Những nhân vật lưu truyền trong dân gian
phản ánh gần như trung thực tâm tư, nguyện vọng cũng như tính nết của người dân.
Nhận xét đó của các nhà xã hội học cho phép chúng ta có thể tìm hiểu ít nhiều
dân tộc tính qua những chuyện kể trong nhũng câu chuyện hàng ngày.
Địa dư nước ta chia thành ba
miền rất rõ rệt. Những điều kiện sinh hoạt, khí hậu, tạo cho mỗi vùng một sắc
thái riêng biệt. Chỉ cần quan sát cách ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, chúng
ta có thể rút ra nhiều minh chứng của nét dị biệt của cư dân các vùng Bắc Trung
Nam của đất nước. Bài viết này không nhằm mục đích đào sâu sự khác biệt giữa
người dân ba miền mà chỉ cốt nêu lên một nhận xét có tính hiển nhiên, để từ đó
rút ra một cái nhìn tích cực.
1.
Những nhân vật dân gian
Trong số những nhân vật dân
gian ngoài Bắc, người ta phải kể đến hai nhân vật chính: Trạng Quỳnh và Chú
Cuội.
Quỳnh là một nhân vật có
thật vào thời cuối nhà Hậu Lê, nổi tiếng là nhanh trí và ứng phó giỏi. Quỳnh làm
quan trong triều, dùng tài hay chữ của mình để trêu chọc mọi người, từ Chúa đến
dân hèn, từ giai cấp sĩ phu đến lớp người vô học. Ở đâu, lúc nào ông cũng tìm
thấy đề tài để bỡn cợt, trêu chọc. Lâu dần, nhân vật Quỳnh đi vào dân gian,
người dân kể cho nhau nghe, thêm bớt những chi tiết trong những câu chuyện về
Quỳnh, khiến những chuyện kể bị dân gian hóa, trở thành huyền thoại, và cứ
chuyện nào có tính châm chọc cay chua hay bỡn cợt đều được gán cho Quỳnh. Trái
với Quỳnh, Cuội xuất thân từ lớp dân nghèo, dốt nát, chịu không biết bao nhiêu
sự áp bức. Vũ khí Cuội tự trang bị cho mình để sống còn là nói dối. Thành ngữ
"nói dối như Cuội", "hứa cuội" hay "nói nhăng nói cuội" đã nói lên điều đó. Cuội
nói dối như thật, chỉ khi nào xong chuyện người ta phối kiểm lại mới biết bi
lừa, Cuội dùng tài nói dối như thật của mình để phỉnh gạt người khác, nhất là
những người giàu có, ỷ quyền thế, tiền bạc. Ngoài ra còn phải kể đến hai nhân
vật Ba Giai, Tú Xuất tuy không được biết đến nhiều và được coi là phó sản của
hai nhân vật trên. Cũng vậy, so với các phần còn lại của đất nước, người dân
miền Bắc che giấu mình kỹ hơn. Cách suy nghĩ "Nát giậu cũng còn bờ tre" hay "nào
ai có khảo mà mình lại xưng" v.v... chỉ rõ cho ta thấy người miền Bắc không chấp
nhận thua kém, dù trên hình thức.
Miền Trung đất hẹp,
nghèo nàn. Dân chúng không sống tập trung như đồng bào ngoài Bắc do phải phân bố
dọc theo những mãng đồng bằng khô khan nhỏ bé cạnh bờ biển. Do điều kiện sinh
sống vô cùng khó khăn, kinh tế không mấy phát triển, lại phải đương đầu gần
như thường trực với thiên tai, không hạn hán thì bão lụt, người dân không có
được nhiều cơ hội để tiếp xúc nhau, nên chúng ta không lấy làm lạ khi không thấy
những nhân vật có tính cách đại chúng như Trạng Quỳnh hay chú Cuội. Vã lại, hình
thể địa lý của miền Trung trải quá dài. Người dân thuộc Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tỉnh đã khác Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên; nói chi đến cư dân các vùng
thuộc cực nam Trung Kỳ như Nha Trang hay vùng Tam Phan (Phan Rang, Phan Rí, Phan
Thiết).
Một nhân vật dân gian của
miền Trung là chú Lía, nhưng đó là một nhân vật lịch sử, xuất thân từ lớp dân
nghèo, giỏi võ và có biệt tài chạy rất nhanh, nổi dậy chống quan lại tham ô và
bọn cường quyền, bị quan quân triều đình bóp chết từ khi lực lượng còn trong
trứng nước. Phạm vi hoạt động của chú Lía thuộc vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, tương đối gần với kinh đô Huế, nên không có nhiều ảnh hưởng đến người dân
thường. Có chăng là còn lại trong câu hát ru con:
Chiều chiều én
liệng Truông mây
Cảm thương chú Lía bị vây trong
thành
Miền Nam chỉ mới thuộc về Việt Nam sau này. Khởi đầu là
đất của Miên, sau do chính sách di dân theo kiểu tầm ăn dâu, người Việt chiếm
dằn lãnh thổ của người Miên. Cũng phải ghi nhận công khai phá của những di thần
nhà Minh và bộ hạ, không chịu theo Mãn Thanh như Dương Ngạn Địch vùng Cù Lao
Phố, Nông Nại (Biên Hòa, Đồng Nai), hay Mạc Cửu ở Hà Tiên, sau đó dâng cho Chúa
Nguyễn. Những người Việt tiền phong phần đông là thuộc vùng Nam Ngải Bình Phú đi
vào; một số khác là tù binh của Trịnh do Nguyễn bắt được trong cuộc nội chiến,
hay là những tội đồ bị lưu đày. Họ là những người nghèo đói, những kẻ vong mạng,
ít học... mong tạo cho mình một cuộc đời mới và họ tìm thấy nơi đây đất lành
chim đậu. Họ chiến đấu với thú dữ, muỗi vắt, thiên nhiên hoang dã nhưng giàu có
và hào phóng:
Trên rừng muỗi
kêu như sáo thổi,
Dưới nước đỉa lộinhư bánh
canh
...
Xứ đâu có xứ lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ, con cá vùng
cũng kinh
...
Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao Ông Chưởng có nhiều cá
tôm.
Người Miên không chịu được sự ẩm thấp nên chiếm hết các vùng cao ráo gọi
là giồng do phù sa hai con sông Tiền và sông Hậu bồi đắp. Người Việt cứ thoải
mái khai thác vùng đất hoang bạt ngàn, những con người tiền phong đó cứ từng
bước đặt những bước chân nam tiến vững chãi cho đến phần đất cuối cùng của bán
đảo. Trong số những người tiền phong đó có lẽ có một người trọng tuổi thứ ba,
tên Phi, gọi theo cách miền Nam: Bác Ba Phi; cư ngụ và khai phá vùng U Minh, Cà
Mau, vùng đất phèn thuộc lưu vực sông Ông Đốc. Bác Ba Phi phá rừng làm rẩy ,
ruộng, bắt cá, ăn ong... đem sản phẩm ra chợ Bảy Sào bán, mua lại khô, muối, vật
liệu nông ngư nghiệp. Bác Ba Phi có lẽ là nhân vật rất điển hình của lớp người
tiền phong khai thác vùng bên kia sông Hậu. Thời gian Bác Ba Phi sống, qua các
chuyện kể về Bác Ba Phi, có lẽ vào cuối thế kỷ 19 khi người Pháp đã đặt xong cơ
cấu thực dân của họ. Những câu chuyện về Bác Ba Phi thường là những chuyện do
bác kể lại sinh hoạt của bác, nhân những lúc trao đổi hàng hóa ở chợ Bảy Sào,
phản ánh cá tính của người dân Nam bộ: xốc nổi, sống cho ra vẻ con người điệu
nghệ... Bác kể chuyện sinh hoạt của bác, thêm mắm dặm muối trở nên hấp dẫn hơn,
cường điệu hơn và thường chấm dứt một cách ngộ nghĩnh, thú vị bất ngờ, khiến
người nghe bật cười thính thú, biết là người kể nói dóc mà cũng không giận vì
chẳng hại gì cho ai. Ta cứ hãy tưởng tượng, có một nông dân trạc trung niên,
nhân lúc chờ con nước để bơi xuồng về, ngồi nhâm nhi ly rượu đế, kể những chuyện
lạ mà người dân ở chợ không biết, và vì là những chuyện lạ nên mặc tình anh ta
thêm thắt chi tiết, nhiều khi quá đáng (xem chuyện Tàu Rùa, Ba Phi làm lúa). Lâu
dần, chuyện cứ lan ra, người ta thấy ngộ, kể đi kể lại, tam sao thất bổn, riết
thành chuyện dân gian. Ở miền Nam, nhất là nông thôn vùng đồng bằng Nam Bộ,
trong các lễ cưới, hỏi, ma chay, người dân thường hay tụ họp ở nhà gia chủ thâu
đêm, họ kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện: tích Tàu, chuyện tiếu lâm... trong số
những chuyện kể, đôi khi có những chuyện của Bác Ba Phi... Đến bây gìờ, trong số
các chuyện được kể lại không biết chuyện nào là chuyện do bác kể, chuyện nào là
do chính người kể bịa đặt và gán cho Bác Ba Phi. Chỉ biết đó là những chuyện
tiếu lâm không tục, nhũng chuyện nói dóc có hệ thống mà người nghe thường chỉ
nhận ra khi hết chuyện. Đó là lối giải trí nhẹ nhàng, dí dỏm, biểu thị tính cởi
mở, xởi lởi của người dân miền Nam, và lúc nào cũng chấm dứt bằng câu:"hổng
tin hỏi bả coi" như một khẳng định chuyện có nhân chứng haün hòi.
*
* *
Như đã nhận xét ở trên, nếu
những chuyện kể dân gian phản ánh phần nào cá tính của người dân, thì qua những
nhân vật điển hình của ba vùng kể trên, ta có thể nhìn thấy những khác biệt rất
tiêu biểu trong cách ứng xử hàng ngày của người dân thuộc ba vùng khác nhau của
đất nước, để qua đó chúng ta có thể hiểu biết sâu sắc hơn, dễ thông cảm cho nhau
hơn và do đó dễ tha thứ cho nhau hơn. Có một cách nhìn tích cực, chúng ta mới
mong xóa bớt những mặc cảm phân biệt địa dư lâu nay vẫn tiềm ẩn trong tâm tính
người Việt chúng ta.
2.
Chuyện kể về Ba Phi
Nhũng chuyện kể về Trạng
Quỳnh có rất nhiều, và có những chuyện rất hay, biểu hiện sự thông minh, ứng xử
bén nhạy, tinh tế... Những chuyện Quỳnh đấu trí với sứ Tàu là những chuyện thú
vị, linh hoạt. Cũng có những chuyện khác, mà chúng tôi nghĩ do người kể gán cho
Trạng Quỳnh, lâu dần chẳng còn biết đâu thật giả và thường để lộ rõ tính chất
khôn lanh vặt, luôn tranh hơn với người khác, kể cả việc phải dùng đến thủ đoạn
để đạt được phần hơn. Quỳnh không chịu thua bất kỳ ai, từ Vua Chúa, quan lại,
bọn nhà giàu, đến ngay cả sứ Tàu, Vua quan Tàu...Quỳnh chỉ có thua đàn bà, bà
Đoàn thị Điểm, có lúc phải nhờ vả đến cả bà Điểm để gở rối cho mình. Những
chuyện kể về Trạng Quỳnh và Chú Cuội đã được xuất bản khá nhiều.
Chuyện về Chú Lía như đã
trình bày ở trên, chúng tôi không có tài liệu, mong những bậc thức giả đóng góp
thêm, hầu có thể bổ túc thêm vào di sản văn học dân gian Việt Nam. Ở đây chỉ xin
trích kể hai chuyện của Bác Ba Phi, một đọc được đâu đó trên báo trước 75 ở Sài
Gòn (chuyện Ba Phi làm lúa) và một nghe kể trong một đám cưới ở nông thôn, Long
Hồ - Vĩnh Long, sau 75 (chuyện tàu rùa). Chuyện chỉ kể lại theo trí nhớ, có thể
có những khác biệt, mong nghe được những đóng góp khác của bạn
đọc.
Ba
Phi kề chuyện làm lúa
Hồi Qua với má
sắp nhỏ về trấn trong đó, chung quanh chẳng có mấy người ở. Phải bơi xuồng cả
buổi mới ra đến xóm nhỏ ở đầu vàm, chừng năm
bảy nóc gia, trong đó có chú Phò người Quảng Đông mở một tiệm tạp hóa. Qua
thường ghé đó đổi mật ong, sáp để lấy thuốc giồng và dầu cù là con cọp để xài từ
từ. Khi nào bảnh cũng dám xài sang mua vài ký đường phèn để dành uống trà. Bây
giờ mấy em thấy Qua coi khỏe ru, nhưng hồi nẳm mới về cặm dùi ở trỏng, cực trần
ai khoai củ ... Trời vừa chạng vạng, quơ tay một cái,
hốt cả bụm muỗi, nốc chừng xị đế, chun vô nóp mặc tình cho muỗi hầu tàn. Cá mắm
thôi khỏi bàn, của trời để sẵn, cần cứ ra mương, vũng... miễn chỗ nào có nước,
thọc tay xuống là bắt được cá, lóc cỡ cổ tay chê nhỏ thả bỏ cho lớn; lớn chừng
bắp tay, cổ chơn mới chịu đem rộng trong khạp; ăn không hết, xẻ phơi khô, để
dành ra chú Phò hay chợ Bảy Sào đổi mấy thứ cần dùng. Cái cực nhứt là làm lúa!
Hồi mùa đầu qua
mới về, nhân lúc nước nổi qua phát ngày phát đêm, phá được chừng ba bốn chục
công. chừng nước rút cỏ nằm ủ một lớp dày cả thước, sang tháng ba, chẳng cần bừa
trục gì ráo, qua có sẵn vài chục công nằm sẵn, chỉ chờ mưa
xuống là sạ . Năm đó qua đổi sẵn chục giạ giống rẩy xe của Miên,
thứ này hột tròn mà trúng, lại ngon cơm mà nở nồi. Qua tính nhẩm một công cho
chừng chục giạ thì giá chót qua cũng có hơn ba thiên lúa dư xài. Chừng bắt đầu
sa mưa, Qua ngâm, ủ cho giống no
mình, nứt nanh rồi chất xuống ghe chèo riết vô đậu mé kinh. Đội thúng lúa giống
lội chừng một đỗi thì tới ruộng. Mèn ơi, sao nghe trên đầu bung
bung, hổng biết giống chi, chừng để xuống thì ôi thôi lúa không còn một hột, mà
trong thúng đầy nhóc chim, vậy mới dị đoan chớ! Qua cứ hồ nghi không biết chuyện
gì, ngó miết ra bờ kinh chờ má sấp nhỏ thì thấy bả chân cao chân thấp đội thúng
giống trên
đầu đi tới, còn trên đầu bả là một đám mây đen khi
lượn lên cao, khi xuống thấp, qua cũng chẳng biết là cái giống gì. Chừng bả tới
gần thì trời mẹ ơi! Chim! không biết là bao nhiêu con, cứ bay lên, xà xuống,
chúi mỏ vô thúng lúa giống mà ăn. Chừng bả tới nơi, thúng giống cũng đầy nhóc
chim. Thì ra xứ gì mà chim quá thể, nội chen nhau giành ăn không thôi cũng chết
cả đống. Điệu này thì làm sao mà sạ? Qua bèn nghĩ ra một kế thần sầu, qua nói
với bả bẻ một cành cây, khi đội thúng giống từ ghe lên thì một tay vịn thúng,
một tay thì quơ nhánh cây trên miệng thúng, miệng thì hô hù hù cho chim nó sợ.
Làm vậy mà một thúng khi vô tới ruộng rồi cũng chỉ còn hơn phân nửa. Chừng qua
bắt đầu
sạ thì lúa giống chỉ còn đủ cho hơn chục công. Trối kệ! cũng cứ sạ chớ
làm sao. Qua bắt dầu bưng giống xuống ruộng để sạ. Mới liệng chừng vài nắm thì
nghe bả la :"chèng đét ơi! Ông coi kìa có hột lúa nào rớt xuống ruộng đâu" Qua
dòm lại thì trời đất quỷ thần ơi! Chuột! Chuột cố, chuột ông, chuột bà, cha mẹ,
con, cháu, chắt, chút, chít nhà chuột, hết cả họ hàng nội ngoại chú bác cô dì
cậu mợ nhà chuột ra sắp hàng hàng lớp lớp dưới ruộng, há mỏ chờ Qua vãi nắm lúa
nào xuống thì đớp hết trơn, chẳng rớt xuống ruộng một hột. Như vậy là công cốc!
Qua với bả đành đội giống về lại. Lại vịn thúng, quơ cành, miệng hù đuổi chim
lội ngược về ghe... Chừng về đến chòi thì chục giạ giống còn lại chưa đầy một
giạ... Vậy mà năm đó Qua thu về hơn ba thiên lúa.
- Nói dóc cha nội, không sạ
thì làm sao có lúa mà gặt?
- Ậy ! đừng có nóng, chú em!
Để Qua vô ly này nữa rồi kể tiếp cho em nghe, Ba Phi này nói phải có lý thôi,
chú em.
Đánh trót ly rượu đế, Bác Ba
Phi chậm rãi kể tiếp:
Chuyện như vầy: Qua về
chòi ngồi bó gối nghĩ lung lắm. Mình bỏ xứ trôi nổi đến đây cặm dùi mà như vầy
đành chết đói sao? Con chim, con chuột, con cá... con gì cũng sống, cũng sanh
sôi nảy nở hàng đàn hàng lũ, mà con người như mình đành không có lúa gạo mà chết
sao? chỉ tại mình nghĩ không ra thế thôi!.. Một bữa, xách mấy ký khô lóc xuống
tiệm chú Phò đổi gạo, Qua bỗng nảy ra ý hay: Nhờ chú Phò gởi ghe hàng mua giùm
mấy chục tay lưới, loại hai phân vuông, nói với chú bắt cá bán lấy tiền trả cho
chú, vốn lời phân minh. Chú Phò một phần ham lời, một phần tin Qua nói không sai
hẹn, nên khứng giúp. Có lưới rồi qua lập thế giăng ngang đường chim bay về mỗi
tối. Trời nhá nhem là chim mỏ nhác không thấy đường, nó chỉ bay theo thói quen,
cứ vậy mà ghim đầu vô lưới. Qua cứ ở nhà
đan bội chờ hốt chim đem chợ Bảy Sào bán, được bao nhiêu, sau khi mua các thứ
lặt vặt, còn lại mua lúa chở về. Chừng vài tháng chim bớt hẳn, cũng là lúc
sang mùa
nắng, Qua lại bện sậy làm đăng, thứ này thì thiếu gì, bện mấy chục tay
đăng lại không đặng. Qua giăng đăng ngang bờ ruộng, dưới hướng gió, sau đó lội
lên
đầu gió châm lửa đốt. Mớ cỏ lác, năng, bàng trong năm theo con nước
lên cao nghều nghệu, chừng nước rút nằm sắp lớp dày cả thước, nắng tháng giêng,
hai làm khô mặt trên nhưng bên dưới vẫn còn ẩm, cho nên lửa không bốc thành ngọn
mà chỉ ngún ngầm trong cỏ, khói theo gíó cứ luồn theo cỏ mà hun. Cả họ hàng nhà
chuột bị khói cay mắt từ từ dồn về phía mé kinh, nơi có mấy tay đăng chờ sẵn.
Con nào còn nhỏ chui lọt đăng, tha làm phước, con nào lớn dính lại hết. Cả ngàn
con chớ ít sao. Qua bán không kịp đành lột da mổ bụng muối, lớp phơi làm khô,
lớp nhận làm mắm. Mắm chuột ngon mà lại có giá vì lạ miệng. Năm đó Qua trúng
lớn, bán mớ khô chuột và mắm chuột Qua mua về cả mấy trăm giạ lúa nữa. Tính
ra, vừa
chim
vừa chuột năm đó Qua thu về hơn ba thiên lúa. Hổng tin
hỏi bả coi!
Tàu
Rùa
Năm đó trời làm hạn
hán. Nước rút dần xuống mấy đìa nhỏ, cá tép cũng theo nhau về chen chúc trong
mấy cái vũng ngày càng nhỏ hẹp, chịu không nổi với cái nóng tháng Hai tháng Ba,
thi nhau phình bụng nổi phều, chết ráo trọi. Chim chuột cũng thiếu thức ăn, tản
cư đi đâu mất. Người còn phải chật vật, huống hồ là muông thú. Có khá chăng là
miệt dưới Năm Căn, Bảy Sào... ghe thương hồ ghé buôn bán, còn chút tấp nập chớ
miệt đầu
nguồn, dân phá rừng, ăn ong... sống nhờ vào thiên nhiên như qua thì ở đâu
đất lành chim đậu. Nói vậy chớ biểu qua ra chợ hay nơi thị tứ kiếm sống, qua xin
chịu. Thảnh thơi quen rồi, không chịu được gò bó, ồn ào nơi đông
đúc.
Thường thì qua
luôn tìm công việc gì đó để làm, khi thì đan mấy cái lờ, đặt dọc theo mấy đường
nước, cũng đủ cá mắm cho hai ông cháu, qua với thằng Đậu qua ngày, khi thì qua
lội vô rừng tràm gác kèo ong, chờ tới mùa, trúng cũng thu được
vài chục lít mật. Năm nay bết bát quá, hai vợ chồng thằng con qua, cha mẹ thằng
Đậu, theo bạn gặt lên tuốt Châu Đốc từ hôm ra giêng, vừa ăn Tết
xong, gửi thằng Đậu mới lên tám ở nhà hủ hỉ, cũng là để rảnh tay rảnh chơn mà
gặt, hái... Mới hôm đầu tháng rồi, nó nhắn về, nói
công gặt cũng chẳng được bao nhiêu, vì bạn gặt các nơi đổ về đông quá. Nó nói nó
cùng với mấy đứa bạn bán lúa công gặt, gom tiền lên Miên bao đìa tát, bắt cá làm
khô, mắm, đem vể miệt Châu Đốc, Long Xuyên bán, lấy tiền mua lúa lại đem về. Qua
nghe vậy thì hay vậy, ở nhà hai ông cháu chẳng chết đói đâu mà sợ. Thằng Đậu lớn
lên trong rừng với qua nên tuy chẳng học hành gì ráo, nhưng việc gì cũng làm
được. Từ tóm câu đến đặt trúm bắt lươn... chuyện gì cũng rành. Tuy vóc không lớn
lắm nhưng thằng Đậu mạnh cùi cụi và lanh như con sóc, xuống nước thì khỏi nói,
nó lặn hụp như rái cá... Qua thương thằng Đậu lắm, những gì qua biết, qua đều
chỉ cho thằng Đậu, hai ông cháu coi là tương đắc với nhau
lắm.
Một lần, qua với thằng
Đậu theo đường nước chèo tuốt vào trong sâu, định tìm thêm chỗ gác thêm vài trăm
kèo ong. Chỉ cần gạo đầy ảng , nước mắm đầy hủ... là đủ, tới đâu kiếm thức ăn
tới đó, chim trời cá nước đầy ra đó, chỉ có mấy đứa làm biếng mới không có mà
ăn. Tới đâu mệt thì cặm sào lại nghỉ. Chừng hơn ngày đường, qua biển thằng Đậu
cột ghe nghỉ, dặn nấu cơm ăn và coi chừng ghe, còn qua rảo lên bờ coi địa thế.
Rừng hoang vu, không dấu tích con người lai vãng. Tràm mọc dày ken, qua phải
lách theo chỗ trống len tới. Chừng cách xa bờ hơn trăm thước, bổng nhiên rừng
như sáng ra, trước mặt là một cái bàu trước chắc cũng khá rộng, nhưng trời hạn
đã thu hẹp phần nước. Bãi bùn chung quanh giờ đã khô cứng. Mà cái gì vậy kìa, đá
ở đâu mà ai sắp đầy bãi, lớn nhỏ đủ cữ. Ủa! đá sao mà cục cựa! Chừng dụi mắt
nhìn kỹ thì chu cha quỷ thần ơi, rùa! không biết ở đâu mà tụ về bàu, có lẽ tim
chút hơi mát của nước còn sót trong bàu do trời hạn quá lâu. qua chạy ngược về
ghe. Thằng Đậu nấu vừa xong nồi cơm thấy qua hớt hải
trở về, vội hỏi:
- Gì vậy nội ?
- Đừng hỏi, đừng hỏi, để nội
tính thử ! có nước trà rót cho nội một miếng
Chừng xong một bình trà, qua
biểu thằng Đậu
- Đi! Đi theo nội! Đi bắt
rùa.
Hai ông cháu lại len
lỏi trở vào rừng, gom lá tràm khô và củi bổi chất giáp vòng quanh đìa, chỉ chừa
lại một lối duy nhất ra sông, thằng Đậu cũng đã quen ý qua, nên cũng không hỏi
đi hỏi lại, chỉ lo gom lá khô. Hai ông cháu làm tới chạng vạng mới vừa xong,
lui về ghe. Aên xong, thằng Đậu lăn ra ngủ như chết.
Sáng hôm sau, khi
thằng Đậu thức dậy thì qua đã nấu cơm sẵn, hối thúc nó ăn cho chắc bụng. Chừng
dọn dẹp xong, qua lui ghe ra cặm ngoài sông, cách bờ chừng một tầm . Qua lôi từ
trên ghe một miếng ván nhỏ, một đầu gác lên be ghe, đầu kia
gác lên bờ. Qua cũng đưa cho thằng Đậu cây giầm dặn nó ở ghe đợi. Qua lại lội
vào rừng, cầm theo con cúi... Chừng một khắc sau, rùa bắt đầu
xếp hàng bò từ từ xuống bờ sông. Bây giờ thì thằng Đậu mới hiểu
công việc qua trù tính hôm qua. Qua bắt chước truyện Tam Quốc, dụng hỏa công phá
trận Xích Bích Rùa, nhưng qua còn tài hơn Gia Cát Khổng Minh là bắt rùa phải chạy
về hướng mà qua muốn... Chừng mấy anh rùa đầu tiên xuống đến bờ sông, qua
lượm đặt lên cầu ván đã bắc sẵn xuớng ghe. Thế là cả đoàn quân rùa cứ theo
anh đầu
đàn mà lần lượt lên ghe. Từ trên bờ qua còn la lớn kêu thằng
Đậu:
- Con coi con nào lớn cho
lên ghe, con nào nhỏ hất xuống
Thế là thằng Đậu hờm sẵn
trên ghe cứ lựa theo ý nội nó, miệng cứ tía lia;
- Thằng này lên, thằng này ở
lại..., thằng này lên, thằng này lên...
...Mặt trời đã đúng
bóng mà rùa vẫn cứ tiếp tục nối đuôi nhau lên ghe, dưới sông bì bõm không biết
bao nhiêu là rùa bị thằng Đậu hất xuống, cố bám vào be ghe... Trời hơi xế thì
ghe cũng vừa
khẳm. Qua lên ghe sửa soạn nhổ sào, miệng kêu thằng
Đậu
- Đậu! coi rút miếng ván,
rồi đẩy mũi ghe ra.
Ghe được rút sào, cả
mấy trăm con rùa dưới nước hai chân trước bám vào be ghe, hai chân sau bơi bơi
trong nước, đẩy ghe chạy tới. Ban đầu còn đâm ngang đâm dọc, nhưng
chỉ chừng vài phút sau qua đã kềm được lái, cứ thế mà ghe chạy băng băng trên
sông. Thằng Đậu ngồi trên mũi ghe khoái chí ca vọng cổ. Cả hai ông cháu chẳng
phải chèo chống gì mà ghe cứ như có gắn máy rẽ nước chạy, dậy sóng cả một khúc
sông, khiến mấy ghe nhỏ, xuồng con trồi lên hụp xuống. Một ghe ngược chiều la
lớn:
- Bớ tàu! Bớ tàu! bớt máy!
bớt máy!
Thằng Đậu ngồi đằng mũi ghe
thích chí cười lớn trả lời:
- Tàu này chạy bằng sức rùa
thì làm sao bớt máy được !
Mấy người hổng tin? Hỏi
bả coi
...
3.
Vài ý kiến
Chuyện Bác Ba Phi chỉ mới
xuất phát gần đây và tương đối khá phổ biến trong dân quê miền Nam. Cũng như
nhân vật Trạng Quỳnh ở ngoài Bắc, những chuyện kể nào có tính cách hơi phóng đại
và ngộ nghĩnh đều được gán cho Bác Ba Phi.
Qua hai chuyện vừa kể, ta
thấy ngay chuyện Tàu Rùa là chuyện do người kể gán ghép cho Bác Ba Phi... Nhưng
qua loạt chuyện về Bác Ba Phi, chúng ta thấy ngay tinh thần chịu khó, đơn giản,
mộc mạc và thông minh của những người tiền phong trong việc khai phá vùng đất
cực Nam của đất nước. Thiên nhiên miền Nam giàu có, hào sảng bao dung những
người thất cơ lỡ vận, những kẻ phiêu lưu, những người làm chính trị thời Pháp
thuộc bị lộ, muốn tìm cho mình một lý lịch mới.
Từ bên kia Sông
Tiền
Qua bên này sông Hậu
Mang theo chiếc đc
huyền
và câu thơ Lục Vân Tiên
...
(Sơn Nam - Hương Rừng Cà
Mau)
Người Việt không có tính
phiêu lưu, cực chẳng đã mới phải rời bỏ quê hương, nơi chôn nhau cắt rún mà đi.
Đi tìm sự bình an, đất lành chim đậu, miền Nam trù phú, đón chào những bước chân
tiền phong. Nhưng thiên nhiên không bao giờ cho không tài sản của mình. Những
người tiền phong phải đổ mồ hôi, công sức để khai phá, phải chiến đấu với muỗi
mòng, đỉa vắt, thú dữ (đặc biệt là sấu và cọp) chịu đựng ẩm thấp, chướng khí...
Họ đã khai phá miền Nam một cách linh hoạt. Những người tiền phong này thường ít
học, mộc mạc đơn giản, thuộc tầng lớp nghèo khổ nhất của xã hội. Nhưng họ là
những người giàu tinh năng động không chịu trói mình trong khuôn khổ cứng
ngắt.
Sách biên khảo về miền
Nam còn quá ít so với những công trình tương tự về miền Bắc và Trung. Trước đây
có vài công trinh có tính khởi đầu của vài tác giả miền Nam như
Huỳnh Minh (qua các cuốn Vĩnh Long Xưa và Nay, Gò Công Xưa và Nay...), Sơn Nam
(Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam, Đồng Bằng Sông Cửu Long hay Văn Minh Miệt Vườn...)
và gần đây có bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh của Hứa Hoành . Bộ sách nói về các tỉnh xưa và
nay của Huỳnh Minh thiên về địa dư chí và giới thiệu các thắng cảnh du lịch, di
tích lịch sử cùng vài giai thoại nhỏ. Bộ Nam Kỳ Lục Tỉnh cũng là tập hợp những
giai thoại, chuyện kể, ghi chép của tác giả về những vùng đất hai bên sông Tiền
và sông Hậu và đúng như tác giả giới thiệu đó là những tài liệu giai thoại nghe
được, thấy được; nên chưa thể coi đó là một biên khảo có tính khoa học; tuy vậy
chúng ta cũng có thể gạn lọc ở đó một nguồn tài liệu lớn. Riêng hai cuốn Lịch Sử
Khẩn Hoang Miền Nam và Đồng Bằng Sông Cửu Long hay Văn Minh Miệt Vườn cùa Sơn
Nam mang tính biên khảo nhiều hơn, nhưng chỉ mới có tính cách giới thiệu và có
thể là những khởi đầu cho những công trình biên
khảo lớn hơn, khoa học hơn của các tác giả sau này.
Hòa Đa