skip to main |
skip to sidebar
MỀM NHƯ NƯỚC
" Dẻo dai
vốn sẵn tính trời"
Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu: cứng
ngắc.
Hoàng Hạc lâu Vũ Hoàng Chương: mềm mại
Hoàng Hạc lâuTản Ðà: mềm
mại, lưu
loát
Vẽ, nặn, chạm, tạc: như nói, như
thơ
Múa,
kịch: cũng như nói, như thơ
Ăn mặc: thứ áo cho
trông thấy... gió
Nhạc: nuôi, nắn... âm
thanh
Từ đồ
đồng đời Thương tới lời Khổng Tử
Thứ nước làm mềm đá
"Dẻo dai vốn sẵn
tính trời"(1)
Dân tộc Việt Nam ứng xử linh
động, mềm dẻo, cái ấy đã nhiều người biết.
Trong Việt Nam văn hóa sử
cương, Ðào Duy Anh nhận xét người Việt "bắt chước, thích ứng và dung hóa
(...) rất tài."(2)
Trong Tư tưởng phương
Ðông..., Cao Xuân Huy cho rằng người Việt "có cái đặc
tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước", "Nước (...) dễ tính
(...) không phải là vì nó không có cá tính. Trái lại, đó là cái khả năng thích
ứng vô hạn của nó (...) chính cái khả năng thích ứng (...) là cái tính ưu việt,
cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta."(3)
Hai học giả, hai cách nói,
nhưng không có gì để nghi ngờ: Ðào Duy Anh và Cao Xuân Huy chính đang phát biểu
về cùng một nét nền tảng quan trọng trong bản tính dân tộc. Cả hai hẳn đã dựa
vào diễn biến lịch sử, quá trình phát triển xã hội, và nề nếp sinh hoạt mà rút
ra kết luận ấy.
Gần đây, Phan Ngọc, Trần
Quốc Vượng, Nguyễn Huệ Chi, Trần Ðình Hượu, Trần Ngọc Thêm v.v., mỗi khi có dịp
trình bày nhận định về bản sắc văn hóa Việt Nam đều không quên nhấn mạnh đặc
điểm linh hoạt.
"Trăm miệng" một lời: Dân
tộc ta tính mềm như nước.
"Nghệ
thuật là người."(4) Cái mềm độc đáo trong tính nết có để lại
vết tích rõ ràng nơi các nghệ phẩm của người Việt chăng?
Hoàng Hạc lâu Thôi
Hiệu : cứng ngắc
Ðây có lẽ bài thơ Ðường được
nhiều người dịch qua tiếng Việt nhất xưa nay.
Nguyên tác, theo âm
Hán-Việt:
"Tích nhân dĩ thừa hoàng
hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục
phản
Bạch vân
thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ
châu
Nhật mộ
hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu".(5)
Thành khẩn đọc đi đọc
lại, bài thơ tám câu, sáu câu đầu nghe chẳng những không êm tai, lại còn thấy...
tưng
tức! May được hai câu chót, "đỡ" hơn.
Thơ Tàu mà được hai câu "êm"
tai Việt, là đã ngoại lệ.
Trong Ðường thi, khi
nhận xét về một bài thơ của Trương Kế, Trần Trọng Kim đã vô tình nói ra sự thực
ấy: "Bài thơ này hay ở âm điệu, ít khi làm được như thế."(6)
Bài Phong kiều dạ
bạc:
"Nguyệt lạc ô đề sương
mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San
tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền".
Ðúng là êm cả bài. Nhưng bài
có vỏn vẹn bốn câu!
Thơ Tàu, ngay cả thơ đời
Ðường, điển hình không hay về âm điệu. Nói nôm na, là thứ thơ cứng đơ, cứng
ngắc.
Hoàng Hạc lâu Vũ
Hoàng Chương: mềm mại
Bài thơ nào cũng làm một
bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, làm theo một thứ luật nào đó.
Thơ Tàu cứng do luật hay
cứng do tiếng?
Vũ Hoàng Chương có lần dịch
Hoàng Hạc lâu thành một bài thơ tiếng Việt luật Tàu:
"Xưa cánh hạc bay vút
bóng người
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay
mãi
Trắng một
màu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai
chơi
Gần xa
chiều xuống, đâu quê quán?
Ðừng giục cơn sầu nữa sóng
ơi!".(7)
Thơ Vũ Hoàng Chương mềm mại,
nhẹ nhàng hơn thơ Thôi Hiệu.
Làm theo cùng luật mà thơ
"đổi giọng", thì chỉ có thể do đổi tiếng.
Tiếng Việt có gì
lạ?
Theo Cao Xuân Hạo, câu
trong tiếng Việt được cấu tạo theo công thức Ðề (tài) - Thuyết
(minh). Ðấy là lối cấu trúc cực kỳ linh động.
Theo Trần Ngọc Thêm,
nghệ
thuật ngôn từ dân tộc "có đặc điểm ÐỘNG và LINH HOẠT (...) trước hết bộc
lộ ở hệ thống ngữ pháp."(8)
Tiếng mềm, cho nên
thơ mềm, ngay cả khi vẫn còn làm theo luật "cứng".
Hoàng Hạc
lâuTản Ðà: mềm mại, lưu loát
Nếu dịch mà đổi cả thể thơ
nữa thì sao?
Hoàng Hạc lâu, tiếng
Việt, lục bát:
"Hạc vàng ai cưỡi đi
đâu
Mà
đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ
còn bay
Hán
Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ
non
Quê hương
khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng
ai".(9)
Bài thơ dịch nổi tiếng của
Tản Ðà vừa mềm mại, nhẹ nhàng, vừa trôi chảy như... mây trôi nước
chảy.
Vũ Hoàng Chương dùng tiếng
Việt, Tản Ðà cũng dùng tiếng Việt. Chỗ khác nhau về phong cách giữa hai bản dịch
hiển nhiên là ở thể thơ.
Nguyễn Hưng Quốc nhận
xét về thể lục bát: "câu lục thường đóng vai trò (...) gợi mở (...) câu bát
(...) có chức năng chuyên chở nội dung thông báo."(10) Thế là cấu trúc Ðề-Thuyết chứ
gì! Ðề-Thuyết đặc biệt linh động, do đó lục
bát đặc biệt "hoạt bát"!
Thơ làm bằng tiếng Việt thì
từng câu mềm. Nếu lại làm theo thể lục bát nữa thì chính cái cách tổ chức bài
thơ nó cũng mềm.
Kết hợp hai cái mềm
làm
"Thử địa không dư Hoàng
Hạc lâu"
hóa
"Mà đây Hoàng Hạc riêng
lầu còn trơ".
Một đằng cứng cỏi, cô
đọng. Một đằng mềm mại, lưu loát.
Tiếng Việt mà đem làm thơ
lục bát, tưởng kết quả có thể xem là chính nhạc rồi. Thảo nào Xuân Diệu bảo:
"Truyện Kiều còn là một bản nhạc dài"!(11)
Cùng một ý "Lầu Hạc", giờ có
đến ba bài thơ.
Thơ hẳn là người. Ðọc thơ,
hãy thử vẽ người.
Vẽ Thôi Hiệu thành một người
Hoa Bắc mặt mũi lầm lì, khô khan (12), trong phẩm phục thiên triều đầy đủ cân
đai hia mũ.
Vẽ Vũ Hoàng Chương thành một
người Việt Nam với nét mặt linh hoạt, tình cảm, nhưng vẫn trong triều phục cầu
kỳ, trịnh trọng.
Vẽ tác giả Thề non
nước thành một người Việt khác, cũng mặt mũi linh hoạt, tình cảm, nhưng
"diện" áo dài khăn đóng đơn giản, tự nhiên!
Vẽ, nặn, chạm, tạc: như
nói, như thơ
Nghiên cứu mỹ thuật đời
Lý, Thái Bá Vân nhận ra "sự nổi dậy kín đáo của một ý chí nghệ thuật
cương quyết nhưng mềm mại (...) một nét thuộc bản sắc dân
tộc".(13)
Ngắm nghía các tượng Phật
đời Lý, Chu Quang Trứ cũng thấy chúng "biểu hiện sức sống (...) mãnh liệt" với
những "đường nét hết sức mềm mại và uyển chuyển, bố cục cân xứng nhưng không đơn
điệu (...) Nét dân tộc bật ra rất rõ, quán xuyến (...) toàn bộ (...) khác hẳn
các hình tượng cùng đề tài của những dân tộc láng giềng."(14)
Lạ lùng, cái phong
cách nghệ
thuật độc đáo ấy ta đã có từ hàng ba nghìn năm trước đời
Lý!
Khảo cổ học đã chứng minh
người Việt Nam là con cháu của những cư dân văn hóa Ðông Sơn. Văn hóa Ðông Sơn
có gốc ở văn hóa Phùng Nguyên, bắt đầu sớm trong thiên kỷ hai trước Tây
lịch.(15) Ngắm nghía đồ gốm Phùng Nguyên, Hà Văn Tấn thấy người vẽ trang trí "ưa
thích họa tiết tạo nên bằng những đường cong. Tất cả đều uyển chuyển, thanh
thoát, dứt khoát mà vẫn mềm mại, nhịp nhàng mà không đơn điệu."(16) Trong
Nguồn gốc Mã Lai..., Bình Nguyên Lộc cũng bảo: "Ðồ gốm (...) ở Cổ Việt
Nam (...) khéo không kém đồ gốm cổ của Tàu, nhưng (...) khác
hẳn."(17)
Nhận định về mỹ thuật Việt
Nam nói chung, từ xưa tới nay, Thái Bá Vân bảo "nhịp nhàng, cân xứng (...) là
hai chỉ tiêu nền tảng".
Tưởng hai chỉ tiêu ấy
đem làm nền tảng cho tiếng Việt, thơ Việt
cũng tốt.
Tức ta vẽ, nặn, chạm, tạc cũng cùng y một cách ta nói, ta
thơ!
Múa, kịch: cũng như nói,
như thơ
Chèo cực thịnh cách nay
khoảng vài trăm năm (18), bây giờ xem lại chèo cổ thấy người Việt Nam múa may
tài tình kém chi ai!
Lưu Bình - Dương
Lễ, cái đoạn lúc Châu Long và Lưu Bình "đụng độ" ở quán
"đề thơ": trai tài gái sắc, trước kẻ xôn xao người e ấp như bướm vờn hoa, sau cả
đôi quấn quít dập dìu như chim liền cánh (tuy thực ra tay vẫn chưa chạm bàn
tay)!
Múa mà dẻo dang, mềm mại,
bay bướm, nhẹ nhàng như thế, tưởng có ngại gì nếu phải đem ra so với cách uốn éo
của những dân tộc khác. Trong lối múa chèo độc đáo của ta, diễn viên thậm chí
chẳng cần chuyển đến thân mình, chỉ nội một cổ tay xoay tròn cũng đủ gợi bao
nhiêu tình, ý.
Tất nhiên chèo không chỉ là
múa. Trên sân khấu truyền thống, Trần Ngọc Thêm thấy rõ "tính linh hoạt"(19) qua
sự việc diễn viên không nhất thiết theo sát bài bản của tích diễn và qua đặc
điểm có thể có sự tham gia của người xem!
Nghệ thuật sân
khấu của ta, như thế, giống nghệ thuật ngôn từ ở chủ trương cố tình
lỏng lẻo trong cấu trúc.
Ăn mặc: thứ áo cho
trông thấy... gió
Cách đây chưa lâu
chiếc áo dài Việt Nam đã đăng quang trong một cuộc thi trang phục thế giới tổ
chức ở Nhật. Dân xứ Phù Tang đối với nghệ thuật ta quả là tri kỷ! Ðặc biệt
quý ở chỗ giữa bao ứng phẩm họ chọn áo của ta, vốn hoàn toàn đối nghịch với áo
của họ.
Thực vậy, trông một phụ nữ
Nhật đi như chạy lúp xúp trong chiếc kimono mấy lớp, tai ta như nghe được
tiếng sột soạt của vải của hồ, của gò bó, cứng nhắc. Trái lại, ngắm một cô gái
Việt Nam đi đứng khoan thai trong chiếc áo dài, nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Ðàm
trông thấy ngay được... gió! (20)
Ông Nguyễn chú ý đến cái
phấp phới thơ mộng của tà áo và ông tả nó cách độc đáo. Một nghệ sĩ tạo hình
khác, họa sĩ Thái Tuấn, thưởng thức vẻ đẹp của chiếc áo dài ở trạng thái "tĩnh".
Sống bên Pháp, xa quê, nhưng gần như suốt đời Thái Tuấn chỉ vẽ người phụ nữ mặc
áo dài. Mới đây, ông tâm sự: "Tôi nhận ra chiếc áo dài Việt Nam đã tạo ra được
những đường cong nét thẳng mà không có y phục nào có được." Hẳn họa sĩ muốn nhấn
mạnh đặc tính đa dạng của kiểu áo ta vì ngay sau đấy ông bình phẩm như sau về
trang phục Pháp: "Tôi vẫn gọi áo đầm là cái hộp. Chui vào đó dù đứng hay ngồi
cũng không tạo được đường nét nào khác."(21)
Một kiểu trang phục mà
ngay cả khi người mặc chỉ đứng, ngồi cũng tạo được đường nét độc đáo thay đổi,
mà khiến sự xê dịch bình thường trở nên "linh động phơi phới", trở nên "thanh
thoát"(22), khiến một cô gái nhan sắc trung bình có thể tự tin nũng nịu đòi "để
em làm gió"(23) cho cánh chim may mắn anh, kiểu
trang phục như thế e độc nhất vô nhị trên mặt địa cầu.
Cái mặc của ta cũng mềm mại,
biến hóa, y hệt cái nói, cái thơ, cái vẽ-nặn-chạm-tạc, cái
múa-kịch...
Nhạc: nuôi, nắn... âm
thanh
Ai đó bảo mỗi "tiếng" đàn
bầu là một "giọt". Giọt thì rưng rưng, thì... mềm.
Bầu là nhạc cụ độc đáo
của ta, tất nhiên mang cái hồn riêng của nghệ thuật ta.
Còn tranh thì
sao?
Trần Văn Khê cho biết
đàn koto của Nhật và đàn tranh của ta đều phỏng theo mẫu Trung
Quốc, nhưng phát triển theo hai hướng khác nhau. Thủ pháp koto chú trọng
bàn tay phải, bàn tay sinh ra âm thanh; thủ pháp tranh đặc biệt phong phú và
tinh vi nơi bàn tay trái, bàn tay "nuôi dưỡng và làm đẹp âm thanh". Khi đàn
tranh, "tay mặt sanh ra cái xác, tay trái tạo ra cái hồn (...) về bàn tay trái,
chúng tôi có rung, nhấn, mổ (...) có rung lơi, rung nhặt (...) nhấn nửa bậc, một
bậc, một bậc rưỡi, hai bậc, hai bậc rưỡi, lại có nhấn vuốt, nhấn rung, nhấn mổ,
nhấn khảy, nhấn mượn hơi (...) mổ đơn, mổ kép, mổ kềm dây."(24)
Âm thanh được "nuôi dưỡng",
"làm đẹp" kỹ càng như vậy, trách nào nghe "mùi rệu"!
Tranh hẳn vốn không mềm,
nhưng tranh về với Việt rồi tranh cũng hóa mềm.
Việt hóa, tức là làm
mềm đi.
Từ đồ đồng đời Thương tới
lời Khổng Tử
Ðã thấy cái tính nết con
người nó lồ lộ trong đủ thứ nghệ phẩm.
Ðã biết nó thành hình lâu
lắm rồi, ít ra là bốn nghìn năm trước.
Thời ấy, chắc nó không phải
chỉ quanh quẩn ở vùng đất là nước ta bây giờ đâu, mà tung hoành khắp Hoa Nam.
"Mềm như nước" hẳn là cái tính chung của toàn thể Bách Việt, chứ không của riêng
gì Lạc với Âu.
Dường như nó đã làm được
chuyện gì đó rất oanh liệt.
Lại thử ngắm chơi thứ "đồ
đẹp".
Bàn về mỹ thuật Tàu,
Thái Bá Vân ưa nhắc thứ "hình học phi lý, khúc mắc như thách đố (...) của đồ
đồng Thương, Chu", "thái độ triết lý tuyệt đối và kỳ dị của người Tàu xưa" và
"tính tuyệt đối của tinh thần Trung Hoa".
Nhưng Nguyễn Hiến Lê
bảo: "về mỹ
thuật (...) Trung Hoa có đặc điểm này: tiết chế, điều
hòa".(25)
Lạ, mỹ thuật điều
hòa lẽ nào lại xuất phát từ tinh thần tuyệt đối?!
Xem kỹ, "tuyệt đối" là
người Tàu xưa, xưa hơn Khổng Tử hàng chục thế kỷ, còn "tiết chế,
điều hòa",
tức "trung dung", là người Tàu từ Khổng Tử trở đi. Mà trung
dung là thày Khổng dạy vậy thôi, chứ xét những việc người Tàu làm, xét những thứ
họ làm ra, thấy họ cũng chưa chịu bỏ hẳn cái nết "tuyệt đối" của tổ tiên Hoa Hạ
xưa kia đâu.
Vì cớ gì mà văn hóa Tàu tới
Khổng Tử thì bớt "cứng"?
Ôn lịch sử, thử đoán lý
do.
Từ một vùng tương đối
nhỏ ở Hoa Bắc (26), người Hoa liên tục mở mang bờ cõi về phía nam. Ðất phương
nam không phải đất trống, mà là đất của một đại chủng có thứ văn hóa đặc biệt
mềm mại. Tuy
thua trận, mất quyền cai trị, đại chủng ấy đã "pha" được văn hóa mình vào
văn hóa của kẻ thắng trận, khiến ở Hoa Nam dần dần xuất hiện một thứ văn hóa lai
nửa Bách Việt nửa Hoa, nửa mềm nửa cứng. Sau đó, tuy chính người Bách Việt không
di cư lên phía bắc, nhưng người Hoa xuống nam hẳn có một số trở về, thêm giống
lai ở Hoa Nam hẳn cũng có một số bắc thiên, thông qua họ, văn hóa Hoa ở đất gốc
Hoa Bắc dần thay đổi, để đến khi Khổng Tử ra đời thì đã trở nên không còn cực
đoan như trước...
Chuyện quá cũ tích quá xưa,
làm sao biết chắc. Tuy vậy, cứ ngắm nghía những món đồ đồng rất kỳ dị đời Thương
rồi lắng nghe những lời ôn tồn của thày Khổng, rất dễ dàng mường tượng có ai đó
đã bằng cách nào đó ảnh hưởng đáng kể đến tính nết của tổ tiên thày. Hỏi còn ai
nữa!
Nước chảy, đá...
mềm
Việt mềm như nước, Hoa cứng
như đá.
Gặp nhau thì nước ngoan
ngoãn vào khuôn của đá hay chảy quanh đá.
Nhưng "nước" này không phải
nước thường.
Chứa nó lâu lâu, hay tiếp
xúc với nó lâu lâu, trông lại thì đá đã... mềm!
5 – 2003
(Trong Tìm tòi và suy
nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ, 2005)
__________________________
(1) Truyện Kiều, câu 29:
"Thông minh vốn sẵn tính trời".
(2) Ðào Duy Anh, Việt Nam văn hóa
sử cương, nxb. TPHCM, Việt Nam, 1992, tr. 24.
(3) Cao Xuân Huy, Tư tưởng phương
Ðông - gợi những điểm nhìn tham chiếu, nxb. Văn Học, Việt Nam, 1995, tr. 363
- 364.
(4)
Phỏng theo câu "Văn là người".
(5) Tản Ðà, Thơ Ðường, Nguyễn
Quảng Tuân biên soạn, nxb. Trẻ, Việt Nam, 1989, tr. 42.
(6) Trần Trọng Kim, Ðường thi
in lần hai, Ðại Nam, Mỹ, tr. 380.
(7) Hải Ðà sưu tập, Saigon
Times, Úc, số Xuân Quý Mùi, 2003.
(8) Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc
văn hóa Việt Nam, in lần ba, nxb. TPHCM, Việt Nam, 2001, tr.
295.
(9) TÐ,
sđd., tr. 43.
(10) Nguyễn Hưng Quốc, Nghĩ về thơ, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1989,
trang 165-168.
(11) Xuân Diệu, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I, nxb. Văn
Học, Việt Nam, 1987, tr. 147.
(12) Bình Nguyên Lộc, Nguồn gốc Mã
Lai của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971, sđd., tr. 121.
(13) Thái Bá Vân,
Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện
Mỹ
thuật Việt Nam, Việt Nam, 1997, tr. 22, 295, 297.
(14) Chu Quang Trứ,
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, nxb.
Mỹ
Thuật, Việt Nam, 2002, tr. 272.
(15) Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà
Văn Tấn, Lương Ninh, Lịch sử Việt Nam, tập I, nxb. Ðại Học và Trung Học
Chuyên Nghiệp, Việt Nam, 1983, tr. 64-65.
(16) PHL, TQV, HVT, LN, sđd., tr.
63.
(17) BNL,
sđd., tr. 366.
(18) Vũ Khắc Khoan, Tìm hiểu sân khấu chèo, nxb. Lửa Thiêng, Sài
Gòn, 1974, tr. 127.
(19) TNT, sđd., tr. 310.
(20) Võ Phiến thuật lại
trong Tùy bút I, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1986, tr. 23-24.
(21) Thái Tuấn, “Thư và
tranh mới”, nhật báo Người Việt, Mỹ, số ra ngày 11 tháng 5 -
2003.
(22)
Chữ của VP trong Tùy bút I, Văn Nghệ, Mỹ, 1986, tr. 23-24.
(23) Tên một tập thơ của
Trần Mộng Tú, nxb. Thế Kỷ, Mỹ, 1996.
(24) Trần Văn Khê, Tiểu phẩm,
nxb. Trẻ, VN, 1997, tr. 172-174.
(25) Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử thế
giới, Văn Nghệ, Mỹ, 1994, tr. 171.
(26) Vào đời Thương, nước Tàu đại
khái chỉ là đất ở nam tỉnh Hà Bắc, bắc tỉnh Hà Nam, đông tỉnh Sơn Tây, tây tỉnh
Sơn Ðông, tổng cộng bằng khoảng hai tỉnh ngày nay. (Xem Nguyễn Hiến Lê, Sử
Trung Quốc, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, tr. 60.)