Một
chục, hai
chục, ba trăm!
Điều phải nói ngay
Văn "Phù Đổng", thơ lột
xác
Nhạc, họa cũng vùng lên
Nội lực, ngoại công
Chỉ mình mình
biết...
Họ chế, mình xài, sướng!
Nghĩ mà buồn
Một chục, hai chục,
ba trăm!
Ai cũng biết văn học tiền
chiến có vai trò đặc biệt trong văn học sử Việt Nam. Trong vô số phát biểu ngắn
dài về vai trò ấy, có lời này: "Và chúng ta đã vùng lên đuổi theo trong vòng ba
mươi năm tất cả chặng đường dài mà Tây phương đã đi trong ba thế
kỷ."(1)
Ngẫm nghĩ, thấy lời trên
không chỉ tóm tắt ý nghĩa chính của một thời kỳ văn học, mà còn ngẫu nhiên nói
lên điều hết sức căn bản về trình độ tiến hóa của dân tộc.
Điều phải nói
ngay
Người đi đã ba trăm năm, ta
mới bắt đầu đi. Vậy về văn học, ta phát triển chậm hơn người ba trăm năm
sao?
Không phải
thế.
Văn học ta và văn học
Tây đã phát triển mạnh theo hai hướng khác nhau. Không thể so
sánh chung chung được, mà phải so sánh theo hướng cụ thể.
So cụ thể thì:
Trước thời Pháp thuộc văn
học ta đã phát triển hết sức mạnh mẽ theo hướng thơ. Thơ ta đạt những đỉnh cao
mà thơ Tây phương đã không bao giờ lên tới gần được (chuyện không thể chứng minh
và dĩ nhiên Tây không công nhận, nhưng sự thực vẫn là sự
thực).
Sau khi trở nên
Pháp
thuộc, văn học ta chẳng bao lâu bắt đầu phát triển mạnh theo cả hướng văn
xuôi, là hướng mà ta đã rất lơ là.(2)
Ta vùng lên đuổi theo người
là trong cái hướng văn xuôi ấy thôi. Chứ trong cái hướng thơ thì ta không đuổi
theo bất cứ ai; ta chỉ đổi từ một một mô hình thẩm mỹ đã lên tới đỉnh qua một mô
hình thẩm mỹ khác.
Cả đuổi lẫn đổi, ta đều làm
nhanh kỳ lạ. Đó thiết tưởng là chuyện hết sức đáng tìm hiểu.
Văn "Phù Đổng", thơ lột
xác
Nói "trong vòng ba mươi năm"
là ý nói từ năm nào đến năm nào?
Nếu xem Đôi bạn
(1938) của Nhất Linh, Vang bóng một thời (1940) của Nguyễn Tuân, Thơ
thơ (1938) của Xuân Diệu và Lửa thiêng(1940) của Huy Cận là
"đích", thì cuộc chạy đã bắt đầu về cuối thập
kỷ 1900.
Xem lại lịch sử báo chí chữ
quốc ngữ ở miền Bắc, thấy ấn phẩm định kỳ quan trọng đầu tiên là tờ Đại Việt
Tân Báo do Đào Nguyên Phổ làm chủ bút, tồn tại từ 1905 đến
1909.(3)
Vậy là phù hợp. Ba mươi năm,
đại khái là từ cuối thập kỷ 1900 đến cuối thập kỷ 1930.
Bắt đầu nền văn học chữ quốc
ngữ, văn xuôi Việt chỉ mới oe oe, trong khi thơ Việt đã lụ khụ. Bé ta sốt ruột,
cố lớn cho mau; cụ ta thì quả quyết hóa thân để chở cho được hiệu quả những tâm
tình mới...
Trong khoảng thời gian thật
ngắn ngủi, văn xuôi Việt đã hoàn chỉnh mô hình thẩm mỹ đầu tiên của nó, đã đi
đến giai đoạn cổ điển của mô hình ấy. Văn xuôi ta xuất phát từ văn xuôi Tây và
văn biền ngẫu Tàu, nhưng nó rồi mang những đặc tính riêng không thể nhầm lẫn với
văn Tây văn Tàu.
Cùng lúc, thơ Việt
cũng hoàn thành tốt đẹp một cuộc cách mạng, trở nên ổn
định trong cái mới do chính mình sáng tạo (chủ yếu trên nền tảng thi ca truyền
thống, với một đôi đặc điểm tiếp thu chọn lọc từ thơ
Pháp).(4)
Trẻ sơ sinh vùn vụt trở nên
cứng cáp; bô lão lọm khọm phút chốc hóa thanh niên!
Về tình hình phát
triển của văn xuôi ta, Nhất Linh có lần nhận định: "nước mình có một số nhà văn
có thể sánh ngang với các nhà văn nước khác".(5) Giảng về tiểu thuyết,
ông dẫn nhiều đại danh quốc tế, nhưng rút cục không chịu nhường ông tây bà đầm
nào cả. Ông liệt kê ba yêu cầu tối thượng về văn tiểu thuyết,
rồi kết luận: "Tôi chưa thấy nhà văn nào gồm được cả mấy điều đó."(6) Ông chê
Tolstoi chưa biết... cười. Những cái mỉm cười mà có người đã bắt gặp rất nhiều
lần trong văn Nhất Linh phải chăng chính nhằm "gồm" cho đủ?
Đầu thế kỷ 20, văn
xuôi Việt Nam còn thuộc về những cái cần xây dựng.
Chỉ trong vài chục năm, nhà văn ta đã cảm thấy tự tin đến nỗi Nhất Linh lăm le
muốn "vượt" Tolstoi! Còn điều này nữa: khi văn xuôi Việt Nam vượt khoảng cách
"thật là thăm thẳm", đi từ những "lời lẽ vụng về" trong tờ báo đầu tiên tới
những "câu văn cao kỳ tinh diệu của Nguyễn Tuân"(7), nó đã vượt cả văn Tây ở ít
nhất một phương diện. Nếu xét riêng về lời, e rằng văn Tây không được "cao kỳ
tinh diệu" như văn ta đâu. Mà cái hay trội về lời của văn xuôi ta, thiết nghĩ nó
chính có gốc ở cái thiên bẩm về thơ của dân tộc đấy.
Tới đầu thế kỷ 20 thì
thơ truyền thống bế tắc, không còn diễn được trọn vẹn tâm tình dân tộc, không
phản ánh được đầy đủ xã hội đổi thay. Nhưng cũng chỉ trong vài chục năm, nó đã
hoàn tất công cuộc lột xác, đã thể hiện tới tột
đỉnh một quan niệm thẩm mỹ mới, lưu lại được cho hậu thế những thi phẩm mới thật
sự xuất sắc.
Năm 1960, nhân dịp tái bản
bộ Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhà xuất bản có lời nhận định: "nền
văn học của nửa đầu thế kỷ 20 (...) quan trọng vì vừa bột khởi, nó đã vững chắc
và đồ sộ".(8)
Vừa đi đã đến, chẳng "hia
bảy dặm" mà thế được sao?
Nhạc, họa cũng vùng
lên
Văn học, dĩ nhiên, chỉ là
một phương diện của văn hóa. Trên những phương diện khác, trong cùng khung thời
gian vừa nói, dân tộc Việt Nam cũng tiến nhanh kỳ dị.
Vẫn lời Võ Phiến: "Mà
không riêng gì trong phạm vi văn chương học thuật, ở các ngành nghệ thuật khác
như hội họa, âm nhạc cũng thế."(9)
Cũng vẫn hiện tượng từ "số
không" tiến lên cổ điển trong vài chục năm!
Về âm nhạc, người Việt có
truyền thống lâu dài, phong phú. Nhưng dùng ký âm pháp Tây phương, dùng nhạc cụ
Tây phương để sáng tác nhạc thì ta chỉ mới bắt đầu hồi đầu thế kỷ 20. Nền "tân
nhạc", y hệt nền "tân văn", đã hết sức nhanh chóng sản xuất ra những tài năng
già dặn như Văn Cao, Phạm Duy, Đặng Thế Phong, Dương Thiệu Tước v.v. Bùi Ngọc
Tấn kể Nguyên Hồng có lần nghe Thiên Thai đã "khóc nức":
"Su-be, Mô-da cũng chỉ đến thế này!"(10)
Về hội họa, người Việt Nam
không có truyền thống nổi bật. Vậy mà ngay trong thế hệ họa sĩ đầu tiên được đào
tạo theo phương pháp Tây phương, đã thấy xuất hiện những tài năng sáng chói như
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí v.v.
Dĩ nhiên, chuyện
ta đi "hia bảy dặm" chỉ mình ta biết. Người Tây phương không đánh giá tình hình
phát triển trong các ngành nghệ thuật ở Việt Nam như trên đâu. Họ
không chấp nhận những Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Văn Cao, Phạm
Duy, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Gia Trí là ngang hàng với những tên tuổi lớn nhất
trong lịch sử nghệ thuật Tây phương đâu. Do thành công
vật chất to lớn suốt mấy trăm năm qua, người Âu mang đầy tự tôn mặc cảm, luôn
luôn nhìn thế giới qua lăng kính "Dĩ Âu vi trung". Họ nhầm tưởng đã
khai
hóa dân tộc Việt Nam. Kỳ thực họ chỉ có vai trò mang đến cho ta phương
tiện mới.
Chân lý bất khả thuyết,
ngoại trừ bằng "cách Lâm Ngữ Đường":
Khoảng bảy mươi năm
trước, khi Trung Quốc còn đang thất thế nhục nhã, họ Lâm đã từng đề xuất cách
duy nhất để
thuyết phục người Âu rằng họ nấu nướng kém người Tàu là cho pháo hạm
Trung Quốc đi ngược dòng sông Thames mà nã đạn xối xả vào thành phố Luân-đôn.
Điều rắc rối là lúc Lâm Ngữ Đường viết sách, Trung Quốc chưa có pháo hạm!(11)
Nói chi đến hoàn cảnh nước Việt Nam vào cuối thời tiền
chiến.
Nội lực, ngoại
công
Hia bảy dặm, chân người nào
xỏ cũng vừa chăng?
Tân văn, tân nhạc, tân họa
lớn "nhanh như thổi" là chuyện bình thường, đâu đâu cũng thấy
chăng?
Chân xỏ có vừa, đâu đâu có
thấy, chắc chắn chỉ qui về một nguyên lý này, mà Trần Văn Khê từng nhấn mạnh:
"... cả ngàn năm mới tạo được một nền văn hóa"(12)
Làm gì có chuyện xây dựng
một nền văn, nền nhạc, nền họa trong ba mươi năm!
Khi bại trận, mất
quyền cai trị đất nước vào tay người Pháp, dân tộc Việt Nam đã sẵn có một nền
văn hóa cao. Cái văn mới, cái nhạc mới, cái vẽ mới chẳng qua là những biểu hiện
nghệ
thuật mới của nền văn hóa kỳ cựu ấy thôi. Giống như chuyện một tay đầu
bếp xuất sắc học nấu món mới, dùng chảo, xoong, nồi, lò mới. Vì đã thạo việc bếp
núc từ lâu lắm, vì đã nấu được biết bao món ngon cũ rồi, nên nay y rất dễ dàng
nấu được món ngon mới.
Nếu đem so sánh "văn
ôn" với "võ luyện", thì bề cao văn hóa của một dân tộc có lẽ tương tự nội lực
của người học võ, mà các ngành nghệ thuật đại khái như các loại quyền,
cước, ngoại công. Luyện để có được nội lực thâm hậu mới là chuyện khó khăn, lâu
dài, còn học quơ chân múa tay tuy cũng cần năng khiếu nhưng vẫn tương đối dễ.
Người nội lực sung mãn chỉ vung tay một cái cũng thừa dũng mãnh, trong khi kẻ
chưa đủ công phu hàm dưỡng thì mong gì phát huy được đúng mức bất cứ môn ngoại
công tinh diệu nào.
Thử tưởng tượng xưa
kia nhà nước bảo hộ nảy sáng kiến mở trường Mỹ thuật Đông Dương ở Tây Nguyên,
tuyển toàn các mầm non Ba Na, Cờ Ho, Ra Đê v.v. Rừng núi Trường Sơn qua họa pháp
cổ điển châu Âu do chính những đứa con của núi rừng "thủ họa"! Những bức tranh
tổng hợp kỹ
thuật cao của phương Tây duy lý với cái nhìn "nguyên thủy" của đồng bào
Thượng, a, hẳn... độc đáo vô cùng!
Lại thử hình dung giáo
sĩ Đắc Lộ sáng chế ra thứ chữ riêng cho dân Mạ vốn sinh sống ở bình nguyên đông
Nam phần. Liệu một nền văn học Mạ dựa trên thứ chữ dùng mẫu tự La-tinh rất tiện
lợi ấy rồi có phát triển rực rỡ như văn học chữ quốc ngữ của người Kinh chăng?
Liệu tâm tình của người dân Mạ, cảnh thái sinh hoạt ở Biên Hòa xưa v.v... rồi sẽ
được phản ánh đầy nghệ thuật trong văn chương của những
văn hào Mạ chăng?
Dạy vẽ ở Tây Nguyên, dạy
viết ở miền đông Nam bộ, tại sao lơ là với thượng du Bắc phần? Các ông tây có
thể chở dương cầm, vĩ cầm, Tây-ban cầm lên đỉnh núi mà mở nhạc viện dạy nhạc cho
người Mán. Chao ôi, tha hồ cho tiếng hổ gầm, tiếng thác đổ, tiếng chim kêu vượn
hú thi nhau đi vào âm nhạc. Ở đâu chẳng có nhân tài. Những "Phạm Duy", "Văn Cao"
trên ấy, họ sẽ xây dựng nên một nền tân nhạc Mán như thế nào nhỉ?
Chỉ mình mình
biết...
E có người bắt bẻ: Ai bảo
nội lực ta thâm hậu, văn hóa ta cao trước khi Tây qua?
Khối "ông" bảo
đấy.
Phạm Quỳnh nói đi nói lại:
"... thi ca An Nam đã đến mức tuyệt diệu".(13) (Trên thế giới có lẽ không có
được bao nhiêu nền thi ca đã lên đến mức ấy đâu!)
Phạm Duy luôn tỏ ra
trân trọng "gia tài nghệ thuật" và viết hẳn một quyển sách
để góp sức phát huy "tầm quan trọng và sự phong phú của nghệ thuật ca
diễn dân tộc".(14)
Trần Văn Khê đi thuyết
minh về cổ nhạc Việt Nam khắp thế giới hàng trăm lần, lần nào cũng hết sức tự
tin "vì mình biết tự hào với cái vốn âm nhạc nghệ thuật mà cha ông lưu truyền
lại".(15)
Trong ngành
nghệ
thuật tạo hình nói chung, dân tộc Việt Nam cũng có truyền thống lâu dài
và rực rỡ. Xưa ta ít vẽ nhưng hay chạm hay tạc. Căn cứ vào các tượng Phật đời
Lý, cách đây ngót nghìn năm, Thái Bá Vân nhận định: "Đến mỹ thuật Lý
thì thẩm mỹ Việt Nam đã ở cái đỉnh mẫu mực của mọi vòng sáng tạo."(16) YÙ ông là
mỹ
thuật Lý đã đạt mức cổ điển, đã đi đến cái chỗ hoàn chỉnh, ổn định, trong
trình tự tiến hóa của một mô hình thẩm mỹ. Theo Thái Bá Vân, trước khi gặp
nghệ
thuật tạo hình Tây phương, dân tộc Việt Nam đã trải qua hai
mô hình thẩm mỹ, bắt đầu là mỹ thuật Đông
Sơn.(17)
Với truyền thống mạnh mẽ như
thế, có lạ gì đâu khi ta thấy mau chóng xuất hiện những Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc
Vân, Bùi Xuân Phái? Nói như tác giả Tiếp xúc với nghệ
thuật: "cái linh ứng nghệ thuật tài hoa của thế hệ trẻ chính
cũng là từ truyền thống sâu xa và ẩn kín của nghệ thuật dân
tộc".(18)
Nghe bấy nhiêu phát biểu mà
vẫn không tin, chỉ còn cách... bắc thang lên hỏi ông trời!
Họ chế, mình xài,
sướng!
Văn hóa Việt Nam đã cao khi
tiếp xúc với văn hóa Pháp, nên chúng ta đi được hia bảy dặm mà siêu nén trình tự
tiến hóa của các mô hình thẩm mỹ mới.
Hẳn có băn khoăn: Ta dùng
chữ viết do Tây phát minh, dùng nhạc cụ Tây, ký âm pháp Tây, họa pháp Tây v.v.,
liệu rồi có... sao không? có hóa thành Tây không?
Chữ viết với đàn này đàn nọ,
cách kia cách nọ, bất quá như đồ dùng trong nhà bếp. Người Việt vào bếp Tây đâu
có hóa ra Tây, mà chỉ hóa thịt cá thành món Việt thơm phức!
Tây công phu phát minh ra
"đồ" cho ta tiện dùng biểu hiện văn hóa tinh thần của ta, thế chẳng sướng
sao?
Nghĩ mà
buồn
Nói xong chuyện Hia Bảy Dặm,
không dằn được, nói thêm một chút về chuyện sau Hia Bảy Dặm.
Người Tây phương dĩ nhiên
không phải chỉ phát minh ra phương tiện cho người Việt Nam mượn dùng để biểu
hiện văn hóa tinh thần Việt.
Họ đã làm xảy ra cả
một cuộc
cách mạng văn hóa vật chất hết sức lớn lao, mà kết quả lâu dài là thay
đổi hẳn môi trường sống của toàn thể nhân loại.
Môi trường ảnh hưởng đến văn
hóa tinh thần.
Nhờ sống trong môi trường
riêng ổn định hàng mấy nghìn năm, người Việt mới luyện được nội lực văn hóa đến
mức thượng thừa, văn hóa tinh thần Việt mới có được bản sắc độc
đáo.
Từ khi tiếp xúc với người
Tây phương, môi trường sống của ta ngày càng trở nên giống môi trường sống của
họ. Diễn biến Tây hóa môi trường lúc đầu chậm, càng về sau càng nhanh, bây giờ
nhanh chóng mặt! Môi trường cũ mất đến đâu, nội lực văn hóa cũ tiêu tan đến đó,
bản sắc văn hóa cũ nhợt nhạt đến đó. Trong khi văn hóa Việt mới chỉ là một bản
sao còn khá thô vụng của văn hóa Tây!
Đầu thế kỷ 20, người Việt
dùng bếp Tây nấu nên món Việt thật ngon.
Đầu thế kỷ 22, có lẽ người
Việt dùng bếp Tây nấu nên thứ món Tây ăn tàm tạm được. Dù mai kia cháu chắt có
nấu món Tây ngon được bằng Tây nấu, dưới suối vàng nếu ông bà biết trên mảnh đất
hình chữ S khoai tây với bít-tết đã diệt gọn cơm với cá, thì cũng chẳng vui
đâu!
1 - 2003
(Thu Tứ,
Tìm tòi và suy nghĩ, nxb. Của Tin, Mỹ,
2005)
_______________________
(1) Võ Phiến, Văn học
Miền Nam - Tổng quan, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1986, tr. 144.
(2) Phạm Quỳnh, Nam
Phong, số 171, 4-1932, tr. 41-44 (dẫn theo Phạm Thị Ngoạn, Tìm hiểu tạp
chí Nam Phong, nxb. YÙ Việt, Pháp, 1993, tr. 120): "công cuộc
canh tân tiếng An Nam (...) chú trọng nhất đến tản văn". Tản Đà,
An Nam tạp chí, số 15-12-1932 (theo PTN, sđd., tr. 117): "Có thể
nói rằng trước khi có chữ quốc ngữ, Việt văn không có văn xuôi."
(3) Phạm Thị Ngoạn, sđd.,
tr. 21-22.
(4) Xem phát biểu của Huy
Cận trong phụ trang Thơ của báo Văn Nghệ, VN, số 3, quý 3 năm 2003. Và
xem Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ. Bất cứ ai
cũng có thể có điều gì đó đáng học hỏi. Không phải cứ ta có học của người, là
người hơn hay bằng được ta nói chung!
(5) Nhất Linh, Viết
và đọc tiểu
thuyết, Đời Nay, SG, 1961, tr. 105.
(6) NL, sđd., tr.
87.
(7) VP, sđd., tr.
181.
(8) Vũ Ngọc Phan, Nhà văn
hiện đại, Đại Nam, Mỹ, q. 1, tr. 16.
(9) VP, sđd, tr.
181.
(10) Bùi Ngọc Tấn, Viết
về bè bạn, nxb. Hải Phòng, 2003, tr. 454.
(11) Lâm Ngữ Đường, My
country and my people, nxb. John Day, Mỹ, 1935, tr. 341.
(12) Trần Văn Khê, Tiểu
phẩm, nxb. Trẻ, Sài Gòn, 1997, tr. 46.
(13) PQ, sđd., tr.
120.
(14) Phạm Duy, Đặc khảo
về dân nhạc ở Việt Nam, lời nói đầu.
(15) TVK, sđd., tr.
45.
(16) Thái Bá Vân,
Tiếp xúc với nghệ thuật, Hà Nội, 1997, tr.
292.
(17) TBV, sđd., tr.
21.