nếu trong con người của vị La-Hán sắp bước qua kỳ Điểm Đạo chót không còn một dấu vết gì của sự yếu-đuối và sự vô-minh của thế-tục, thì thật không có chi là đáng ngạc-nhiên khi phải cố-gắng rất nhiều ngay từ khi chưa được bước qua Thềm Thánh-Điện ; không có gì là đáng ngạc nhiên nếu những nền móng mà chúng ta đã nói đến ở trên kia---chúng ta phải chịu đựng cái sức nặng của một toà lâu-đài khổng-lồ thì chúng phải thật chắc-chắn vững-vàng.
ĐOẠN-KẾT
Trong khi miêu-tả những giai-đoạn của con đường Nhập-Môn, trong khi dùng những danh-từ vụng-về mà nói về những điều đang đợi chờ chúng ta ở phía bên kia những Kim-Môn, những cánh cửa bằng vàng, có khi tôi tỏ ra là quá nghiêm-khắc chăng ?---Có đôi khi tôi miêu-tả con Đường-Đạo với những màu sắc đen tối quá chăng ? Nếu có vậy thì đó là lỗi ở nơi tôi, chớ không phải tại con Đường-Đạo ; nếu có vậy thì tại diễn-giả bất tài chớ không phải tại những điều mà tôi rán miêu-tả một cách khuyết-điểm. Vì tuy có sự khó khăn, có sự chiến-đấu và có sự đau-khổ, nhưng thật vậy, ai đã vào Sân-Ngoài---chớ không cần phải nói gì về những người đã vượt cửa Kim-Môn---một khi đã vào đến Sân-Ngoài thì tất cả kho tàng của trần-gian cũng không còn quyền-năng cám-dỗ họ phải đi xuống cái điạ-vị cũ của họ.---Và đối với những ai đã bước qua thềm cửa, thì hỏi có một niềm vui nào, một lời hứa-hẹn nào của trần-gian lại còn có thể sai khiến họ quay nhìn lại cõi đời mà họ đã bõ, dù chỉ trong chút lát ? Vì những nỗi khó-khăn của con Đường-Đạo đang ở trước ta đây còn đáng giá hơn là những niềm vui của hồng-trần ; những sự đau-khổ của con đường nầy còn vinh-quang hơn những sự thịnh-vượng của thế-gian. Nếu chư huynh có thể thâu hết, trong một kiếp người tất cả những niềm vui mà cõi trần có thể hiến-dâng, nếu chư huynh để cho trọn đời chứa toàn thú vui với cái khả-năng thụ-hưởng không ngừng không nghỉ, nếu trong một kiếp người, chư huynh có thể thâu góp mọi thú vui của giác- quan, mọi thú vui của trí-thức mà con người có thể hưởng được, nếu chư huynh có thể xóa bỏ được mọi dấu vết của sự đau-khổ và mệt-mỏi, nếu chư huynh có thể lấy điều đó làm một đời sống lý-tưởng như là cõi đời có thể cung-cấp cho chư huynh một lý-tưởng như vậy, nếu chư huynh mang tất cả những thứ ấy mà so-sánh với những cấp-bực của con Đường-Đạo, thì mặc dầu ở phía ngoài nhìn vào, những cấp bực nầy có vẻ như nghiêm-khắc, khó-khăn đến đâu đi nữa, đời sống đầy những thú vui hồng-trần nầy như ti-tiện và đen tối, những tiết-diệu du-dương của cõi trần giống như những âm-thanh hỗn-độn nếu đem so-sánh chúng với những cung đàn tuyệt-diệu đang vang lên ở cõi cao-siêu. Vì trên con Đường-Đạo nầy, mỗi khi tiến về phía trước thì không làm sao còn thối lùi lại phía sau được nữa ; mỗi sự đau-khổ mà ta phải chịu, dù sâu-xa đến đâu mặc lòng, cũng là điều tốt lành, vì nó đã dạy cho ta một bài học.
Và khi mà sự vô-minh được giảm bớt đi, thì con Đường-Đạo được trở nên sáng-suốt hơn trước, khi mà sự yếu-đuối tan đi thì con Đường-Đạo trở nên yên-tịnh hơn trước, khi mà những làn rung động Hồng-Trần không thể phá quấy và làm mếch lòng ta nữa, thì con Đường-Đạo trở nên bình-thản êm-ả hơn lên. Riêng chỉ có những Đấng đã Thành-Đạo mới có thể nói rằng ở mức cao nhứt của con Đường nầy là có những gì ; chỉ riêng những Đấng Cao-cả đang đứng ở chót đỉnh để đợi chờ chúng ta trải qua những thế-kỷ mới có thể nói lên điều đó được. Nhưng những kẻ mới đặt chơn lên những giao-đoạn thấp điều bìết rằng : những nỗi buồn-rầu của con Đường-Đạo lại là những niềm vui khi ta so sánh chúng với những thú vui hồng-trần và cái bông-hoa nhỏ nhứt mọc lên trên Đường-Đạo có giá-trị tương-đương với tất cả những bảo-vật ở thế-gian. Và cái ánh-sáng luôn luôn soi tỏ con Đường-Đạo là như thế đó, khi người Đệ-tử càng ngày càng tiến bước và chỉ có một tia sáng của nó thôi cũng đủ làm cho lu-mờ ánh-sáng của Thái-dương-hệ ở trần-thế. Những ai đi trên con đường nầy điều biết sự an-tịnh không thể tưởng-tượng được, sự hoan-lạc mà không một nỗi khổn-khó nào của cõi trần làm cho tiêu-diệt được. Họ an-hưởng một sự nhàn-hạ vô-biên trên một tảng đá mà không một trận địa-chấn nào có thể làm cho tan vỡ và Niềm Chí-Phước tức là Hạnh-Phúc tuyệt vời luôn luôn đang ngự-trị ở trong Thánh-Điện.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved