Home » » Tham chiếu giữa Khoa học & Phật giáo

Tham chiếu giữa Khoa học & Phật giáo

Written By kinhtehoc on Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011 | 01:36

Tham chiếu giữa Khoa học & Phật giáo
(TG&DT) - Khoa học dù có những tiến bộ ngoạn mục, thần kỳ, tưởng có thể cướp quyền tạo hóa, nhưng thật ra vẫn không thể giải quyết nhiều vấn đề rất cơ bản của con người, lý do là KH vẫn còn nhiều vướng mắc (chấp pháp, cho rằng thế giới là có thật) và chấp ngã (cho rằng cái ta có thật) và suốt đời con người chạy theo danh vọng, tiền tài, tính dục, rồi đến tổ quốc, dân tộc, văn hóa, tôn giáo…và nhiều ảo vọng khác.
Xưa nay đã có rất nhiều sách báo đối chiếu hay so sánh Khoa học và Phật giáo. Người ta so sánh hai môn học rất khác biệt này và thấy chúng có nhiều điểm tương đồng quan trọng, tuy nhiên cũng có những khác biệt rất lớn. Trong bài này, chúng  tôi có mục đích muốn tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt đó. Vì đề tài này đã được bàn luận rất nhiều rồi, nên ở đây chúng tôi không đi quá sâu vào chi tiết mà chỉ cố gắng làm rõ những điểm tương đồng và dị biệt đó dưới cái nhìn tổng quan.

A.   Những điểm tương đồng giữa Khoa học và Phật giáo

1. Cấu trúc của vật chất và Thuyết thập nhị nhân duyên của Phật giáo.

Khoa học ngày nay đã hiểu biết khá nhiều về thế giới vật chất mà đa số tuyệt đối các nhà khoa học cho là khách quan ở ngoài ý thức (quan điểm duy vật). Người ta biết rằng vật chất không phải là một thể đồng nhất, mà nó được cấu trúc từ những phần tử rất nhỏ gọi là nguyên tử. Khoa học thế kỷ 20 còn thâm nhập vào bên trong của nguyên tử để tìm hiểu những hạt cơ bản tạo ra vật chất, vì những hạt này ở mức độ nhỏ hơn, thấp hơn nguyên tử nên người ta gọi chúng là những hạt hạ nguyên tử (subatomic particles)  và thấy rằng trung tâm nguyên tử là một hạt nhân được cấu tạo bằng hai loại hạt : proton và neutron. Bên ngoài hạt nhân có những hạt electron chuyển động rất nhanh chung quanh tạo thành một khối hình cầu mà vỏ là electron và nhân là proton và neutron. Có những nguyên tử đơn giản nhất chỉ có một hạt proton và một hạt neutron, đó là hydrogen, nguyên tố chính tạo thành nước. Nguyên tử Helium thì có hai proton, hai neutron và hai eletron.

                             


                                Nguyên tử Hydrogen        Nguyên tử Helium        
  
Trong hậu bán thế kỷ 20, người ta còn thâm nhập sâu hơn nữa vào cấu trúc của hạt proton và hạt neutron và thấy rằng chúng được cấu tạo bằng hai loại hạt quark : quark up và quark down


Như vậy chỉ với 3 loại hạt : quark up, quark down và electron, đã tạo ra tuyệt đại đa số vật chất trên quả địa cầu của chúng ta. Các sinh vật cũng hình thành từ những hạt này mà thôi, tiến hóa từ chất vô cơ đến chất hữu cơ, rồi chất sống và cuối cùng là con người vô cùng phức tạp và kỳ diệu.

Thuyết thập nhị nhân duyên của Phật giáo cũng mô tả thế giới vật chất và thế giới sinh vật bằng cấu trúc trùng trùng duyên khởi của nhân duyên mà yếu tố căn bản là vô minh và yếu tố cuối cùng trong chuổi 12 nhân duyên là Lão tử (già chết- Xem bài Thập nhị nhân duyên). Khoa học (KH) và Phật giáo (PG) giống nhau ở chỗ mô tả thế giới là cấu trúc, cấu trúc chính là bản chất của thế giới, đó là sự tương tác lẫn nhau của đủ loại cấu trúc, khác nhau về hình tướng nhưng đồng nhau về bản chất. Nhưng cấu trúc bằng vật liệu gì thì chúng ta sẽ trở lại ở phần dị biệt.

2. Sự biến đổi, tuổi thọ hữu hạn của vạn hữu và Tính chất vô thường của vạn vật.

KH đã chứng minh là tất cả mọi vật từ một hạt cơ bản hạ nguyên tử cho đến vũ trụ bao la đều có tuổi thọ hữu hạn, mọi sự vật đều luôn luôn biến đổi, luôn luôn chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, lâu hay mau tùy vật nhưng biến đổi là bản chất của mọi vật. PG cũng nêu tính chất vô thường của vạn vật, mọi vật đều luôn biến đổi qua 4 trạng thái là : thành (hình thành), trụ (tồn tại và lớn lên), hoại (hao mòn và huỷ hoại), và diệt (mất đi) và không gì có thể thoát khỏi qui luật này. Tính chất vô thường hay bản chất sinh diệt là điểm đặc trưng của thế giới chúng ta đang sống.

3. Đa vũ trụ theo KH và Tam thiên đại thiên thế giới theo diễn tả của PG

Khoa học với các phương tiện quan sát và thám hiểm không gian hiện đại, biết rằng vũ trụ rất rộng lớn, bán kính có thể đến 14 tỉ quang niên. Trong vũ trụ có vô số thiên hà, mỗi thiên hà có hàng tỉ mặt trời với hệ hành tinh của nó tương tự như dải ngân hà và thái dương hệ của chúng ta. Những năm gần đây KH cũng khám phá ra nhiều hành tinh hơi giống giống trái đất của chúng ta, tuy nhiên KH chưa tìm thấy tín hiệu của một nền văn minh khác ngoài trái đất. Có rất nhiều tin tức chưa được kiểm chứng về những vật thể bay không xác định (UFO Unidentified Flying Objects) mà người ta ngờ là của những nền văn minh khác ngoài địa cầu. Tuy nhiên chưa có một trường hợp nào được xác định rõ ràng. Kinh điển PG thì đề cập đến Tam giới là Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới. Chỉ riêng Dục giới thôi đã rộng lớn hơn vũ trụ mà chúng ta quan niệm vì ngoài cõi vật chất, Dục giới còn bao gồm cõi trời Lục Dục thiên mà các giác quan của chúng ta không thể tiếp xúc được.

Như vậy Tam giới của PG vô cùng rộng lớn được diễn tả bằng thuật ngữ “Tam thiên Đại thiên thế giới”, tức là 1000 lũy thừa 3 (10003) Đại thiên thế giới, mỗi Đại thiên thế giới có 1000 Trung thiên thế giới, mỗi Trung thiên thế giới có 1000 Tiểu thiên thế giới, mỗi Tiểu thiên thế giới là 1000 thế giới nhỏ, một thế giới nhỏ là tương đương cõi thế gian của chúng ta. Nếu dùng toán học để tính ra số lượng thế giới nhỏ thì như sau : 10003 x 1000 (Đại thiên) x 1000 (Trung thiên) x 1000 (Tiểu thiên) = một tỉ tỉ (1018) thế giới nhỏ (tương tự thế gian). Thật ra đây chỉ là con số tượng trưng có ý nghĩa là rất lớn, đến mức vô lượng vô biên. Như vậy ta thấy PG đã đưa ra quan niệm đa vũ trụ, các vũ trụ chồng chất lên nhau mà phần lớn là vô hình đối với các giác quan của chúng ta, các cõi trời Lục Dục thiên thuộc Dục giới, các cõi trời thuộc Sắc giới, các cõi trời thuộc Vô Sắc giới đều hoàn toàn vô hình đối với chúng ta nên tuyệt đại đa số con người không thể thấy được các cõi giới đó. Không thấy không cảm nhận được, con người bèn cho rằng không có. Cũng giống như chung quanh ta có rất nhiều sóng vô tuyến, sóng điện từ, sóng cực vi mà ta không thể cảm nhận trực tiếp được.

Chỉ khi có các thiết bị như radio, tivi, smartphone, hoặc những người có đặc dị công năng, mới thấy có âm thanh, hình ảnh, tín hiệu, thế giới vong linh cõi âm…Đa vũ trụ cũng được các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay mô tả. Stephen Hawking (nhà vật lý người Anh, hiện mang chức danh Giáo sư Lucasian tức giáo sư Toán học của Đại học Cambridge, chỉ những nhà khoa học xuất sắc như Isaac Newton hay Paul Dirac mới có chức danh này) và Neil Turok (sinh năm 1958 tại Johanesburg South Africa, Giáo sư Vật Lý của Đại học Princeton, Giám đốc Viện Perimeter về Vật Lý lý thuyết), hai người nói trong một định đề (postulate) : “The quantum world is one of virtual particles continually fluctuating in and out of existence, even in a vacuum, of superstrings vibrating and twisting in ten or eleven dimensions, most of which are ‘rolled up’ and invisible, of a reality in which gravitation, spacetime and matter are or were merged in one ‘instanton” (Thế giới lượng tử là thế giới của các hạt ảo không ngừng dao động qua lại giữa hiện hữu và cả hư không, của siêu dây rung động và biến dạng trong 10 hoặc 11 chiều kích_ mà phần lớn những chiều kích ấy bị cuốn lên và vô hình_của một thực tại trong đó lực hấp dẫn, thời không, và vật chất, được hoặc đã được kết hợp lại trong ‘hiện tiền’).

Cái mà chúng ta thấy và cảm nhận được trong “hiện tiền” chỉ là một phần rất nhỏ của đa vũ trụ vô lượng vô biên mà PG từ lâu đã diễn tả trong thuật ngữ “Tam thiên Đại thiên thế giới”

4.          Thuyết tương đối của Einstein và Tam giới duy tâm của PG

Thuyết tương đối của Einstein tập trung ở 3 điểm quan trọng : không gian, thời gian và khối lượng vật chất là tương đối. Tương đối có nghĩa là không tồn tại độc lập, là phụ thuộc vào một cái khác, hay phụ thuộc lẫn nhau. Tương đối cũng có nghĩa là có thể co dãn, có thể thay đổi. Thuyết tương đối ngày nay đã được kiểm chứng.

-Khoảng cách không gian tương đối. Một mặt trời có đường kính một triệu km, khi cháy hết nhiên liệu, có thể co rút lại chỉ còn vài km, trở thành lỗ đen. Như vậy khoảng cách không gian cấu tạo bằng vật chất có thể thay đổi. Điều đó có nghĩa là khoảng cách bằng đường bộ tính theo đường thẳng từ Sài Gòn đến Hà Nội là 712 dặm (miles) hay 1146 km có thể thay đổi. Khoảng cách không gian chân không (không có vật chất đất đá, không khí) từ Sài Gòn đến Hà Nội cũng không có thật. Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) đã chứng minh rằng một photon không mất chút thời gian nào để truyền tín hiệu qua lại giữa hai nơi cách nhau 18km (tại Thụy Sĩ). Hiện tượng rối lượng rối lượng tử thật sự đã làm cho Einstein bối rối vì nó trái với định đề của ông đưa ra, rằng ánh sáng là tốc độ cao nhất của vật chất. Vậy tại sao photon có thể truyền tín hiệu đi nhanh hơn ánh sáng. Ông không thể lý giải được và gọi đó là tác động ma quái từ xa (spooky action at a distance). Eintein qua đời năm 1955, không kịp nhìn thấy thí nghiệm tại Thụy Sĩ, nếu nói tín hiệu truyền đi từ hạt photon này sang hạt photon kia thì nó phải đi nhanh hơn gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng. Điều đó không đúng mà phải hiểu khác đi là khoảng cách không gian không có thật.

- Thời gian tương đối. Thí nghiệm đầu tiên chứng minh thời gian co giãn thực hiện năm 1938. Các nhà khoa học Mỹ sử dụng hiệu ứng Doppler (hiện tượng sắc thái âm thanh của một vật – chẳng hạn tiếng còi tàu – thay đổi khi đến gần hoặc đi xa tai người nghe) để làm dụng cụ đo. Nhưng lúc ấy mức độ chính xác của công cụ đo lường  còn hạn chế nên thí nghiệm chưa có sức thuyết phục cao. Năm 2005 người ta làm thí nghiệm với máy gia tốc, họ phát đi 2 chùm nguyên tử chạy theo hình một cái bánh rán – thể hiện cho chiếc đồng hồ đang chuyển động của Einstein. Sau đó, họ đo thời gian của các chùm nguyên tử này bằng máy đo phổ laser có độ chính xác cao. Khi so sánh với thế giới thực bên ngoài, họ nhận thấy thời gian di chuyển của các nguyên tử quả thực chậm hơn bình thường. “Chúng tôi đã có thể xác nhận hiệu ứng này chính xác chưa từng có”, trưởng nhóm nghiên cứu Gerald Gwinner từ Đại học Manitoba ở Winnipeg, Canada, nói. “Và trong sự nhất trí tuyệt đối”, ông bổ sung. Thí nghiệm này đã chứng minh thời gian chạy nhanh lên hoặc chậm đi phụ thuộc vào tốc độ di chuyển của một vật so với vật khác.

- Khối lượng tương đối. Theo Walter Kaufmann, vào năm 1901 ông là người đầu tiên xác nhận  khối lượng điện từ phụ thuộc vào vận tốc. Khối lượng điện từ là khối lượng gắn liền với sự chuyển động của electron trong nguyên tử. Khi một vật di chuyển nhanh đáng kể (tức gần với vận tốc ánh sáng) thì khối lượng của các electron cũng tăng lên rõ rệt. Điều đó chứng tỏ khối lượng cơ học của vật thể là không cố định, không có thực thể, chỉ có khối lượng điện từ biểu kiến (apparent) mà thôi, hay nói cách khác, khối lượng của mọi vật thể đều có nguồn gốc điện từ. Trên địa cầu, khi một vật đứng yên, nó vẫn có khối lượng bởi vì thực ra địa cầu chuyển động, thái dương hệ chuyển động, dải ngân hà chuyển động, do đó không có vật gì thật sự đứng yên. Vì vậy mọi vật đều có khối lượng. Nguồn gốc của khối lượng là năng lượng đã làm cho electron chuyển động. Năng lượng đó được tích lũy trong hạt nhân nguyên tử. Vì vậy giữa khối lượng và năng lượng có sự tương đương, được thể hiện trong công thức nổi tiếng của Einstein :

E (năng lượng) = M (khối lượng) x C(vận tốc ánh sáng)

Khối lượng tương đối được chứng minh rõ ràng trong các máy gia tốc hạt, khi các electron tự do di chuyển với tốc độ bằng 99,9999875 phần trăm tốc đô ánh sáng. Lúc đó khối lượng electron tăng  gấp 2000 lần so với khối lượng bình thường của electron.

Giữa khối lượng và năng lượng có sự liên hệ chặt chẽ qua công thức trên, nên nếu khối lượng là tương đối, nghĩa là có thể thay đổi, thì năng lượng cũng thế, có thể thay đổi, năng lượng có thể biến thành khối lượng vật chất. PG nói rằng Tâm cũng là một dạng năng lượng, chẳng những vậy, Tâm còn là một năng lượng vô hạn. Nếu làm chủ được Tâm thì cả vũ trụ này chỉ là món đồ chơi của Tâm làm ra. Đó chính là ý nghĩa của câu Tam giới duy Tâm.  Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng, dẫn đến một hệ quả hết sức ngạc nhiên, đó là số lượng cũng tương đối, nghĩa là có thể thay đổi. Số lượng là số đếm dựa trên vật thể tức là các hình tướng khác nhau của vật chất. Mà vật chất là tương đối dù xét theo khối lượng hay năng lượng, nên số lượng cũng là tương đối, nó không có thực chất, chỉ là quan niệm, là tâm thức mà thôi. Hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement) là một thực nghiệm chứng minh rõ ràng và chắc chắn số lượng là không có thực. Một photon có thể xuất hiện đồng thời ở hai hoặc nhiều vị trí khác nhau, khi photon tại một vị trí bị tác động, thì photon tại các vị trí kia bị tác động y hệt, tức thời, bất kể khoảng cách là bao xa. Vậy ta không thể nói là chỉ có một photon, cũng không thể nói là có nhiều photon khác nhau. Không thể xác định được, xác định nào cũng không đúng.

Chính ở đây KH đã gặp PG vì trong Kinh Kim Cang có câu « Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm » (Không có chỗ trụ thì xuất hiện cái tâm ấy). Tất cả đều chỉ là cái Tâm ấy thôi, khắp không gian, khắp thời gian, không thể xác định được là ở đâu, lúc nào. Nó bất nhị, không thể nói là thật hay giả, có hay không. Thuyết tương đối đã đến gần với nhận thức PG, những cái mà con người cho là có thật, khách quan, ở ngoài ý thức, PG đều nói là không có thật. Khi con người bước vào thế giới lượng tử, họ mới thấy, mới hiểu tất cả đều là tương đối, không có cái gì là thực thể độc lập tồn tại, kể cả những cái từ bao đời nay họ vẫn tin tưởng là có thật như không gian, thời gian, vật chất, số lượng.

Nói về số lượng, tưởng cũng nên nhắc tới nhà toán học David Hilbert và chương trình của ông : Xây dựng một hệ thống siêu-toán-học (meta-mathematics) – một hệ thống toán học tuyệt đối siêu hình, tuyệt đối thoát ly khỏi thế giới hiện thực, cho phép XÁC ĐỊNH tính trắng/đen, đúng/sai của bất kỳ một mệnh đề toán học nào và chứng minh tính phi mâu thuẫn của toàn bộ toán học.

Để cho dễ hiểu, xin nói một cách đơn sơ, Hilbert muốn thoát ly khỏi thế giới hiện thực bằng cách thay thế đẳng thức :

1 con cừu + 2 con cừu = 3 con cừu
thành đẳng thức thuần túy toán học  1+2= 3
không còn dính dáng gì tới vật chất nữa.

Nhưng ông không ngờ rằng đẳng thức  1+2=3 là bất toàn, nghĩa là không phải lúc nào cũng đúng, bởi vì về bản chất số lượng là không có thật, đó chỉ là ý niệm mà thôi, ý niệm đó phải gắn với hiện thực mới có ý nghĩa.  Trong hiện tượng rối lượng tử, ta có thể thành lập đẳng thức :

1 photon + 2 photon = 1 photon  [trong đẳng thức, vế đầu mang ý nghĩa thực chứng (positivism), vế sau mang ý nghĩa bản thể học (ontology) nhiều photon xuất hiện tại nhiều vị trí khác nhau, thực tế chỉ là 1 photon]

PG nói hàng tỉ tỉ chúng sinh trong tam giới chỉ là ảo ảnh của một Phật tính bất nhị mà thôi.

Chính nhà toán học Kurt Gödel đã công bố Định lý bất toàn (Theorem of Incompleteness)  vào năm 1931, chỉ ra rằng giấc mộng của Hilbert chỉ là ảo tưởng vì dù cho lô gích của toán học chặt chẽ thế nào, vẫn có mâu thuẫn, chính vì có mâu thuẫn nên giá trị của toán học cũng chỉ là hữu hạn, có tính cách tùy tiện trong một phạm vi nào đó thôi. Kinh điển Thiên Chúa giáo cũng có kể chuyện, trong một buổi giảng đạo bên hồ Galilea, có năm ngàn đàn ông tham dự, chưa kể đàn bà và trẻ con, họ đói, nhưng người thân cận của Chúa Jesus chỉ có 5 cái bánh và 2 con cá, Jesus đã bẻ bánh chia cho tất cả những người tham dự buổi giảng đều được ăn no bụng. Nhiều người cho rằng những câu chuyện như trên chỉ là truyền thuyết hoang đường, ít ai biết rằng chúng cũng có cơ sở khoa học. Đó là số lượng hay khối lượng tương đối, nhiều hay ít chỉ là tâm thức chứ không phải thực thể, nên 5 cái bánh chia cho 10 ngàn người, mỗi người một cái, ăn đủ no, đẳng thức toán học của Hilbert đã thành vô dụng. Nếu chúng ta cho rằng câu chuyện trên chỉ là hoang đường, không có thật, vậy thì nói sao về hiện tượng rối lượng tử, một photon có thể xuất hiện đồng thời tại nhiều vị trí khác nhau, chẳng phải một tức là nhiều đó sao ? Đây không phải là giả tưởng, đây là hiện thực, chúng ta cũng có thể thực nghiệm việc tương tự trên internet, ta chỉ có một tấm hình nhưng ta có thể gởi cho vô số người, ai cũng biết điều này có thể làm được trên máy vi tính nối mạng.      

  B: Những điểm dị biệt giữa Khoa học và Phật giáo  

Tuy có một số điểm tương đồng, nhưng giữa KH và PG cũng có nhiều dị biệt. Dị biệt là do KH đang trong quá trình mò mẫm để hiểu thế giới, còn kinh điển PG liễu nghĩa được thuyết giảng bởi những người đã tự mình chứng được cái chân lý tột cùng mà kinh gọi là trí tuệ Bát nhã, Chánh biến tri, hay phiên âm từ Phạn ngữ là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề 阿耨多羅三藐三菩提 dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ( sanskrit : Anuttara-samyak-sambodhi,  tánh biết chân thật, bình đẳng không có gì cao hơn). Dưới đây xin liệt kê một số điểm dị biệt quan trọng.

1.                        Đối tượng : Đối tượng của khoa học tự nhiên là thế giới vật chất, khách quan, ở ngoài ý thức ; từ vũ trụ mênh mông sau Big Bang đến thế giới vi mô hạ nguyên tử ; từ thế giới không có sự sống đến thế giới sinh vật. Đối tượng của khoa học xã hội là là những gì quan hệ tới con người như Xã hội học, Chính trị, Luật học, Văn học, Triết học, Nghệ thuật, Âm nhạc… KH muốn tìm ra các chân lý tương đối như định luật (tự nhiên), qui luật (xã hội), các hằng số tự nhiên nhi số pi, vận tốc ánh sáng, hằng số Planck…để phục vụ cho sự tiện ích của con người và để xã hội phát triển.

Đối tượng của Phật giáo là chúng sinh đang chịu khổ trong sinh tử luân hồi, đang sống mê muội, vô minh. PG muốn cứu độ tất cả chúng sinh muôn loài thoát khỏi đau khổ, mặc dù biết rằng đau khổ đó chỉ là ảo tưởng chứ không phải thật, nhưng vì chúng sinh chấp là thật nên phải chịu đau khổ. Chẳng hạn con người chấp cái ta là có thật (chấp ngã) do đó cũng chấp cái của ta (ngã sở ) là có thật, ví dụ thân bệnh cũng khổ, cái gì của ta như tài sản, tài nguyên bị đe dọa mất mát thì sinh lòng lo âu, quyết tâm đem cả thân mạng ra bảo vệ, dẫn đến chiến tranh đau khổ. Tóm lại PG chỉ quan tâm đến cái tâm lý chủ quan của chúng sinh, mà thuật ngữ PG gọi là chấp trước tưởng. PG muốn chúng sinh, chủ yếu là con người, buông bỏ chấp trước tưởng mà kiến tánh, tức ngộ được bản chất chân thật của mình. Bản chất đó là bản lai diện mục của chúng sinh, còn gọi Phật tánh, hay Trời (Nho giáo) hoặc Thượng đế (Thiên Chúa giáo).

PG biết là thế giới khách quan không có thực, chỉ có thế giới chủ quan do tâm tạo, do đó PG không có kiến lập chân lý. Đức Phật trước khi nhập diệt đã nói rõ : « Trong 49 năm qua, ta chưa có nói một chữ » 84.000 pháp môn chỉ là phương tiện giả lập để đối trị với các loại căn tánh khác nhau của chúng sinh, đó chỉ là thuốc giả để trị bệnh giả. Kinh Hoa Nghiêm nói : « Chúng sinh là Phật đã thành » Nghĩa là tất cả chúng sinh đều là Phật, hiện tại cũng là Phật, chỉ vì ham vui, mê chấp những cảnh giới ảo tưởng, lâu ngày tạo thành thói quen, quên mất mình là Phật, tưởng mình là chúng sinh khác với Phật. Đó là bệnh giả, Phật phải dùng thuốc giả để trị. Hết bệnh rồi, thuốc giả phải bỏ.

Tóm lại KH tìm kiếm chân lý tương đối trong thế giới mà khoa học gia cho là khách quan. PG phủ nhận thế giới khách quan, không kiến lập chân lý (thực chất là không có chân lý) chỉ muốn chúng sinh thoát khỏi mê lầm và khổ vì sinh tử luân hồi.

2.                  Phương pháp. KH sử dụng tư duy của bộ não, suy luận lô gích, dùng phương pháp so sánh để nhận biết. Càng ngày KH càng phát triển các thiết bị đo lường, các phương pháp tính toán chính xác, các phương trình toán học để từ những cái đã biết, suy luận ra cái chưa biết. KH rất chú trọng về định lượng, do đó phương trình toán học không thể thiếu trong nghiên cứu khoa học. Cho đến ngày nay, KH đã có những bước tiến khổng lồ, chế tạo được vô số công cụ, thiết bị để phục vụ tiện nghi cho mọi nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.

PG chỉ chú trọng phương pháp quán tưởng để phá bỏ tri kiến vô minh, đạt tới sự thấu hiểu cực kỳ sâu xa mà suy luận của bộ não không thể đạt tới. Phương pháp đó gọi là thiền định, hành giả có thể đạt tới những cảnh giới như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, hoặc cao hơn nữa như Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hay cao nhất là Không vô biên xứ. Đến cảnh giới này thì mọi chấp trước về không gian, thời gian, số lượng đều bị phá bỏ, tâm thức vô trụ, tư duy ngừng nghỉ.

Ngoài quán tưởng, PG Thiền tông còn dùng phương pháp khác là tham công án và về sau là tham thoại đầu. Đây là phương pháp tối thượng thừa của Thiền. Công án là một tình huống bất chợt mà người đã ngộ, tạo ra cho người chưa ngộ để có thể phát khởi nghi tình. Nghi tình là tâm thức hoài nghi, ở đây không dùng tới tri kiến và suy luận, mà chỉ duy trì sự hoài nghi kéo dài, miên mật cho đến một lúc nào đó thì bùng nổ, tức là kiến tánh. Thoại đầu không phải là câu thoại mà là  cảnh giới trước khi có câu thoại, gọi là vô thủy vô minh. Để tới cảnh giới đó, dùng một câu thoại đề khởi liên tục để phát sinh nghi tình và duy trì nghi tình cho miên mật càng lâu càng tốt. Câu thoại là một câu nào đó rất khó hiểu làm cho hành giả sinh nghi, nhưng không tìm cách giải đáp mà chỉ kéo dài nghi tình mà thôi. Chẳng hạn câu thoại « Bản lai diện mục trước khi cha mẹ chưa sinh là gì ?

Tóm lại, KH phát triển tư duy, hướng ra thế giới vật chất bên ngoài, chú trọng định lượng. Còn PG tìm cách chấm dứt tư duy, chấm dứt tận ngọn nguồn sâu thẳm của nó là 18 giới (lục căn, lục trần, lục thức) bởi vì tư duy là sở tri chướng che khuất Phật tánh, khi đã dừng được tư duy thì Phật tánh tự hiện.

3.Cứu cánh. Cứu cánh của KH là tri thức, càng nhiều tri thức càng tốt, tri thức càng rộng lớn, chuẩn xác thì càng tốt. Tri thức đó được ứng dụng để sản xuất lương thực thực phẩm, chế tạo quần áo, vật dụng sinh hoạt như nhà cửa, đường sá, xe cộ, máy bay, tàu thủy, máy vi tính, điện thoại di động…khiến cho đời sống con người ngày càng tiện nghi, đầy đủ.

Cứu cánh của PG là giác ngộ, thoát khỏi mọi lo âu sợ hãi, thoát khỏi sinh tử luân hồi, đạt tới sinh tử tự do, làm chủ tâm lực, điều này cũng có nghĩa là làm chủ cả tam giới vì tam giới là do tâm tạo. Hành giả đạo Phật không còn thiết tha mê lầm với cái ta giả nữa, mà trở về với cái bản tâm chân thật, đó là Tâm như hư không vô sở hữu. Tất cả mọi chúng sinh đều cùng chung một Tâm ấy cả, nó chẳng phải một mà cũng chẳng phải nhiều nên PG gọi bằng thuật ngữ Tâm bất nhị.

4. Sự Hạn chế. KH mặc dù làm được sự nghiệp vĩ đại nhưng vẫn còn nhiều hạn chế :

-         KH không thể làm chủ được thiên tai, KH không đủ khả năng chế ngự động đất, sóng thần, bão lụt, núi lửa. Lý giải của KH về thiên tai như động đất, núi lửa, dông bão…là không tới nơi tới chốn, nên không bao giờ chế ngự được chúng. Lúc Huệ Năng tới chùa Pháp Tánh vào năm 676 (nay là chùa Quang Hiếu 光孝 ở Quảng Châu) gặp hai ông tăng tranh luận không dứt về việc gió động hay phướn động, ngài nói rằng “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm của các ông tự động” KH thì giải thích là gió làm phướn động, quá hợp lý phải không,  nhưng từ đâu có gió ? không khí nhiệt độ ư, nếu cứ tiếp tục hỏi tới mãi, vật chất từ đâu mà có ? KH sẽ bế tắc không giải thích được nữa, lúc bấy giờ chúng ta mới có thể hiểu ý nghĩa câu nói của Huệ Năng. Tâm lực mới đích thực là nguồn gốc chuyển động của electron. Vậy nếu làm chủ được tâm thì làm chủ được thiên tai, làm chủ được vũ trụ.

-        KH không thể mang lại hòa bình cho thế giới.  KH không thể giúp con người sống hòa bình thân thiện hơn trên thế giới. Tại sao ? Bởi vì khoa học dựa trên một cơ sở sai lầm về nhận thức cơ bản, khoa học vẫn cho rằng thế giới ngoại cảnh là có thật, con người là có thật, mỗi người có cái ta (bản ngã) và nhiều thứ khác thuộc về ta (sở hữu của ta, gọi tắt là ngã sở). Có những cái thuộc lãnh vực vật chất như giang sơn lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên. Có những cái thuộc lãnh vực tinh thần như lịch sử, văn hóa, tôn giáo. Những cái ngã sở đó là đầu mối tranh chấp, xung đột như : tranh chấp về lãnh thổ, lãnh hải, xung khắc về văn hóa, tôn giáo, xung đột về quyền lợi, từ đó dẫn tới chiến tranh. Những tranh chấp về lãnh thổ không thể giải quyết một cách hòa bình được, vì ai cũng cho lãnh thổ là thiêng liêng, quyết không thể nhượng bộ, nên cuối cùng chỉ có thể giải quyết bằng vũ lực. Những xung khắc về niềm tin tôn giáo cũng rất dễ dẫn tới chiến tranh, ví dụ trong lịch sử đã có ít nhất 7 lần người Công giáo La Mã tổ chức Thập tự chinh (Crusade) chống lại người Hồi giáo. Ngay trong nội bộ Ki Tô giáo, người Thiên Chúa giáo cũng có chiến tranh với người theo Tân giáo hay còn gọi là Tin Lành (Protestantism – Evangelicalism). Xung đột giữa người theo Ấn Độ giáo và Hồi giáo cũng rất trầm trọng. Người Hồi giáo đã tấn công tiêu diệt Phật giáo trong thế kỷ 12, 13 khiến Phật giáo bị diệt vong ngay tại quê hương của nó là Ấn Độ. Trong những cuộc chiến tranh, xung đột như thế, khoa học bất lực không thể giúp được gì, nếu không muốn nói khoa học lại càng làm cho chiến tranh tàn khốc hơn với vũ khí ngày càng tối tân, vũ khí hủy diệt hàng loạt…

-         KH dù cho có tiến bộ, vẫn không thể giải quyết được những nỗi khổ cơ bản trong đời sống con người, đó là sinh, lão, bệnh, tử. KH chỉ có thể tạm thời xoa dịu được phần nào thôi. Con người hay nói tổng quát hơn là chúng sinh khi chết đi lại tái sinh trong một kiếp sống khác, sinh ra, già đi, bệnh hoạn cả tinh thần và thể chất, rồi cuối cùng chết đi, đó là vòng tròn luân hồi khép kín mà khoa học không thể nào phá vỡ được.

Tóm lại khoa học dù có những tiến bộ ngoạn mục, thần kỳ, tưởng có thể cướp quyền tạo hóa, nhưng thật ra vẫn không thể giải quyết  nhiều vấn đề rất cơ bản của con người, lý do là KH vẫn còn nhiều vướng mắc (chấp pháp, cho rằng thế giới là có thật) và chấp ngã (cho rằng cái ta có thật) và suốt đời con người chạy theo danh vọng, tiền tài, tính dục, rồi đến tổ quốc, dân tộc, văn hóa, tôn giáo…và nhiều ảo vọng khác.

Chính vì KH có những hạn chế như vậy nên PG mới còn lý do tồn tại. Như trên đã nói, PG chỉ là một thứ thuốc giả để trị bệnh giả của chúng sinh. Nói là giả, vì thuốc và bệnh chỉ có trong tâm thức, trong tưởng tượng của con người, chứ bản chất thực sự của thế giới là Không, không có gì cả. Trong bài kệ nổi tiếng của Huệ Năng, có nói :

Bản lai vô nhất vật    Xưa nay không một vật
Hà xứ nhạ trần ai      Bụi trần bám vào đâu ?

PG luôn luôn phá chấp, phá cái tâm chấp ngã (cho cái ta là có thật), phá cái tâm chấp pháp (cho vũ trụ là có thật). Kinh Kim Cang nói : Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm (Không có chỗ trụ thì xuất hiện cái tâm đó) Cái tâm đó chính là Phật tánh bất nhị, hoàn toàn không có chút gì hạn chế. Không bị hạn chế bởi không gian, thời gian, số lượng, năng lượng. Không có bắt đầu, không có kết thúc, không có quá khứ, hiện tại, vị lai gì cả. Tâm đó đích thực là sức mạnh tạo ra Tam giới, trong đó có vũ trụ của chúng ta, một cõi giới ảo cao cấp hơn thế giới ảo của tin học hàng ngàn lần . Vũ trụ chính là cái dụng của Tâm bất nhị. Vô minh lại chính là điều kiện cần thiết để phát sinh vũ trụ. Vũ trụ vạn vật cần hai cái vô minh để hiện hữu : Một là vô thủy vô minh (Thiền gọi là thoại đầu), đó chính là cấu trúc ảo của vật chất mà Immanuel Kant gọi là Das Ding an Sich (vật tự thể) và cho là bất khả tri. Hai là nhất niệm vô minh tức là tâm niệm, ý thức thông thường của chúng ta (PG gọi là thế lưu bố tưởng). Nhất niệm vô minh được thành lập khi cấu trúc ảo của vật chất hình thành được các cấu trúc ảo kỳ diệu là lục căn, trong đó xuất sắc nhất là bộ não của sinh vật, tuyệt đỉnh là bộ não của con người. Lục căn phối hợp với lục trần sinh ra lục thức. 18 giới chính là bộ máy ảo hóa kỳ diệu có thể biến cái vô thủy vô minh vốn không có gì là thực cả, thành ra vũ trụ vạn vật.

KH khi đi sâu vào thế giới hạ nguyên tử, thế giới lượng tử, mới bật ngữa, hiểu rằng vật chất không có gì là thật cả, ý thức mới chính là căn bản của thực tại. Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism”  (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).

Sự thật này khiến cho Vật lý học hiện đại lâm vào khủng hoảng. Các khoa học gia hàng đầu thế giới hiện nay, hiểu rằng toàn bộ lâu đài tri thức của nhân loại là xây trên cát.

Truyền Bình
08:45 23/07/2011
Lịch sử và ý nghĩa chuông, trống Bát Nhã
Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại hồng chung (chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên trái phải của chánh điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên trái đặt chuông, bên phải đặt trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống là “lầu chuông trống”.
Chuông trống là một trong các loại pháp khí của Phật giáo. Sở dĩ gọi là Bát-nhã (phiên âm của chữ “prajnaa” (S) có nghĩa là “trí tuệ”) vì công năng của chúng là để thức tỉnh lòng người, có khả năng đánh động tâm linh của người nghe.

Chuông Trống Bát-nhã là danh từ chung để chỉ cho đại hồng chung (chuông rất lớn) và trống lớn, thường được đặt hai bên trái phải của chánh điện, theo cách “tả chung hữu cổ” nghĩa là bên trái đặt chuông, bên phải đặt trống. Nhiều chùa còn xây tháp an trí chuông và trống, nên nơi đặt chuông trống là “lầu chuông trống”.
I. Nguồn gốc và ý nghĩa của tiếng Chuông

Nhiều nguồn tài liệu khác nhau đều cho rằng quá trình đưa chuông vào tự viện và được sử dụng rộng rãi trong các chùa chiền Trung Quốc vào thời kỳ nào không được xác định. Tuy nhiên, như sử liệu ghi lại chuông đã được sử dụng vào thời nhà Chu (557 trước TL- 89 TL). Phật giáo Trung Hoa đã đưa Chuông và Trống vào các tự viện năm nào và do ai đề xướng, hiện nay chúng tôi chưa tìm ra tài liệu. Tài liệu về lịch sử của chuông và trống Bát-nhã quả thật là quý hiếm. Tuy nhiên, chúng tôi dựa vào một số tài liệu sau để tạm truy nguyên nguồn gốc của chúng.

Cuốn Quảng Hoằng Minh Tập (số 2103) trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh ghi rằng vào thời Lục Triều (420 - 479) đã có nhiều lầu chuông. Năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Châu, bài Nhị Giáo Chung Minh được khắc trên ba đại hồng chung lớn nhất thời bấy giờ. Hai cái trong 3 cái này được đúc vào năm 570 và 665 TL.

Tục Cao Tăng Truyện có ghi năm thứ 5 đời Tuỳ Đại Nghiệp (609), ngài Trí Hưng nhận lo việc chuông tại chùa Thiền Định ở kinh đô Trường An. Trong khoảng thời gian này và trở về sau, Bắc Châu không ngừng đúc hồng chung để an trí trong các tự viện.

Lại nữa, theo truyền thuyết cho rằng hồng chung là do Hoà Thượng Chí Công khởi xướng và vua Lương Võ Đế (thế kỷ thứ VI) thực hiện để cầu nguyện cho các thần thức bị đọa trong chốn địa ngục mà người Hoa gọi là chốn U Minh.

Có hai loại chuông thường được sử dụng trong các chùa chiền, tự viện như sau:

Phạn Chung (chuông Phạn): Cũng gọi là “đại chung”, “hồng chung”, “hoa chung” hoặc “cự chung”. Chuông này được đúc bằng đồng xanh pha ít sắt. Thông thường chuông cao khoảng 1,5m, đường kính khoảng 6 tấc. Loại này treo trong lầu chuông, mục đích thỉnh chuông là để chiêu tập đại chúng hoặc báo thời sớm tối. Người Việt mình thường dùng từ “đại hồng chung” chỉ cho loại chuông thật to, gần như không còn có quy định cụ thể là rộng hẹp bao nhiêu nữa. Chuông này còn gọi là chuông U Minh.

Bán chung (chuông bán): Vì chiều kích chỉ lớn bằng 1/2 chuông phạn, nên gọi là bán chung, còn được gọi là “hoán chung” hoặc “tiểu chung.” Chuông này thường được đúc bằng đồng, cao khoảng 6 đến 8 tấc, thường để tại 1 góc trong chánh điện và được sử dụng trong các buổi pháp hội, nên còn có tên khác là “ hành lễ chung.” Người Việt Nam cũng như các nước khác ngày nay cũng linh động chế tạo nhiều loại chuông dạng “bán chung” này, nhưng cũng không có kích thước cố định.

Về thỉnh chuông, xưa ở Trung Quốc tuỳ mỗi Tông phái, từng địa phương mà quy định có khác nhau, nhưng tổng quát là khi bắt đầu thỉnh 3 tiếng và khi kết thúc đánh nhanh 2 tiếng hoặc 3 hồi chín tiếng cho các loại chuông nhỏ khi tụng kinh. Số lượng tiếng thường là 18, cũng có khi thỉnh 36 tiếng, 108 tiếng. Thỉnh 108 tiếng biểu thị hành giả nỗ lực làm vơi cạn đi 108 loại phiền não nơi nội tâm. Mười tám tiếng là biểu thị sự thanh lọc 6 căn, 6 trần và 6 thức.

Ngoài ra, trong thời cực thịnh của Thiền Tông, chuông an trí tại thiền đường, trai đường gọi là “chuông tăng đường”, “chuông trai”; chuông để tại chánh điện gọi là “chuông điện”… Những vị lo việc chuông này gọi là “chung đầu.”

Theo niềm tin cho rằng tiếng vang của chuông có thể thấu đến cõi địa ngục u ám, chúng sanh nào bị đọa nơi địa ngục nhờ nghe tiếng chuông này liền được giải thoát. Lại nữa, tiếng chuông thanh thoát của chùa có thể giúp cho loài quỷ đói được nhẹ bớt lòng tham lam, sân hận mà giải thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Ở các ngôi chùa Việt Nam hiện nay cũng như các chùa Trung Quốc thời xưa hoặc các chùa thuộc các nước theo Phật giáo Đại Thừa như Nhật Bản, Triều Tiên. ...thường có quả chuông lớn để thỉnh vào hai buổi sáng tối trong ngày khi cầu nguyện. Giờ thỉnh chuông buổi sáng lúc 4 giờ hoặc trước thời công phu buổi sang, tuỳ theo quy định của mỗi chùa. Người thỉnh chuông vừa đánh chuông vừa đọc bài kệ:

Nguyện thử chung thinh siêu pháp giới,
Thiết vi u ám tất giai văn.
Văn trần thanh tịnh chứng viên thông,
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
 
Nghĩa là:

Nguyện tiếng chuông này khắp pháp giới, thiết vi u ám cùng nghe được, căn cảnh thanh tịnh chứng viên thông, hết thảy chúng sanh thành chánh giác. (Bản dịch của Hòa Thượng Trí Quang, LUẬT SA-DI, SA-DI-NI, Phật Học Viện Quốc Tế xuất bản, 1989).

Dịch thơ:

1

Nguyện tiếng chuông vang rền pháp giới
Chúng sanh ngục Sắt thảy đều nghe
Tiếng đời sạch, chứng được viên thông
Tất cả muôn loài đều giác ngộ.

(Thích Nhật Từ dịch)

2

Tiếng chuông nguyện vang rền các cõi
Núi Thiết Vi tăm tối nghe hay
Âm thanh đời lắng sạch thay
Chúng sanh giác ngộ, tỏ bày an nhiên.

(Thích Nhật Từ dịch)

II. Nguồn Gốc của Mõ và ý nghĩa
 
Theo sách Tam Tài Đồ Hội của Vương Tích đời Minh có đoạn: “Mõ là loại mà dùng cây khắc thành hình con cá, rỗng bên trong, gõ nó sẽ phát ra tiếng, các hàng Phật tử khi tán tụng đều dùng đến nó.”

Mõ có 2 loại:

Loại hình con cá dài thẳng treo ở nhà kho, nhà ăn…khi đến thời dùng cơm cháo thì gõ nó để báo hiệu. Loại mõ này chỉ dùng trong các chùa cổ Trung Quốc; các chùa chiền, tự viện ở Việt Nam không dùng.

Loại hình con cá có vảy cuộn tròn, khi tụng Kinh thì gõ. Loại này cả Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên đều dùng. Loại mõ này được nói là xuất hiện thuộc triều đại nhà Minh, Trung Hoa.

Theo sách Tham Thiền Ngũ Đài Sơn Ký (quyển 3), Tống Thần Tông, Hy Ninh năm thứ 5 ngày mồng 8 tháng 8 ghi: Trong chùa Thanh Thái có thờ tượng ngài Phó Đại Sĩ. Mỗi khi Ngài muốn gặp các vị tu hạnh đầu-đà nơi cao sơn, chỉ gõ mõ, chư vị sau khi nghe tiếng mõ ấy liền đến. Sau đó, các tự viện lớn nhỏ dưới chân núi đều dùng mõ để tập họp đại chúng. Lại có người cho rằng mõ là do Sa-môn Chí Lâm đời Đường tạo ra, nhưng điều này cũng không lấy gì làm chắc, vì không có sử liệu rõ ràng. Sách Tăng Tu Giáo Uyển Thanh Quy (quyển hạ, phần pháp khí) có ghi lại truyền thuyết rằng có một vị Tăng do phản thầy, huỷ pháp mà bị đoạ làm thân cá, trên lưng con cá ấy lại mọc một cái cây, mỗi khi sóng to gió lớn, khiến thân ra máu, thật thống khổ vô cùng. Một lần nọ, vị Thầy Bổn Sư qua biển, nhân đó nó muốn đòi nợ liền nói rằng: Thầy không dạy bảo nó nên nó mới phải bị đoạ làm thân cá như thế này, do đó nay nó muốn báo oán. Thế rồi, vị Thầy ấy bảo cá nên ăn năn sám-hối, Thầy ấy cũng vì con cá mà cầu siêu chú nguyện và ngay đêm ấy nó được hóa kiếp. Vị Thầy Bổn Sư liền đem cây ấy đẽo thành hình con cá và treo lên để cảnh tỉnh đại chúng. Có thể vì lý do này các mõ tròn sau này cũng hay khắc hình con cá trên mõ để cảnh tỉnh đại chúng.

Theo sách Thích Thị Yếu Lãm ghi rằng: chuông, khánh, bản đá, bản gỗ, mõ đều có khả năng phát ra âm thanh một khi gõ vào và nhờ nghe đó mà đại chúng tập họp nên các loại đó đều gọi là kiền chuỳ.

Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy, chương Pháp Khí cũng nói khi dùng cơm hoặc khi phổ thỉnh chúng tăng đều gõ mõ. Từ đây chúng ta có thể hiểu lúc đầu mõ dài (loại 1) được dùng để tập họp Tăng chúng.

Nhưng vì sao cả 2 loại mõ đều khắc hình con cá? Sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy nói rằng vì loài cá suốt ngày đêm đều tỉnh, nên khắc hình con cá để mỗi khi gõ, chúng ta tự nhắc mình phải tỉnh thức, chớ có hôn trầm, giải đãi.

Tiếng mõ với mục đích chính là giữ trường canh cho đại chúng khi tụng kinh điển cho nhịp nhàng.

III. Nguồn gốc và ý nghĩa của Trống

Trống là một trong những loại nhạc khí, thường làm bằng đá, cây, đồng, v.v…Xưa tại Ấn Ðộ dùng để báo thời gian, cảnh báo. Khi Ðức Phật còn tại thế, dùng nó để tập họp chúng Tăng Bố-tát, nghe pháp…Ngũ Phần Luật có ghi: “chư Tỳ-kheo bố - tát, chúng bất thời tập. Phật ngôn: nhược đả kiền chuỳ, nhược đả cổ…”. Trung Quốc thời xưa dùng nó trong các dịp lễ lộc, vũ hội…Loại hình có to, nhỏ, treo hoặc để trên giá…Trống to gọi là trống tẩu, nhỏ gọi là trống ứng, treo để đánh gọi là trống treo…

Từ đời Ðường về sau, theo thanh quy của thiền môn, trống là một trong những loại pháp khí dùng làm hiệu lệnh báo thời sớm tối. Sau này Phật giáo Trung Quốc tiến thêm bước nữa là phối hợp nhịp điệu, âm thanh của tiếng trống hòa cùng những lời tán tụng, phổ thành nhạc điệu, gọi là “kỹ nhạc cúng dường, trang nghiêm đạo tràng”, dùng âm thanh làm Phật sự, trợ giúp đại chúng phát tâm thành kính với Tam Bảo.

Ai đã đưa trống vào tự viện? Năm nào? Chúng tôi chưa tìm ra tài liệu để đưa ra một giả thuyết khả dĩ. Tuy nhiên, dựa vào bản dịch bài Thiền Sư Đại Điên và Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông năm 820, chúng ta thấy chuông và trống đã được sử dụng rộng rãi trong các nghi lễ Phật giáo. Do đó, ít nhất chúng ta đoán được là trước năm 820, trống đã được đưa vào chùa để làm pháp khí.

Ngày nay, có một vài nghi thức tán tụng ở miền Trung và miền Nam sử dụng trống nhỏ để hỗ trợ cho quý Thầy khi tán tụng. Các loại nghi thức tán tụng này có lẽ cũng chịu ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc, vì các thời tụng niệm của Phật giáo Trung Quốc đều có tán, và loại trống nhỏ này (người Việt mình hay gọi là Trống Cơm) cũng được xem như một loại pháp khí.

Cách đánh Trống Bát-nhã và ý nghĩa biểu trưng:

- Mới đầu đánh nhập 2 tiếng: biểu thị NHỊ ĐẾ dung thông (pháp thế gian và pháp xuất thế gian dung thông, không ngăn ngại).
- 3 tiếng tiếp (mỗi lần 1 tiếng): tượng trưng cho sự khấu đầu quy y TAM BẢO, nguyện dứt trừ tam độc: tham, sân si.
- 7 tiếng sau đó (vì tiếng thứ 7 và 8 đánh gấp, tính gộp thành 1 tiếng), tượng trưng cho BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT THƯỢNG ĐƯỜNG, tức tác pháp thỉnh Phật thăng toà.
- Nếu 7 tiếng này tính thành 8 tiếng: tượng trưng cho câu “MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA” hoặc BÁT NHÃ HỘI THỈNH PHẬT LAI CHỨNG MINH, tức tác pháp thỉnh Phật chứng minh.
- Cuối cùng đánh dứt 4 tiếng: tượng trưng cho chứng nhập TỨ ĐẾ.

IV. Vài ý tưởng khác

1) Vài ý niệm về việc sử dụng chuông, trống, khánh tại Ấn Ðộ và các nước khác

Theo cuốn A Dictionary of Symbols (London, 1962, trang 23) cho rằng âm thanh của chuông là biểu tượng của năng lực sáng tạo. Chuông treo lơ lửng tượng trưng cho sự huyền bí của trời và đất. Hình dáng của chuông xuất phát lấy từ hình tượng vòm trời.

Ấn Độ đã biết sử dụng chuông trên 2000 năm về trước, và có lẽ chuông được sử dụng rộng rãi trong cung đình, đặc biệt trong các chùa chiền. Các hình thức nghệ thuật như điêu khắc chùm chuông xuất hiện vào thời kỳ đầu của Phật giáo có thể được tìm thấy trên các bức phù điêu trên các trụ đá của vua Asoka (A-dục) và các tháp tôn trí xá-lợi của đức Phật. Không phải tại Ấn Ðộ mà ngay cả các nước lân cận chịu ảnh hưởng lớn nền văn hóa tư tưởng Ấn Ðộ như Tích Lan, Miến Ðiện cũng sử dụng chuông, và sau này cả trống nữa, để biểu hiện lòng thành của người cầu nguyện, và đặc biệt dùng khi chấm dứt một khóa lễ.

Trong các dịp tưởng niệm đức Phật, các chuông được sử dụng cùng với một số nhạc khí khác như trống, sáo để biểu hiện lòng tôn kính đức Phật. Tác phẩm Saddharmàlankàra, một tác phẩm văn học tôn giáo thời trung đại của người Tích Lan ghi rằng: chuông được sử dụng đầu tiên ở Tích Lan vào những dịp đặc biệt như triệu tập tăng chúng. Sau này dần dần nó trở thành một phần của nghi lễ cúng dường âm nhạc (‘sabda-pùjà) cho đức Phật.

Tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin rằng khi họ niệm chú, nhờ sức quay chuông của họ mà các câu thần chú sẽ đi muôn nơi vạn hướng, làm vơi bớt nỗi đau khổ của cuộc đời. Cho nên Phật giáo Tây Tạng chế nhiều cỡ chuông cầm tay cho tín đồ trì niệm và cả những chuông lăn lớn để tín đồ quay.

Dĩ nhiên các loại chuông trống ở Ấn Độ thuở ban đầu không giống với các loại chuông trống ngày nay ở Trung Quốc hay Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên. Ở Trung Quốc trống chỉ được sử dụng để thúc quân ra trận. Chuông (một hình thức của chiêng) được sử dụng như dấu hiệu của rút quân. Trong các buổi lễ tế giao của thiên tử không thấy đề cập đến sử dụng các loại nhạc khí nầy. Trống phần lớn cũng để triệu tập ba quân tướng sĩ hoặc kêu oan ở cửa quan. Loại trống này được sử dụng rộng rãi về sau trong giới quan lại để hành quyết tội nhân ở pháp đường.

2) Sự mầu nhiệm của tiếng Khánh

Theo như các thiền sử ghi lại qua các hành trạng của một số vị thiền sư, thì tiếng khánh có tác dụng rất lớn đối với người tu thiền. Một khi thiền giả đã vào các tầng thiền như “diệt thọ tưởng định” thì dù có trời long đất lở thân tâm của vị ấy cũng bất động. Tuy nhiên, chỉ với một vài tiếng khánh nhỏ cũng đủ đánh thức các Ngài dậy. Câu chuyện Ngài Hư Vân là một điển hình, trong một cơn thiền định xuất thần kéo dài cả tuần, chư vị Hòa Thượng khác đã dùng khánh mà đánh thức Ngài xuất định.

Lời cuối, cầu chúc quý cư sĩ thân tâm thường an lạc, hằng tinh tấn làm các thiện sự và tu tập tâm của mình.
Chuông Trống Bát Nhã Có Công Dụng Gì Trong Chùa ?
Tại mỗi chùa khi cử hành lễ, trước giờ khởi sự và sau khi chấm dứt cuộc lễ đều có thỉnh chuông trống bát nhã.
Chuông trống bát nhã dùng để thỉnh Phật tổ và thỉnh chư Tăng cùng nhau hướng về điện Phật để chứng minh cho buổi lễ sắp diễn ra được thanh tịnh trang nghiêm.
Bài kệ thỉnh chuông trống bát nhã như sau :
Thỉnh Phật thượng đường
Đại chúng đồng văn
Bát nhã âm

Nhập bát nhã ba la mật đa (đọc 3 lần)

Nghĩa là :

Thỉnh chư Phật vào chánh điện,
Xin tất cả quý vị hiện diện lưu ý

Âm vang của chuông trống bát nhã sẽ hòa nhập theo cùng với trí tuệ sáng suốt của chư Phật thành một thể tánh duy nhất.

Thường thường chuông trống bát nhã được cử lên ba hồi lúc bắt đầu cuộc lễ, nhưng khi chấm dứt có thể chỉ thỉnh một hồi và cũng đọc bài kệ như trên. Ngoài việc đón rước và đưa chư Tăng, chư Phật, Hộ Pháp.., việc đánh chuông trống bát nhã còn tượng trưng cho ý nghĩa tinh thần rất lớn là nhân tiếng chuông trống để mọi người có mặt trong giờ sắp hành lễ đều chú tâm vào việc nhiếp tâm cầu nguyện.

Thật vậy, khi nghe tiếng chuông trống bát nhã gióng lên ai nấy trong chánh điện đều đứng dậy chấp tay cầu nguyện, đồng thời tâm hồn người nghe cũng cảm thấy như lắng lặng thanh thoát. Về lịch sử, chuông trống bát nhã không do ai bày ra, nhưng Phật giáo các nước thuộc vùng Đông-Nam-Á châu đều xử dụng trống cùng một mục đích và với một ý nghĩa về tinh thần rất lớn lao vậy.

Muốn cho cuộc lễ được tươm tất và thành kính, chuông trống bát nhã không thể thiếu được lúc bắt đầu và khi chấm dứt lễ.

Thích Giác Duyên
Thế lưu bố tưởng và các hiện tượng "lạ"... thường
(TG&DT) - Khoa học chỉ dựa trên tư duy lô gích của bộ não thuộc bán cầu trái, hay dù cảm nhận trực giác bằng bán cầu phải thì nhận thức cũng đã bị cơ chế ảo hóa của 18 cảnh giới làm cho lầm lạc, không bao giờ thấy được bản chất. Ví dụ ta thấy và cảm nhận vật chất, màu sắc, nước…, đó chỉ là tâm thức tổng hợp từ 6 giác quan, nhà khoa học ắt hẳn biết rõ là chúng không có thật, bản chất của chúng là gì thì cũng không xác định được, quark, electron cũng không hẳn là có thật.
Phật giáo nói rằng cuộc sống ở thế gian là thế lưu bố tưởng. Thế lưu bố tưởng 世流布想  là tưởng tượng bình thường được lưu truyền rộng rãi qua nhiều đời của thế nhân. Trong kinh “Đại bát Niết bàn” 大般涅槃  do ngài Đàm Vô Sấm 昙无谶 (Dharmaraksa) pháp sư người Ấn dịch, Phật nói với Ca Diếp :
一切凡夫有二种想。一者世流布想。二者着想。一切圣人唯有世流布想无有着想。一切凡夫恶觉观故。于世流布生于着想。一切圣人善觉观故。于世流布不生着想。是故凡夫名为倒想。圣人虽知不名倒想。


Tất cả phàm phu có hai loại tưởng tượng, thứ nhứt là thế lưu bố tưởng, thứ hai là trước tưởng. Tất cả bậc thánh nhân chỉ có thế lưu bố tưởng mà không có trước tưởng. Tất cả phàm phu vì dựa vào cảm giác sai lầm của giác quan , từ thế lưu bố tưởng sinh ra trước tưởng. Tất cả bậc thánh vì có chánh giác thấu suốt, từ thế lưu bố tưởng không sinh ra trước tưởng. Vì vậy mới gọi cái thấy của phàm phu là điên đảo tưởng. Thánh nhân tuy cũng có tri giác (giống phàm phu) nhưng không gọi là điên đảo tưởng


Ý chỉ trong kinh hàm súc nhưng quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu, các bậc thiện tri thức ở Trung Hoa đã diễn giải thêm cho rõ nghĩa :


世流布想;  就是见牛作牛想说是牛,见马说马等等   执著想,就是见到什么都执著为实有。凡夫由于无明情见,才如此颠倒;而圣人智慧明了,于一切境界毫不迷惑。   古德咏花诗说:何须待零落,方知本来空。一切名利地位男女感情本来就不实在,又何必水中捞月,徒自辛苦呢?不如随缘施为,唤醒自他一切众生为上呀。 


( Thế lưu bố tưởng là thấy trâu nói là trâu, thấy ngựa nói là ngựa. Chấp trước tưởng, tức là thấy cái gì đều chấp (giữ chặt) cái đó cho là có thật. Phàm phu do vô minh, cái thấy bị tình cảm sai khiến nên điên đảo, còn thánh nhân trí tuệ sáng suốt, đối với mọi cảnh giới đều không mê chấp cho là có thật. Thơ vịnh hoa của bậc Cổ Đức nói: 


须待零落  Hà tu đãi linh lạc  Chẳng cần chờ hoa rụng
方知本来空  Phương tri bổn lai không   Mới biết xưa nay không


Tất cả danh lợi, địa vị, nam nữ, tình cảm, xưa nay vốn là không có thực, hà tất phải mò trăng đáy nước, tự làm khổ mình, không bằng tùy duyên mà làm, khiến cho tất cả chúng sinh tự giác ngộ không phải hơn sao ? )


Tại sao đối với thế giới vật chất như sơn hà đại địa, sinh vật, con người v.v… Phật nói đó là tưởng tượng thông thường của thế gian, không phải thật ? Ngày xưa đây là điều vô cùng khó hiểu, không ai tin nổi, nhưng ngày nay, điều đó đã được khoa học chứng minh một cách rõ ràng với việc phát minh ra máy vi tính và các phát kiến khoa học mới. Tất cả mọi hiện tượng trên màn hình vi tính như hình ảnh, chữ viết, âm thanh, màu sắc, video đều chỉ là ảo, bản chất của mọi hiện tượng đó chỉ là điện tử được qui về hai trạng thái : có dòng điện ký hiệu là 1, không có dòng điện, ký hiệu là 0. Từ 0 và 1 người ta có thể biểu diễn rất nhiều hình thái hoạt động của con người như thơ văn, sách vở, tư tưởng, phim ảnh, ca nhạc, thông tin liên lạc nhất là viễn thông, vô cùng tiện lợi. Không ai còn nghi ngờ về thế giới ảo, thế giới của điều khiển học (Cybernetics), của kỹ thuật số (Digital).


Thế giới ngoài đời cũng tương tự như vậy, chỉ phức tạp hơn mà thôi. Phần nhỏ nhất của vật chất, ngày nay người ta biết rằng chỉ có vài loại hạt cấu tạo nên toàn bộ vật chất trên địa cầu, cơ bản nhất là hạt quark, hai loại thường thấy nhất là quark up và quark down, chúng tạo nên hạt proton và hạt neutron, những hạt này là thành phần của hạt nhân nguyên tử. Quay chung quanh nhân là các hạt điện tử (electron) chuyển động với tốc độ rất nhanh từ vài ngàn đến vài chục ngàn km/s. Chính vì các điện tử chuyển động nhanh như vậy trong không gian rất nhỏ của nguyên tử nên chúng ta có cảm giác nguyên tử là có thật, vật chất là có thật, cứng chắc, chứ thật ra nguyên tử là trống rỗng, chẳng có gì cả.


Ngoài ra thế giới vật chất còn bao hàm một vài loại hạt cơ bản khác như một số hạt đồng loại với quark, electron và vài loại khác như quang tử (photon), neutrino. Tất cả vật chất cũng như các loại hạt cơ bản của vật chất được qui về năng lượng, phần nhỏ nhất của năng lượng gọi là lượng tử. Các lý thuyết vật lý hiện đại đều được xây dựng trên lượng tử, ví dụ Cơ học lượng tử (Quantum Mechanics), Sắc động lực học lượng tử (Quantum ChromoDynamics viết tắt QCD)… Bài thuyết pháp về Ngũ uẩn (五蘊 sa. pañca-skandha) và Thập nhị nhân duyên  (十二因縁, sa. dvādaśanidāna) của Đức Phật chỉ rõ sự hình thành thân xác và cảm giác của loài hữu tình mà đại biểu là con người, cũng như của thế giới vật chất nói chung. Cơ chế ảo hóa chính là lục căn, lục trần, lục thức gọi chung là 18 giới.


Phàm phu ngày nay cũng biết rõ các hiện tượng trên màn hình vi tính là ảo, nhưng không biết, không tin nổi các sự vật, hiện tượng ngoài đời cũng là ảo, do đó sinh ra mê chấp cho là thật và phải chịu luân hồi sanh tử trong cảnh khổ. Bậc thánh thì tự thân chứng được các hiện tượng ngoài đời cũng là ảo nên không chấp trước, không có trước tưởng, còn việc nhận thức các sự vật như núi non, sông hồ, nhà cửa, sinh vật, nam nữ… gọi chung là thế lưu bố tưởng thì cũng chẳng khác phàm phu, nhưng vì biết rõ là ảo nên không sinh lòng tham ái.


Theo PG, chỗ tận cùng bản chất con người là Phật tánh. Phật là người giác ngộ, Phật tánh là tánh giác ngộ hay giác tánh. Giác tánh là tánh biết bất nhị, bất nhị là không phải hai cũng không phải là một. Bất nhị là không có người biết (năng tri) cũng không có cái được biết (sở tri). Để hiểu rõ về tánh bất nhị, xin hãy xem lại hiện tượng rối lượng tử (quantum entanglement). Thiên nhiên có thể tạo ra đồng thời hai hay nhiều hạt photon, chúng có thể ở tại những vị trí cách xa nhau, khi một hạt bị tác động, tức thời các hạt khác cũng bị tác động y hệt, không mất chút thời gian nào, bất kể khoảng cách là bao xa. Hiện tượng này bộc lộ nhiều tính chất mà chúng ta khó tưởng tượng nổi :

  1. Tính bất nhị, nghĩa là không có số lượng, hay số lượng chỉ là tưởng tượng chứ không có thật. Ta nói chỉ có một photon hay có nhiều photon đều không đúng. Thật tế là không thể xác định được. Vì vậy trong Kinh nói “Phàm cái gì có thể nói ra (hay xác định) đều không có nghĩa thật”. Cũng vì vậy, Đức Phật sau 49 năm đi thuyết pháp, giảng không biết bao nhiêu bộ kinh, trước khi nhập diệt, đã tuyên bố : “ Ta chưa hề nói một chữ nào”.

  1. Tính không thật của không gian. Khoảng cách không gian là không có thật, chỉ có trong tâm thức mà thôi. Chính vì vậy, hạt photon đã không mất chút thời gian nào để truyền tín hiệu sang hạt khác, hay không hề có việc truyền tín hiệu đi, nếu có thì thật là phi lý, vì chẳng lẽ tín hiệu truyền đi với tốc độ gấp hàng triệu lần tốc độ ánh sáng ?

  1. Tính không thật của thời gian. Thời gian cũng chỉ là sản phẩm của tâm thức chứ không có thật. Bởi vì thời gian là một chiều kích gắn liền với không gian, nên không gian không thật thì thời gian cũng không thật. Thuyết tương đối của Einstein cũng nói rằng thời gian có thể co dãn. Câu chuyện nghịch lý về hai anh em song sinh của Langevin minh thị ý nghĩa thời gian có thể co dãn, thời gian khác nhau ở hai hệ qui chiếu khác nhau. Thiền sử Trung Hoa có kể 2 câu chuyện thực nghiệm về thời gian không thật. Nhà sư Huệ Trì 慧持 là em ruột của Tổ Tịnh Độ tông Huệ Viễn (慧遠 334~416 ) sống vào đời Tấn ở Trung Quốc.


Khi Huệ Viễn tổ chức một thời pháp Niệm Phật ở Lư Sơn thuộc tỉnh Giang Tây thì Huệ Trì từ giã anh, đi vân du ở Tứ Xuyên, thấy có một bọng cây lớn, ông vào ngồi nhập định, hoàn toàn không biết về tất cả mọi việc xảy ra. Cửa bọng cây lâu ngày khép lại, ông cũng không hay. Đến khi cây bị sét đánh, bọng cây bị vỡ, ông té ra ngoài, cũng không hay biết. Trẻ mục đồng nhìn thấy ông, chúng gọi người đến, ông vẫn còn nhập định. Người ta đưa ông đến kinh đô, tại đây có các thiền sư, họ làm cho ông xuất định.


Ông nói rõ tên họ và xác định mình là em ruột của Huệ Viễn, một người nổi tiếng, và hỏi thăm ông anh ra sao. Mọi người vô cùng kinh ngạc vì Huệ Viễn đã tịch hơn 700 năm rồi. Họ hỏi ông nhập định bao lâu. Ông nói mới có một lát thôi mà. Như vậy đối với Huệ Trì thời gian hơn 700 năm là không có.




Câu chuyện thứ hai là về Hư Vân 虚云lão hòa thượng (1840-1959) của thời hiện đại.



Ông cùng các vị đồng tu ở trên núi Chung Nam 终南山, gần Trường An, quanh năm phủ tuyết, mỗi người ở một cái cốc cách xa nhau, thức ăn chỉ đào những củ khoai rất cứng trên núi, người thường ăn không nổi. Một hôm, ông bỏ củ khoai vào nồi nấu rồi ngồi nhập định lúc nào chẳng hay. Lúc đó vào dịp Tết, những người bạn đồng tu ở xung quanh thấy lâu không gặp, bèn rủ nhau đến thăm, thấy ông đang nhập định, liền búng lỗ tai khiến ông xuất định và hỏi ông nhập định bao lâu rồi. Ông đáp: “Mới hồi nảy, chắc nồi khoai đã chín rồi”. Nhưng khi mở nắp nồi thấy mốc đã lên cao, chứng tỏ nửa tháng đã trôi qua. Như vậy đối với Hư Vân thời gian nửa tháng là không có.


Hai câu chuyện trên chứng tỏ thời gian là sản phẩm của tâm thức chứ không phải thật. Các thiền sư nhập định sâu tận tiềm thức, tâm thức ngừng hoạt động thì thời gian cũng ngừng. Nếu Câu chuyện nghịch lý của Langevin chỉ là tưởng tượng dựa trên cơ sở khoa học, thì hai câu chuyện trên là thực nghiệm người thật việc thật. Hư Vân sống cùng thời đại với chúng ta và thọ tới 120 tuổi.


Hòa thượng Thích Duy Lực đã từng nói về Huệ Trì và bản chất của thời gian cũng như các hiện tượng lạ thường mà một số người có công năng đặc dị đã thể hiện (nghe tiếng nói) :



Giác tánh vô hình, vô tướng, không hạn lượng, mới đích thực là bản chất của con người cũng như của vạn vật. Giác tánh có những tính chất như thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc và suy tưởng. Những tính chất này bất biến, vô sinh, vô diệt, và do đó vô thủy, vô chung.  Chính giác tánh hướng dẫn cho vật chất cấu thành lục căn tức 6 cơ quan nhận thức của sinh vật và con người, là : mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và bộ não. Lục căn tiếp xúc với lục trần, là : sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; sinh ra lục thức là 6 loại nhận thức   nói trên, trong đó tư duy là một loại nhận thức cao cấp rất phát triển ở con người.


Theo PG, thì thế giới vạn vật chỉ là ảo giác chứ không có thật. Thuyết thập nhị nhân duyên của PG, nói vạn vật có nguồn gốc là vô minh. Vô minh là lầm lạc vì không thấy rõ, không hiểu rõ, bị mê mờ. Mà vật lý lượng tử ngày nay cũng không nói khác. Quark, electron chỉ là những hạt ảo, chúng không tồn tại khi bị cô lập, chúng chỉ tồn tại trong quan hệ tương tác với nhau và phải được cảm nhận bằng ý thức, trực tiếp qua các giác quan hoặc gián tiếp qua các thiết bị.
Niels Bohr (1885-1962, nhà vật lý người Đan Mạch, giải Nobel vật lý 1922)  nói “Isolated material particles are abstractions” (1) (Hạt vật chất cơ bản cô lập là những sự vật trừu tượng- tức không phải vật thật).


Von Neumann (1903-1957 nhà toán học người Mỹ gốc Hungary, có nhiều đóng góp cho vật lý lượng tử và khoa học máy tính) phát biểu : “Nothing would be real unless consciousness exists, that all real things are constituents of consciousness – which is a complete reversal of materialism” (2) (Không có cái gì là thật trừ phi ý thức hiện hữu, tất cả vật thật đều cấu thành từ ý thức- điều này hoàn toàn trái ngược với chủ nghĩa duy vật).


Eugene Wigner (1902-1995 nhà vật lý và toán học người Hungary, giải Nobel vật lý năm 1963) viết : “The very study of the external world led to the conclusion that the content of the consciousness is an ultimate reality. Particles only exist when observed, and so the reality of particles entails that consciousness is a fundamental element of reality” (3) (Càng nghiên cứu thế giới bên ngoài, càng dẫn tới kết luận rằng nội dung của ý thức là thực tại tối hậu. Hạt chỉ hiện hữu khi được quan sát, và như thế thực tại của hạt bắt buộc rằng ý thức là yếu tố cơ bản của thực tại).


Vì tính chất đồng bộ của lục căn, lục trần, lục thức (18 cảnh giới) nên ta tưởng vật chất là có thật, chứ thật ra vật chất chỉ là cảm giác, là thông tin chứ không phải thật.


Khoa học chỉ dựa trên tư duy lô gích của bộ não thuộc bán cầu trái, hay dù cảm nhận trực giác  bằng bán cầu phải thì nhận thức cũng đã bị cơ chế ảo hóa của 18 cảnh giới làm cho lầm lạc, không bao giờ thấy được bản chất. Ví dụ ta thấy và cảm nhận vật chất, màu sắc, nước…, đó chỉ là tâm thức tổng hợp từ 6 giác quan, nhà khoa học ắt hẳn biết rõ là chúng không có thật, bản chất của chúng là gì thì cũng không xác định được, quark, electron cũng không hẳn là có thật.


Tóm lại quark, electron tạo ra những cấu trúc ảo, đó là nguyên tử của các nguyên tố, là phân tử vô cơ và hữu cơ, là chất sống như acid amin, protein, glucid, lipid, protid, DNA…là sơn hà đại địa, nhà cửa, xe cộ, mặt trời, hành tinh, thiên hà, vũ trụ. Một loại cấu trúc ảo khác là lục căn trong đó xuất sắc nhất là bộ não người. Lục căn là cấu trúc tuyệt vời của giác tánh, nó là cơ chế phát sinh ra nhất niệm vô minh, nhất niệm vô minh nối tiếp nhau liên tục tạo thành dòng nhận thức, suy nghĩ, tư tưởng, hệ tư tưởng, văn hóa, văn minh của nhân loại.


Đối tượng của nhất niệm vô minh cũng là những cấu trúc ảo khác của vật chất và cả phi vật chất. Những cấu trúc ảo của vật chất này, nhà triết học Immanuel Kant (1724-1804) gọi là vật tự thể (Das Ding an Sich) bất khả tri. Cái khả tri qua nhận thức của lục căn thì đã bị ảo hóa không còn đúng thực tế nữa. PG gọi cấu trúc ảo của vật chất và phi vật chất là vô thủy vô minh. Thiền gọi vô thủy vô minh là thoại đầu. Vô thủy vô minh và nhất niệm vô minh là hai chìa khóa của cơ chế ảo hóa làm phát sinh vũ trụ vạn vật. Bản chất của vạn vật hay bản chất của con người là giác tánh. PG còn gọi nó là tánh Không của vạn hữu, hay còn gọi là Tâm.


Kinh Phật nói “Nhất thiết duy tâm sở tạo” (Tất cả đều do tâm tạo) là nghĩa như vậy. Tham thiền hay tham thoại đầu là tự mình chứng được, ngộ được vô thủy vô minh và nhất niệm vô minh đích thực là bản chất của vũ trụ vạn vật, chúng không là gì cả mà cũng là tất cả. Khi làm chủ được rồi thì tự nhiên vận dụng được thần thông, sinh tử tự do, hay làm chủ được sinh tử, thoát khỏi luân hồi sinh tử, tùy ý sinh hay tử ở bất cứ đâu, bất cứ cảnh giới nào, dù cách xa địa cầu bao nhiêu tỉ quang niên cũng không thành vấn đề, vì tất cả mọi cảnh giới đều là duy tâm sở tạo.


Lịch sử Thiền tông Trung Hoa ghi nhận có hơn 5000 người chứng được như vậy, Thiền gọi là kiến tánh. Nổi bật trong số đó là các vị Tổ Sư Thiền. Bên Ấn Độ sau Đức Phật, có 28 vị Tổ Sư, Sơ Tổ Ca Diếp, Nhị Tổ A Nan…Tổ 14 là Long Thọ Bồ Tát, Tổ thứ 28 là Bồ Đề Đạt Ma bắt đầu sang Trung Quốc truyền Đạo Thiền, làm Sơ Tổ tại TQ. Truyền cho nhị Tổ Huệ Khả, tam Tổ Tăng Xán, tứ Tổ Đạo Tín, ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, lục Tổ Huệ Năng. Sau Huệ Năng, số người kiến tánh nhiều không kể xiết như Vĩnh Gia Huyền Giác, Huỳnh Bá Hy Vận, Lâm Tế Nghĩa Huyền, Đức Sơn Tuyên Giám, Nam Nhạc Hoài Nhượng, Pháp Nhãn Văn Ích…Thời hiện đại thì có Hư Vân Hòa thượng, Lai Quả Thiền sư, Nguyệt Khê Thiền sư…Đời Minh có Hám Sơn, Đơn Điền (hai vị này còn để lại nhục thân bất hoại, cùng với nhục thân của Huệ Năng, được thờ tại chùa Nam Hoa gần thị trấn Thiều Quan, cách Quảng Châu khoảng 200km về phía bắc).  Hàng cư sĩ tại gia cũng có người kiến tánh, bên Ấn Độ có cư sĩ Duy Ma Cật, bên Trung Quốc có cả gia đình Bàng Uẩn gồm 4 người, nhà thơ Hoàng Đình Kiên…Người nữ cũng có kiến tánh, như vợ và con gái của Bàng Uẩn, bà già bán thức ăn điểm tâm, người đã giúp cho Đức Sơn Tuyên Giám kiến tánh…


Kết luận : Tâm như hư không vô sở hữu (theo cách nói của Long Thọ Bồ Tát) hay Phật tánh, hay Giác tánh, hay Thượng Đế (vô ngã), hay là Trời (nói theo Nho giáo), mới chính là bản chất đích thực của con người và cũng là của vạn vật, Thiền còn gọi nó là bổn lai diện mục, vốn vô sinh vô diệt, sẵn có trước khi cha mẹ chưa sinh ra ta.


“Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại” (Descartes) hay “Tôi cảm thụ, vậy tôi tồn tại” (Louis Lavelle) chỉ là sự tồn tại của cái ta giả do vô minh kiến lập. “Tôi tư duy, vậy tôi không tồn tại” (Jean Paul Sartre) là không thừa nhận cái ta giả, cái ta giả chỉ là vọng tưởng do vô minh kiến lập, không phải thật. Nhưng Sartre không thân chứng được cái ta thật, tức bản chất đích thực của con người là gì, nên không thể tự giải thoát được. Trong L’Être et le Néant (Thực thể và Hư vô, 1943) tác phẩm triết học chính của ông, có nhiều sai lầm.


Một trong các sai lầm căn bản của ông là cho rằng L’être est. L’être est en soi. L’être est ce qu’il est. (Thực-thể là. Thực-thể tự-tại. Thực-thể là cái gì nó là.) Nói thế tức là cho rằng vật chất tự nó tồn tại độc lập ngoài tâm thức, điều mà các nhà khoa học hàng đầu thế giới hiện nay đã chỉ ra là không đúng. Phật pháp nói thực thể (vật chất hay con người chẳng hạn) cũng không phải là thực thể. Hư vô cũng không phải là hư vô.  Cái gì có thể nghĩ, có thể nói đều không có nghĩa thật. Cả chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa hư vô đều là biên kiến (lệch một bên) không phải trung đạo, và đều là bệnh.


Phật Pháp
Nguồn gốc Phật giáo của mô típ tái sinh trong truyện kể dân gian Việt Nam
03/03/2011 00:56 (GMT+7)
Kích cỡ chữ:    


Phật giáo quan niệm rằng con người có cả phần xác và phần hồn, khi chết chỉ có phần xác là thực sự mất đi còn phần hồn thì ở lại. Linh hồn sẽ lẩn quẩn ở đâu đó, nhập vào cây cỏ, động vật… trong vũ trụ đợi đến ngày được đầu thai kiếp khác, trong một hình hài mới. Có thể cho rằng mô típ tái sinh trong truyện cổ tích ít nhiều chịu ảnh hưởng của chuỗi truyện tiền thân (Jakata) của đức Phật.
 Nghiên cứu truyện kể dân gian bằng mô típ là một phương pháp nghiên cứu rất được ưa chuộng trong khoa nghiên cứu văn học dân gian từ trước đến nay. Sự lặp lại các mô típ là một đặc điểm dễ nhận thấy và rất đặc trưng của thể loại truyện kể dân gian ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Việc nghiên cứu truyện kể dân gian bằng mô típ có thể giúp khám phá được mối dây liên hệ trong những tác phẩm thuộc cùng một kiểu truyện hay cùng chứa đựng những mô típ như nhau và ý nghĩa của nó cùng được thể hiện như thế nào trong văn hóa học và dân tộc học. Nghiên cứu mô típ truyện kể dân gian dựa vào dân tộc học là một trong những bước cơ bản trong việc nghiên cứu những gốc rễ lịch sử của truyện kể.
Thuật ngữ Mô típ dùng để chỉ những yếu tố đơn giản nhất nhưng có ý nghĩa trong cấu tạo đề tài, cốt truyện của tác phẩm nghệ thuật (còn được gọi là mẫu đề). Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì mô típ là những yếu tố, những bộ phận lớn hay nhỏ đã được hình thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian [1]. Trong truyện kể dân gian, mô típ được xem là công thức để triển khai cốt truyện hay còn được xem là yếu tố hợp thành cốt truyện. Mô típ còn là sự khái quát nghệ thuật nguyên sơ, phản ánh những ấn tượng quan trọng nhất và có tính lặp lại mà con người tiếp nhận được trong quá trình quan sát, nhận thức cuộc sống
Trong khi tiến hành khảo sát kho tàng truyện kể dân gian các dân tộc Việt Nam, chúng tôi nhận thấy có một mô típ xuất hiện rất phổ biến trong nhiều cốt truyện khác nhau, tạm gọi đó là mô típ tái sinh. Mô típ này không chỉ phổ biến trong truyện kể dân gian mà còn phổ biến trong quan niệm tôn giáo, trong nghi lễ, trong tín ngưỡng và phong tục dân gian của các dân tộc Việt Nam.  Khi tiếp cận với các truyện kể cụ thể, chúng tôi lọc ra những tình tiết có chứa đựng mô típ tái sinh trong truyện  rồi đối chiếu so sánh văn học dân gian với các dữ kiện dân tộc học để  đề xuất giả thuyết về nguồn gốc hình thành mô típ. Và một trong những giả thuyết chúng tôi nhận thấy được là tính Phật giáo trong nguồn gốc hình thành của mô típ này.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tái sinh tức là “sinh lại một kiếp khác, theo thuyết luân hồi của đạo Phật” [2]. Nghĩa thứ hai là “làm cho hoặc được làm cho sống lại”. Tái sinh còn có ý nghĩa như tái thế, tức là “trở lại sống ở cõi đời sau khi đã chết” [3]. Gắn liền với những ý nghĩa nêu trên, chúng tôi định nghĩa môtíp tái sinh trong truyện kể dân gian là những tình tiết chỉ hiện tượng sống lại của nhân vật trong truyện kể sau khi đã chết đi vì một lý do nào đó.
Theo chúng tôi, nội dung khái niệm tái sinh nhất thiết phải bao hàm hai yếu tố:1. Chết (đã chết); 2. Sống (sống lại). Vì vậy, khi đi vào khảo sát kho tàng truyện kể dân gian các dân tộc Việt Nam, chúng tôi chỉ chọn lọc những truyện nào có chi tiết nhân vật chết đi rồi sống lại. Những nhân vật ấy có thể sống lại ngay trong hình dạng cũ trước khi chết đi, cũng có thể là sống lại trong một hình dạng mới khác hẳn với hình dạng trước khi chết. Những cốt truyện có chứa đựng chi tiết nhân vật người đội lốt vật sau đó cởi bỏ lốt và trở lại làm người sẽ không thuộc đối tượng nghiên cứu của chúng tôi, lý do là ở hình tượng nhân vật người mang lốt này không bao hàm hai yếu tố chết đi và sống lại.
Khi khảo sát mô típ này chúng tôi thấy hiện tượng tái sinh của nhân vật được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau như tái sinh do đầu thai, do hóa thân thành nhiều hình dạng khác nhau, trải qua nhiều thử thách mới trở lại thành người, do sự tác động của ngoại vật (thần tiên, người, động thực vật, các loài ma quỷ…) sự tác động này thường kèm theo các hình thức ma thuật bao gồm luyện phép, hóa phép, cho uống nước thần, băm chặt thân thể nhân vật và nấu với nước phép… V.Ia. Propp cho rằng  không thể so sánh truyện kể dân gian với một chế độ xã hội nào đó, cũng như không thể so sánh nó với một tôn giáo nói chung. Nó cần phải được so sánh với các hình thức cụ thể của tôn giáo [4]. Do đó mà sau khi liệt kê các dạng thức và đối chiếu với các hình thức và các lý thuyết tôn giáo của đạo Phật, chúng tôi thấy nội dung của mô típ tái sinh trong truyện kể dân gian dưới dạng thức đầu thai thành người và hóa kiếp thành vật có nguồn gốc từ thuyết luân hồi của đạo Phật.
Phật giáo quan niệm rằng con người có cả phần xác và phần hồn, khi chết chỉ có phần xác là thực sự mất đi còn phần hồn thì ở lại. Linh hồn sẽ lẩn quẩn ở đâu đó, nhập vào cây cỏ, động vật… trong vũ trụ đợi đến ngày được đầu thai kiếp khác, trong một hình hài mới. Có thể cho rằng mô típ tái sinh trong truyện cổ tích ít nhiều chịu ảnh hưởng của chuỗi truyện tiền thân (Jakata) của đức Phật. Tuy nhiên, do đã được thế tục hóa nên chúng chuyển tải nhiều hơn những tập tục và những quan niệm xã hội của quần chúng nhân dân thời xưa.
Để nhận diện rõ hơn tính Phật giáo trong nguồn gốc hình thành của mô típ này, trước tiên chúng tôi tiến hành mô tả những biểu hiện của mô típ này dưới hình thức đầu thai thành kiếp người và hóa thân thành kiếp vật. Sau đó chúng tôi sẽ đi vào khảo sát ý nghĩa của mô típ này dưới ảnh hưởng của thuyết luân hồi, duyên nghiệp của Phật giáo.

I. Miêu tả mô típ tái sinh
1. Tái sinh do đầu thai vào xác của một người khác
Ở dạng thức tái sinh này, sau khi nhân vật chết đi (thường là bị chết oan) sẽ được một lực lượng thần linh nào đó giúp đỡ cho đầu thai vào xác của một người khác cũng vừa mới qua đời. Nhân vật sống lại trong thân xác của người kia nhưng phần hồn vẫn là con người cũ. Truyện đền thờ Trương Ba có kể lại câu chuyện về cái chết không rõ nguyên nhân của nhân vật Trương Ba, sau đó thần cờ Đế Thích cho Trương Ba đầu thai vào xác một anh hàng thịt vừa mới qua đời và Trương Ba sống lại trong thân thể của anh hàng thịt. Tuy nhiên, Trương Ba vẫn là Trương Ba, quay trở lại nhà mình tiếp tục một cuộc sống như trước đây.
Dạng thức tái sinh thành người bằng cách đầu thai vào thân xác người khác còn được tìm thấy trong Truyện tiền kiếp luân hồi. Truyện kể rằng có một anh học trò nghèo và một cô gái yêu nhau nhưng không lấy được nhau vì cô gái bị ép gả cho một gia đình giàu có khác. Cô thắt cổ tự tử và đầu thai vào xác của một cô gái bán trầu cũng ở trong vùng đó vừa mới qua đời. Sau này, cô gặp lại anh học trò đã đỗ đạt làm quan và hai người lấy được nhau
2.Tái sinh do đầu thai  làm con của một gia đình khác
Cũng là đầu thai, nhưng ở dạng này, nhân vật không đầu thai vào thân thể của người khác nữa mà đầu thai vào bụng của một người phụ nữ nào đó, sau đó nhân vật sẽ được người phụ nữ ấy sinh ra dưới hình dạng của một đứa bé. Điểm chung của dạng đầu thai này là sự không thay đổi về mặt giới tính, nếu như người chết trước đây là đàn ông thì sẽ đầu thai thành một đứa bé trai và ngược lại. Đặc biệt, cho dù có đầu thai làm một đứa trẻ nhưng những đứa trẻ ấy, một là lớn rất nhanh trở về hình dạng cũ, hai là vẫn trưởng thành bình thường nhưng đến một độ tuổi nào đó sẽ nhớ lại tất cả những chuyện đã xẩy ra trong tiền kiếp của mình. Như truyện Mối tình chung thủy kể về tình yêu ngang trái của nàng con gái họ Phàng và người con trai họ Tráng. Vì bị cha mẹ ép duyên, nàng con gái họ Phàng tự tử trên kiệu hoa, sau đó đầu thai làm con gái của nhà họ Đặng, trên lưng còn hình hai bông hoa gạo. Trong hình dạng của một đứa bé, nàng đã trưởng thành rất nhanh và mau chóng trở thành một cô gái giống hệt như xưa. Chàng trai họ Tráng đến gặp gia đình họ Đặng kể rõ sự tình và xin được cưới con gái của họ – do người yêu xưa của chàng đầu thai, về làm vợ.
Truyện Con gà trắng và chiếc nhẫn đồng kể chuyện Thành Chớ và Mơ Nai là kẻ ăn người ở cho nhà giàu, hai người yêu thương nhau thắm thiết và bẻ đôi chiếc nhẫn đồng cho nhau mỗi người giữ một nửa để nguyện ước. Nhưng do Mơ Nai ngày càng xinh đẹp nên con trai nhà giàu muốn lấy nàng làm vợ lẽ. Thành Chớ bị đuổi đi, Mơ Nai đau lòng sinh bệnh và chết, Thành Chớ nuôi dưỡng mẹ Mơ Nai và xuống âm phủ tìm người yêu. Hai người gặp Diêm vương tỏ rõ sự tình. Diêm Vương thương tình cho Mơ Nai đầu thai lại vào bụng mẹ nàng. Mẹ Mơ Nai xinh ra một bé gái, chỉ 3 mùa lúa đã thành một cô gái xinh đẹp tuyệt trần  nhưng bàn tay phải cứ nắm chặt. Cuối cùng chỉ có Thành Chớ mới giúp cô mở được bàn tay và trong bàn tay ấy là một nửa chiếc nhẫn đồng. Hai người nhận ra nhau và kết hôn.
Duyên nợ tái sinh cũng là một câu chuyện tình tuyệt vọng. Con gái phú ông và một anh học trò nghèo yêu nhau nhưng không được lấy nhau, cô gái tự tử. Anh học trò lấy mực son ghi vào lòng bàn tay người yêu mấy chữ “Thử sinh duyên vị liễu, nguyện kết hậu duyên sinh” và chôn cô dưới gầm giường. Cô gái đầu thai làm con gái của một nhà quý tộc khác, trên tay vẫn còn dòng chữ đó. Hai người lấy được nhau.
Cái kiến mày kiện cụ khoai kể về một chàng trai vì nghe lời dèm pha của bà mối nên bạc tình với người mình yêu,  nên cô gái ôm hận mà chết. Sau này họ được Diêm Vương cho đầu thai về lại dương thế. Bà mối trở thành cô gái bị phụ tình, chàng trai là anh học trò lận đận. Và oan hồn của cô gái ngày xưa vẫn tiếp tục ở âm cung để gây cho hai nhân vật kia nhiều điều oan trái
Nội dung có khác hơn, không liên quan đến tình yêu nam nữ là truyện Nguyễn Khắc Hoành. Làng Mìn có 1 người tên Nguyễn Khắc Hoành, có con tên  là Khoan, học hành đổ đạt, 20 tuổi đậu ông Nghè. Khi con trai của Khoan lên 6 tuổi thì Hoành chết, đầu thai làm con một người mõ ở làng Dương Trạch. Hậu thân của Hoành lên 6 tuổi mới biết nói, gặp Khoan đi qua thì gọi vào xưng là cha và kể vanh vách chuyện cũ, Khoan rước cha (là em bé 6 tuổi) về phụng dưỡng.
Truyện  Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông có nội dung kể về hai nhân vật Giáp và Ất. Giáp cho Ất mượn tiền nhưng sau đó lại bị Ất giết chết. Giáp đầu thai vào làm con Ất, gặp quan kể tội Ất. Ất bị trừng trị còn Giáp trở về nhà mình sống lại như xưa.  
3. Tái sinh thành kiếp vật do bị thần linh trừng phạt.
Mụ Lường làm nghề bắt mối các ghe từ phương xa và đã tương kế tựu kế lừa được rất nhiều thương nhân thua sạch tài sản vào tay mụ.Cuối cùng mụ cũng gặp được kẻ cao thủ hơn, mụ thua hết tài sản và trở thành nô lệ, uất ức mụ nhảy xuống biển tự tử. Đức Phật cho mụ hóa thành cá he, vì xót của nên cứ lặn ngụp mãi trong biển nước (Truyện Con mụ lường )
Có một  nhà sư ngoan đạo, không quản vất vả tìm đường đến đất Phật. Nghỉ đêm tại nhà ác lai và bị ác lai đòi ăn thịt nhưng sau khi nghe sư giảng đạo, ác lai hồi tâm và muốn gởi quà dâng lễ Phật. Sư bảo tâm thức thị phật, phật tức thị tâm . Ác lai mổ bụng đưa bộ lòng cho nhà sư nhờ sư mang đến dâng Phật, dọc đường bộ lòng bốc mùi hôi thối, sư không chịu nỗi nên vứt xuống biển. Đến khi vào diện kiến Phật đã  thấy ác lai đứng sau lưng phật  thành chánh quả. Sư hóa thành cá he suốt ngày lăn ngụp tìm bộ lòng ( Sự tích cá he)
Sự tích con nhái cũng kể về một vị chân tu, vua mời về cung nhưng từ chối chỉ muốn đi khắp thiên hạ xem cảnh chùa chiền. Đến một nơi, Phật bà hóa thành cô gái đẹp xin lên thuyền rồi dụ dỗ nhà sư. Đến lần thứ 9 thì sư không giữ được mình, Phật bà tức giận ném xuống sông cho hóa thành loài nhái. Từ đó có câu “đi tu mà chẳng trót đời, sinh ra con ếch cho người lột da”
Sự tích chim tu hú kể về hai nhân vật tu hành Bất Năng và Bất Nhẫn. Do thành tâm tu tập nên Bất Năng mau chóng đắc đạo, Bất Nhẫn vì lòng sân hận vẫn còn nên phải tiếp tục tu hành, qua năm lần bảy lượt nhẫn nhịn chịu đựng, đến lúc sắp thành công, Phật bà hóa thành người đàn bà qua sông để thử lòng, liên tục bắt Bất Nhẫn quay đò trở lại trong thời tiết mưa gió. Lòng sân nỗi lên, Bất nhẫn mắng chửi người đàn bà, bị Phật bà cho hóa thân thành chim tu hú

