|
|
Cát Hoàng
"Rễ đước
cắm nơm oà ôm eo biển" - Câu thơ của Huỳnh Thuý Kiều đã thật sự ám ảnh tôi. Đến
khi tình cờ gặp lại người bạn làm bên ngành Truyền hình tâm sự: "Dù đã đi nhiều
nơi trong và ngoài nước, nhưng khi ở trên cao nhìn xuống thấy mũi Cà Mau giống
in hình vẽ trên bản đồ Tổ quốc, thì anh rất xúc động - một cảm giác thiêng liêng
thật sự". Hai tác động nầy đã thôi thúc tôi viết về kỷ niệm vùng cuối đất cùng
trời nầy, mà vốn dĩ tôi đã hằng hoài cảm muốn ghi lại.
Lần đầu
tôi về Cà Mau vào độ giữa năm 1978. Nói về là nói một cách tình cảm của người
Nam bộ, chớ thật ra là đi thực tập, đi điều tra chi phí sản xuất giá thành
nông-thuỷ sản đối với chuyên ngành học Kinh tế Vật giá.
Về với
Cà Mau lúc ấy rất cực. Từ Xa cảng Miền Tây, chúng tôi phải xếp hàng mua vé (theo
giấy giới thiệu của Nhà trường) đi xe đò về Bạc Liêu. Từ bến xe Bạc Liêu phải
xếp hàng mua một chặng vé đi tiếp về Thị xã Cà Mau (Tất nhiên là đêm ấy chúng
tôi phải ngủ bụi tại bến xe Bạc Liêu để chờ). Về đến Thị xã Cà Mau phải ngủ trọ
thêm một đêm để chờ sáng hôm sau đi đò máy về huyện Ngọc Hiển, huyện Trần Văn
Thời (Lúc nầy đoàn tách làm hai, một về huyện Trần Văn Thời, một về huyện Ngọc
Hiển, tôi may mắn được về huyện Trần Văn Thời - May mắn do được tận hưởng nguồn
nông-thuỷ sản dồi dào; đoàn về huyện Ngọc Hiển phải trường kỳ chiến đấu với
tương, chao). Đêm đầu tiên ở Thị xã Cà Mau, lần đầu tôi được ăn con sò huyết (sò
huyết mua ngoài chợ đem về trụn nước sôi của nhà trọ, dùng dao tách ra chấm muối
ăn tươi ) và uống rượu gạo, tôi lỡ tay dao để đứt ngón tay trỏ trái, nay còn vết
thẹo kỷ niệm.
Đò máy
từ Thị xã Cà Mau xuôi dòng sông Ông Đốc từ sáng sớm đến khoảng 15 giờ chiều mới
cập bến xã Phong Lạc, huyện Trần Văn Thời. Chúng tôi phải lội bộ gần 3 cây số
nữa mới về đến ấp Đất Cháy để ở nhờ nhà dân tác nghiệp. Tôi còn nhớ rõ cảnh trên
đường đi có ghé nhà một chị chủ nhà xin nước uống. Rất lạ là chị nầy thấy chúng
tôi tỏ vẻ sợ hãi, đi thụt lùi và có ý tránh mặt. Chừng hiểu ra thân phận và mục
đích của khách, thì chị thay đổi thái độ mừng rỡ và mời nước uống thoải mái. Chị
tâm sự: Mấy chú, mấy anh thông cảm, tại tui thấy mấy chú, mấy anh mang vác cồng
kềnh, tui cứ tưởng mấy ông Chà Và (người Ấn) bán vải, sợ quá muốn trốn (Số là
vào thời điểm đó kinh tế ở vùng đất nầy mang nặng tính tự cung tự cấp, mấy người
Ấn mang vải đến bán chịu hẹn ngày đến lấy tiền, dân sở tại sợ mấy ông Chà Và có
ngải thư ếm phải cố lo chạy tiền để trả rất khổ nên nhiều người rất e
sợ).
Tôi lại
có may mắn đến hai lần khi được ở đậu chung nhà với Chú Năm Trưởng đoàn (Chú Năm
còn có tên thường gọi là Ông Năm Quận Đạo. Năm Quận Đạo là thế nào? Tôi hỏi chú
chỉ cười cười không giải thích, chỉ biết chú là Ông già Ba Tri lên Sài Gòn làm
thợ đóng giày trước khi thoát ly tham gia công tác cách mạng. Sau giải phóng tôi
cùng học chung và đi với chú, thấy chú đến đâu cũng được mọi người trọng vọng
tiếp đãi nồng hậu. Có lẽ do chú vui tính dễ gần gũi hay có liên quan đến kỳ tích
sự việc nào đó mà chú không muốn kể). Chủ nhà tôi ở đậu là chú Ba Hưng - Bí thư
Chi bộ ấp, nhà còn có thím Ba và hai cô con gái tên Bê và tên Nhựt. Với cách
sống "3 cùng" (Cùng ăn, cùng ở, cùng làm) của những người kháng chiến mới ở rừng
ra, chẳng mấy chốc chú Năm Quận Đạo và tôi gắn bó như chung một gia đình với Chú
thím Ba Hưng và hai em: Bê, Nhựt. Ngoài thời gian đi thực tập, những buổi chiều
rảnh rỗi tôi cùng Bê, Nhựt bơi xuồng ra Đầm Bà Tường kéo lưới bắt tôm cá. Đầm Bà
Tường (đầm Thị Tường) rộng mênh mông có trên ba mươi cây số vuông, ngoài các
luồng lạch sâu, đa phần nước chỉ lấp xấp ngang ngực, ngang bụng, nên rất dễ kéo
lưới và thường bắt được nhiều tôm, cá (có thể lúc nầy còn ít người đánh bắt).
Một lần, tôi tày khôn giành bơi xuồng, nhưng lại không quen bơi kiểu 2 chèo, sức
đẩy tuy có mạnh nhưng không đồng đều khiến xuồng lập úp, ba anh em vừa bị mất
hết tôm, cá vừa chịu ướt lốp ngốp về nhà, còn bị một trận cười chọc quê mắc cỡ
hết biết.
Điều
khiến chúng tôi nhớ mãi là tình cảm bà con rất tốt, hiền hoà và hiếu khách. Bất
kỳ mọi nơi chúng tôi đến đều được tiếp đón nồng hậu, bà con tạo điều kiện cho
chúng tôi làm việc đạt kết quả tốt nhất và luôn luôn sau buổi làm việc còn được
mời ở lại dùng bữa cơm đạm bạc với gia đình. Bữa cơm đạm bạc mà hầu như trong
nhà có món ngon vật lạ gì bà con đều đem hết ra chiêu đãi. Tôi nhớ, khi lần đầu
anh em chúng tôi được ăn món rau cần nước, thì ai nấy đều xuýt xoa cho là "Rau
cần hết sẩy". Vậy là, bà con mình thiệt bụng bổ sung rau cần nước nhiều quá sá,
đến độ cuối bữa ăn thịt cá hết nhẳn mà rau cần còn la liệt. Thiệt mắc cở hết
biết!
Đến ngày từ giã bà con, năm nhóm - năm nhà ở đậu, mấy thằng học
trò mắc dịch chuyền nhau tờ tiền giấy mệnh giá 10 đồng, khúm núm hai
tay trao chủ nhà gọi là "phụ chút đỉnh nước mắm, dầu hoả". Đâu có nhà nào, người
nào chịu lấy (Nói vui ai lấy mà xài được chết liền, vì tiền rách xếp tư dấu kỹ).
Riêng tôi, cảnh ra đi còn mang theo nước mắt của em Bê, em Nhựt cùng lời dặn dò
thắm thiết của chú thím Ba.
Ra đến
Thị xã Cà Mau, em nào em nấy giải phóng hết tư trang mang theo để về cho nhẹ
gánh (chớ thật ra không nhẹ gánh cũng không được, vì thiếu tiền đi xe đò. Cũng
may, hồi đó đồ cũ còn bán chạy).
Về nhà,
lâu lâu sau nhớ quá tôi có làm bài thơ gởi Đất Cháy:
Lâu lắm
không về thăm Phong Lạc
Thương rau cần nước gái duyên quê
Bà Tường (đầm) cá quẫy chao đầu sóng
Đất Cháy trong ta hẹn chuyến về
Thương rau cần nước gái duyên quê
Bà Tường (đầm) cá quẫy chao đầu sóng
Đất Cháy trong ta hẹn chuyến về
Năm
1991, tôi có dịp trở về Cà Mau lần thứ hai. Chuyến đi nầy với mục đích là tham
quan mô hình "Lâm ngư kết hợp". Được đi cả rừng tràm Sông Trẹm - Thái Bình; rừng
đước Tam Giang - Năm Căn; đặc biệt là được ra tận Đất Mũi Cà Mau để nghe hồn bồi
hồi bổi hổi. Nhưng lại không thể về ấp Đất Cháy, xã Phong Lạc, huyện Trần Văn
Thời. Không biết bao lần tôi đã tự trách lòng mình lỗi hẹn. Tệ thiệt
tệ!
Năm
2007, một bạn văn ở Cà Mau điện cho tôi: Mai em đi Đất Cháy, anh đặc tả chuyện
anh để em xem xem. Sau đó tôi được tin nhắn: "Chú Ba Hưng đã mất, còn người ấy
của anh đã theo chồng về Năm Căn rồi". Ôi...!
Năm 2008, cùng một bạn văn ở Đà Lạt quyết tình về thăm Cà Mau. Đi nửa đường gãy chuyến, ấm ức lòng chẳng biết tỏ cùng ai!
Năm 2008, cùng một bạn văn ở Đà Lạt quyết tình về thăm Cà Mau. Đi nửa đường gãy chuyến, ấm ức lòng chẳng biết tỏ cùng ai!
Năm 2009
và biết chừng bao năm nữa, chẳng lẽ tôi lại vô duyên lỡ hẹn mãi với Cà
Mau?
Cát Hoàng