II. Nguồn gốc Phật Giáo của mô típ tái sinh
Về nguồn gốc sớm nhất, quan niệm về sự tái sinh có mối quan hệ với tín ngưỡng Tôtem của những cộng đồng người cổ xưa khi mới bắt đầu sống định cư bằng nông nghiệp. Thời nguyên thủy là thời kỳ mà loài người vẫn chưa thực sự ý thức được rằng mình với cỏ cây, muôn thú là khác nhau, có đời sống khác nhau, có sự sinh sản, phát triển và hủy diệt khác nhau. Họ cho rằng giữa mình và cỏ cây muôn thú có sự chuyển biến qua lại lẫn nhau, có đời sống gắn bó với nhau, có chu kỳ tồn tại như nhau. Cho nên khi quan sát sự sinh nở của cỏ cây, sự phát triển và chết đi của muôn thú, con người mới cho rằng chu kỳ đời sống của mình cũng như vậy, như muôn vàn sinh vật khác, sinh ra, lớn lên và chết đi, rồi lại được sinh ra, cứ thế tiếp diễn mãi mãi. Quan niệm này đã được Phật giáo kế thừa và phát triển thêm thành một học thuyết tôn giáo về hiện tượng tái sinh, tạo thành một trong những tư tưởng đặc trưng của Phật giáo. Đó là thuyết luân hồi.
Với Phật giáo, hiện tượng tái sinh trong thuyết luân hồi gắn liền với triết lý duyên nghiệp. Những gì con người được nhận ở kiếp này là do duyên nghiệp của kiếp trước để lại. Và những gì con người thực hiện trong kiếp hiện tại sẽ tạo duyên nghiệp cho những kiếp sau… Chu kỳ đời người được tượng trưng bằng một bánh xe luân hồi, hay còn gọi là bánh xe sinh tử, cứ quay quay mãi đưa con người từ kiếp này sang kiếp khác chứ không bao giờ dừng lại. Chết rồi lại tái sinh, rồi lại chết, mãi mãi muôn đời như vạn vật đã được tạo hóa sinh ra trong cõi đời này. 
Quan niệm về sự tái sinh trong thuyết luân hồi của Phật Giáo giúp giải toả bi kịch lớn nhất trong tâm lý của con người về cái chết. Theo quan niệm này thì cuộc sống là một quá trình liên tục và cái chết chỉ là sự gián đoạn tạm thời bởi thân xác vật chất đã không còn đáp ứng được việc tiếp tục tồn tại, sau khi thân xác vật lý ngừng hoạt động và dừng lại (chết) thì linh hồn rơi vào trạng thái không còn thân xác. Cho đến khi kết hợp đủ các yếu tố cần thiết và hội đủ nhân duyên thì linh hồn ấy lại được tái sinh vào một thân xác mới. Bên trong thân xác mới đó linh hồn lại tiếp tục được vận hành theo một chu kỳ sự sống mới trên cơ sở kế thừa tất cả những cái đã có, đã làm, đã gây ra từ những chu kỳ sống trước đó. Và đồng thời cũng trong thân xác này, linh hồn bắt đầu tạo nghiệp cho chu kỳ sống tiếp theo sau khi thân xác hiện tại này lại ngừng hoạt động
“Thuyết Tái sinh khẳng định rằng, con người cũng như mọi loài hữu tình, không phải chỉ sống một đời, mà đã từng sống nhiều đời, và sau đời sống này, sẽ tiếp tục sống nhiều đời nữa. Và sức mạnh, dẫn con người sống đi sống lại nhiều đời như vậy là nghiệp lực, tức là sức mạnh của nghiệp. Thành quả của mọi việc làm của chúng ta trong đời này, tạo thành một sức mạnh, gọi là sức mạnh của nghiệp Tái sinh, đẩy chúng ta tới một cuộc sống mới, một cuộc đời khác, trong đó thân phận và hoàn cảnh sống của chúng ta là do thành quả các nghiệp của đời này quyết định” [5] Với quan niệm trên Phật giáo khẳng định rằng mỗi con người là sản phẩm của chính mình, chúng ta hiện tại là sản phẩm do chính chúng ta tạo nhân trong quá khứ và lúc này ta đang tạo ra chính mình trong tương lai
Nhân vật trung tâm của dạng thức tái sinh do đầu thai và do hóa kiếp trong những truyện kể mà chúng tôi đưa ra ở trên đều  là con người, là những linh hồn hiện diện trong thân xác con người và tùy duyên tu tập của kiếp này hoặc nhiều kiếp khác nữa mà sau khi thân xác hiện tại ngừng hooạt động thì linh hồn ấy lại tiếp tục được đầu thai vào kiếp người hay bị đày ải thành kiếp vật.
Trong Thuyết Luân hồi và Phật giáo Tây Phương, tác giả Martin Willson đã đưa ra những bằng chứng về thuyết luân hồi là con người sau khi tái sinh có thể nhớ lại kiếp trước của mình hay  được người khác nói cho biết về kiếp trước [6]. Trong mô típ tái sinh ở dạng thức đầu thai mà chúng tôi chọn lọc được cũng có bao hàm cả 2 hình thức đó,  nhân vật sau khi tái sinh tự nhớ lại kiếp trước của mình (Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông, Đền thờTrương Ba và Nguyễn Khắc Hoành) và sau khi sống lại trong thân xác khác, nhân vật được người khác nói cho biết kiếp trước của mình (Duyên nợ tái sinh, mối tình chung thủy, Truyện tiền kiếp luân hồi, Con gà trắng và chiếc nhẫn đồng)
Với nhóm truyện nhân vật tái sinh do đầu thai trong truyện kể thì cái chết của họ thường có nguyên nhân là do tự tử vì bị ép duyên hoặc do người khác hãm hại mà chết đi một cách tức tưởi. Sau khi chết đi, họ đầu thai vào xác của một người khác hoặc đầu thai làm con của một gia đình khác. Và trong hình dạng mới ấy, thực ra họ cũng chính là con người cũ, nhận biết tất cả những sự việc đã diễn ra trước khi chết. Sau khi đầu thai họ được toại nguyện lựa chọn tình yêu và hạnh phúc hoặc có nhân vật thì tố cáo những kẻ trước đây đã hãm hại mình. Chủ đề của kiểu truyện này là chủ đề đấu tranh xã hội, nhân vật trong truyện đã bằng mọi cách phải dành lấy công bằng cho mình, nếu không thực hiện được ở kiếp này thì tiếp tục thực hiện ở những kiếp sau (Duyên nợ tái sinh, mối tình chung thủy, Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông).
Bên cạnh đó, sự thưởng phạt công bằng cũng là một ý nghĩa sâu sắc của mô típ tái sinh trong dạng thức này. Càng yêu thương, cảm thông với những số phận hiền lành, bất hạnh, dân gian càng căm ghét những thế lực xấu xa, độc ác. Và theo quan niệm của dân gian bao đời nay thì những thế lực ấy đáng bị trừng phạt, chúng phải gánh chịu lấy những tội ác mà chúng gây ra cho người khác. Do đó, các câu truyện kể dân gian thuộc kiểu này thường kết thúc bằng cái chết của các nhân vật phản diện, có thể là do người bị hại trả thù, cũng có thể là do bị thần linh trừng phạt. Ở đây mô típ truyện mang một ý nghĩa nhân sinh to lớn, bênh vực cho những con người hiền lành nhân hậu phải gánh chịu những thiệt thòi đau khổ từ kiếp trước. Do đó sau khi được tái sinh, họ phải được nhận lấy niềm an vui hạnh phúc
Trong dạng thức nhân vật tái sinh thành kiếp vật do bị thần linh trừng phạt ta phần nào thấy rõ lên sự tác động trực tiếp của Phật giáo trong quá trình hóa thân của nhân vật (dù cho đức Phật trong truyện dân gian không hẳn là đức Phật của tôn giáo nhưng thật ra đó cũng là một hình ảnh của đấng Thích Ca Mâu Ni qua sự nhào nặn của dân gian sao cho gần gũi với tâm thức của người bình dân hơn)  Trong các  ví dụ mà chúng tôi miêu tả ở trên, ngoài nhân vật mụ Lường (truyện Con mụ Lường) là người buôn bán mối lái thì các nhân vật chính còn lại đều được miêu tả như là những bậc chân tu. Tuy nhiên đấy lại là những nhà sư “đi tu mà chẳng trót đời” dù cho có thông tuệ nhiều kinh kệ, giáo lý nhưng họ vẫn còn thiếu một chút gì đó để có thể đắc đạo. Kẻ thì chưa vượt qua được thất tình lục dục (Sự tích chim tu hú, Sự tích con nhái) dù đã cố công tu tập bao nhiêu năm cuối cùng cũng bị đày thành kiếp vật do không vượt qua được sắc giới. Kẻ thì vì một chút phiền não thế gian mà không ngộ được đạo pháp để phải chịu tái sinh vào làm con cá ngoi lên lặn xuống giữa biển cả mênh mông để sám hối tội lỗi của mình (Sự tích cá he)
Dưới con mắt nhìn của phật giáo thì việc các nhân vật lương thiện được tái sinh lại kiếp người và sống vui vẻ hạnh phúc hay các nhân vật có lòng dạ tham lam, sân hận bị tái sinh vào kiếp vật điều là do cái nhân họ đã tạo ra từ kiếp trước. “Thuyết Nghiệp báo Tái sinh của đạo Phật đề cao trách nhiệm của con người đối với cuộc sống của mình ở đời này và cả đời sau. Do đấy cũng kêu gọi con người phải có ý thức trách nhiệm đầy đủ về mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của mình hàng ngày, hàng giờ, thậm chí trong từng giây phút của cuộc sống, khuyến khích con người luôn luôn nghĩ thiện, làm thiện, tránh mọi ý nghĩ, lời nói và việc làm bất thiện. Có thể nói, thuyết Nghiệp báo và Tái sinh động viên mọi người luôn nỗ lực để sống thiện, đạo đức  [7]  Ở đây, thuyết nghiệp báo của Phật giáo gần gũi với triết lý “làm lành tránh dữ” “ở hiền gặp lành” hay “gieo gió gặt bão” của dân gian, là sự đề cao cái thiện và khả năng hướng thiện của con người, là sự tẩy chay cái xấu, cái ác, là mong ước hồn nhiên về một thế giới công bằng trong xã hội còn nhiều lắm bất công.
Lời kết
Với khuôn khổ của một bài  khảo sát về nguồn gốc Phật giáo của mô típ tái sinh, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc phát hiện và mô tả các dạng thức của mô típ có liên quan đến thuyết luân hồi của Phật giáo. Đồng thời liên hệ để thấy được mức độ biến đổi của mô típ dân tộc học đến mô típ truyện kể. Chúng tôi không có tham vọng đi sâu vào tìm hiểu ý nghĩa tư tưởng Phật giáo được thể hiện như thế nào qua mô típ truyện kể dân gian này. Một phần do những hạn chế về kiến thức Phật học, một phần do sự chuyển nghĩa của các mô típ được cho là thoát thai từ tôn giáo. Có thể nói rằng, mô típ tái sinh từ ý nghĩa phong tục tín ngưỡng trong mô típ dân tộc học đã chuyển thành ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh trong mô típ truyện kể dân gian

Chú thích:
[1]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1997); Từ điển thuật ngữ văn học; NXB Đại học Quốc gia; HN.- tr 136
[2] và [3]. Nhiều tác giả, Viện Ngôn Ngữ học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1988); Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội; HN. Tr.  915, 916
 [4]. Nhiều tác giả dịch (2003); Tuyển tập V.Ia.Propp; Tập 1; NXB Văn hóa Dân tộc; HN. Tr. 193
[5] và [7]. Giáo sư Nguyễn Minh Chi  -  Thuyết Tái Sinh  - Nghiên Cứu Phật Học - Kinh Nghiệm Sống Chết. (xin xem thêm tại  http://www.buddhismtoday.com/viet/phatphap/050-taisanh.htm)
[6].  Martin Willson , Trong thuyết Luân hồi và Phật giáo tây Phương (Thích Nguyên  Tạng dịch) , NXB Phương Đông

Tài liệu tham khảo
1.                  Nàrada (2006); Học thuyết tái sanh (Phương Thảo dịch); NXB Tôn Giáo
2.                  Thích Như Điển (2009); Sống và chết theo quan niệm của Phật giáo; NXB Phương Đông
3.                  Martin Willson , Thuyết luân hồi và Phật giáo Tây Phương (Thích Nguyên  Tạng dịch) , NXB Phương Đông
4.                  Thích Nguyên Tạng (soạn dịch – 2007); Chết và tái sinh; NXB Phương Đông
5.                  Vũ Minh Chi (2004); Nhân học văn hoá - con người với thiên nhiên, xã hội và thế giới siêu nhiên; NXB Chính trị Quốc gia; HN.
6.                  Nguyễn Tấn Đắc (2001); Truyện kể dân gian đọc bằng type và motif; NXB Khoa học xã hội; TPHCM.
7.                  Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1997); Từ điển thuật ngữ văn học; NXB Đại học Quốc gia; HN.
8.                  Nhiều tác giả, Viện Ngôn Ngữ học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1988); Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội; HN.
9.                  Nhiều tác giả dịch (2003); Tuyển tập V.Ia.Propp; Tập 1,2; NXB Văn hóa Dân tộc; HN.
10.              Nhiều tác giả (2004); Từ điển văn học (bộ mới); NXB Thế Giới.
11.              Nguyễn Đổng Chi (2000); Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam; Tập 1,2 ; NXB Giáo Dục.
12.              Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân Văn Quốc gia, Viện Văn học (2001); Văn học dân gian Việt Nam, Tập 2, Quyển 1,2 – Truyện cổ tích; NXB Giáo Dục; ĐN.
13.              Trung tâm Khoa học Xã hội & Nhân Văn Quốc gia, Viện Văn học (2001); Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 2 – Truyện cổ dân gian.


Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved