Home » » LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -2

LUẬN NGỮ KHỔNG TỬ -2

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011 | 00:36


3.9
子曰:夏礼吾能言之,杞不足徵也;殷礼吾能言之,宋不足徵也。文献不足故也。足,则吾能徵之矣.
Tử viết:  Hạ lễ ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã; Ân lễ ngô năng ngôn chi, Tống bất túc trưng dã, Văn hiến bất túc cố dã. Túc, tắc ngô năng trưng chi hĩ.
Khổng tử nói: Lễ nghĩa đời Hạ ta có thể nói ra được, nhưng nước Kỉ (cũng dòng dõi nhà Hạ) do thiếu sách vở nên ta không khảo chứng thực tình được. Lễ triều Ân ta cũng có thể nói ra được, nhưng nước Tống do thiếu tài liệu nên ta không khảo chứng tỏ tường được. Tất cả đều do thư tịch sách vở không đủ. Nếu có đủ, ắt ta đã có thể khảo cứu tường tận hết rồi.
(Lời bàn: Lễ nghĩa cũng cần ghi thành văn bản qui định. “Nói có sách, mách có chứng”)
3.10
子曰:禘自既灌而往者, 吾不欲观之矣.
Tử viết: Đế tự ký quán nhi vãng giả, ngô bất dục quan chi hĩ.
Khổng tử nói: Lễ tế đế ư, ta xem xong đợt chúc rượu thứ nhất thì đã không muốn xem rồi.

(Chú thích:  Khổng tử xem lễ tế Đế của vua chư hầu nước Lỗ, thấy họ lạm quyền thiên tử nên phê phán)
3.11
或问禘之说,子曰:不知也。知其说者之於天下也,其如示诸斯乎! 指其掌。
Hoặc vấn Đế chi thuyết, Tử viết: Bất tri dã. Tri kỳ thuyết giả chi ư thiên hạ dã, kỳ như kì chư tư hồ ! Chỉ kỳ chưởng.
Có người hỏi về chuyện tế Đế (hoàng đế cúng tế tổ tiên và trời), Khổng tử đáp: “Ta không biết. Người biết việc ấy thì cai trị thiên hạ cũng dễ như đưa vật vào chỗ này”, Khổng tử chỉ vào bàn tay.
3.12
祭如在,祭神如神在。子曰:吾不与祭,如不祭 .
Tế như tại, tế thần như thần tại. Tử viết: Ngô bất dự tế, như bất tế.
Tế lễ cha mẹ phải coi như người đó ở trước mặt mình, tế lễ chư thần cũng coi như thần linh ở trước mặt mình. Khổng tử nói: Nếu ta không tham dự lễ tế (có người thay mặt ta tế lễ đi nữa) thì cũng như không tế lễ mà thôi.
3.13
王孙贾问曰:“与其媚於奥,宁媚於灶”, 何谓也?.
子曰:“不然。获罪於天,无所祷也” .
Vương Tôn Giả vấn viết: “Dự kỳ mị ư Áo, ninh mị ư Táo, hà vị dã?”.
Tử viết: “Bất nhiên. Hoạch tội ư thiên, vô sở đảo dã.”
Vương Tôn Giả hỏi: “Nịnh thần Áo, chẳng bằng nịnh thần Táo” nghĩa là sao ?

Khổng tử đáp: Không đúng. Định tội do Trời, còn nơi nào để cầu xin!
(Chú thích: Thần Áo thờ ở nhà trên, thần Táo thờ ở dưới bếp. Thần Táo lo việc ăn no mặc ấm nên người dân nghèo coi trọng hơn thần Áo… Khổng tử bảo không nên phân biệt đối xử các thần, Trời cao sẽ phán xét tất cả).

3.14
子曰:周监於二代,郁郁乎文哉,吾从周.
Tử viết: Chu giám ư nhị đại, úc úc hồ văn tai, ngô tòngChu.
Khổng tử nói: Lễ nhà Chu theo hai triều đại (Hạ, Ân), phong phú rực rỡ thay, ta theo nhà Chu.
3.15
子入太庙,每事问。或曰:“孰谓鄹人之子知礼乎?入太庙,每事问”. 子闻之,曰:“是礼也”.
Tử nhập thái miếu, mỗi sự vấn. Hoặc viết: “Thục vị Trâu nhân chi Tử tri lễ hồ? Nhập thái miếu, mỗi sự vấn”. Tử văn chi, viết: “Thị lễ dã”.
Khổng tử đi vào thái miếu (nước Lỗ), gặp mỗi việc đều hỏi kỹ. Có người nói: “Ai bảo con trai ấp Trâu (chỉ Khổng tử) biết lễ ? Anh ta đến thái miếu mà cái gì cũng không biết, phải hỏi”. Khổng tử nói: “Thế là biết lễ vậy”.

3.16
子曰:射不主皮,为力不同科,古之道也 .
Tử viết: “Xạ bất chủ bì, vị lực bất đồng khoa. Cổ chi đạo dã”.
Khổng tử nói: Thi bắn cung không nhất thiết phải xuyên qua tấm da (làm bia), vì sức lực không giống nhau. Đó là qui tắc bắn cung thời cổ.
 (Lời bàn: Bắn cung miễn là toàn tâm toàn ý bắn vào đích, xuyên qua hay không là tùy theo sức người).
3.17
子贡欲去告朔之饩羊。子曰:赐也!尔爱其羊,我爱其礼.
Tử Cống dục khứ cáo sóc chi hí dương. Tử viết: “Tứ dã ! Nhĩ ái kỳ dương, ngã ái kỳ lễ”.
Tử Cống làm lễ sóc muốn bỏ tục lệ cúng dê. Khổng tử nói “anh Tứ này ! Ngươi yêu dê của ngươi, ta tiếc lễ của ta”.
(Chú thích: lễ Sóc là ngày mồng một đầu tháng, theo Lỗ lễ qui định cúng một con dê. Vua Lỗ bỏ không cúng dê nhưng vẫn bắt dân nộp dê. Tử Cống bèn đòi bỏ luôn tục cúng dê. Khổng tử bất đồng, kiên trì giữ lễ, nên nói rằng cúng con dê là nhắc ta giữ lễ).
3.18
子曰:事君尽礼,人以为谄也.
Tử viết: Sự quân tận lễ, nhân dĩ vi siểm dã.
Khổng tử nói:  Phụng sự vua cho đúng lễ, vậy mà có người bảo ta siểm nịnh.

3.19
定公问:“君使臣,臣事君,如之何?”孔子对曰:君使臣以礼,臣事君以忠.
Định Công vấn: “Quân sử thần, thần sự quân, như chi hà? Khổng tử đối viết: Quân sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung.
Vua Lỗ Định Công hỏi: Vua sai khiển bề tôi, bề tôi phụng sự vua, phải như thế nào là tốt ? Khổng tử thưa: Vua sử dụng bề tôi theo lễ, bề tôi thờ vua phải trung thành.
 3.20
子曰:《关睢》,乐而不淫,哀而不伤 .
Tử viết: “Quan thư”, lạc nhi bất dâm, ai nhi bất thương.
 Khổng tử nói: Bài “Quan thư” vui mà không quá đà, buồn mà không bi thương.
(Chú thích: Bài Quan thư mở đầu tập Kinh Thi, có chương “Yểu điệu thục nữ. Quân tử hảo cầu. Cầu chi bất đắc, Triển chuyển phản tắc”: dịch nghĩa “Cô gái xinh tươi kia, Có chàng tài giỏi muốn gặp cô, không gặp được, năm canh trằn trọc trở mình”. Bài thơ vui vẻ mức độ vừa phải. Quân tử mong nhớ buồn bâng khuâng, chưa đến nỗi sầu muộn quá mức. Khổng tử khen là vui và buồn hài hòa, không quá độ).
3.21
哀公问社於宰我,宰我对曰:“夏后氏以松, 殷人以柏,周人以栗,曰:使民战栗”.子闻之,曰:“成事不说,遂事不谏,既往不咎”
Ai Công vấn xã ư Tể Ngã, Tể Ngã đối viết: Hạ hậu thị dĩ tùng, Ân nhân dĩ bách,Chunhân dĩ lật, viết: Sử dân chiến lật”. Tử văn chi, viết: “Thành sự bất thuyết, toại sự bất gián, ký vãng bất cữu”.
Lỗ Ai Công hỏi Tể Ngã về việc lập đàn xã, Tể Ngã trả lời: Đời Hạ dùng cây tùng, đời Ân dùng cây bách, đời Chu dùng cây lật là có ý khiến cho dân nhìn thấy cây lật mà sợ hãi”. Khổng tử nghe biết, trách Tể Ngã rằng “Việc đã thành, không nên nói lại. Việc nhất định xảy ra, không nên can ngăn. Việc đã qua, không nên trách”.
(Chú thích: là nơi thờ thần đất, triều đại nào thích cây gì trồng cây đó hoặc tùy theo chất đất. Cái tên cây không có ý nghĩa gì. Tể Ngã thuyết minh về 3 loại cây là có ý xui vua dựng đàn xã sao cho dân sợ. Khổng tử không hài lòng, có ý trách Tể Ngã.
(社) là thần Đất tắc (稷) là thần Lúa. Nhà vua mỗi năm có nhiệm vụ thay mặt dân chúng tế lễ ở bàn thờ xã tắc. Nếu là một “giang sơn” thì ắt phải có “xã tắc” vậy).
 3.22
子曰:“管仲之器小哉!”. 或曰:“管仲俭乎?”, 曰:“管氏有三归,官事不摄,焉得俭?”.  “然则管仲知礼乎?”,曰:“邦君树塞门,管氏亦树塞门;邦君为两君之好有反坫,管氏亦有反坫。管氏而知礼,孰不知礼?”
Tử viết: Quản Trọng chi khí tiểu tai ! Hoặc viết: Quản Trọng kiệm hồ ?
Viết: Quản thị hữu tam quy, quan sự bất nhiếp, yên đắc kiệm ?
Nhiên tắc Quản Trọng tri lễ hồ ?.
Viết: Bang quân thụ tắc môn, Quản thị diệc thụ tắc môn;  Bang quân vi lưỡng quân chi hảo hữu phản điếm, Quản thị diệc hữu phản điếm. Quản thị nhi tri lễ, thục bất tri lễ ?
Khổng tử nói: Quản Trọng bụng dạ hẹp hòi.
Có người hỏi: Hay là Quản Trọng tiết kiệm ?
Khổng tử nói: Quản Trọng qui ra ba lỗi, thu nhiều thuế má của dân thị thành, trong nhà nuôi nhiều đầy tớ, mỗi người chỉ làm một việc không kiêm nhiệm, thế sao gọi là tiết kiệm ? Người kia hỏi tiếp: Quản Trọng có biết lễ không ? Khổng tử đáp: Vua chư hầu dựng bình phong trước nhà, Quản Trọng cũng dựng bình phong trước nhà. Vua chư hầu mở tiệc tiếp vua khác được dùng giá úp chén, Quản Trọng đãi khách cũng dùng giá úp chén. Ôi Quản Trọng mà biết lễ, thì còn ai không biết lễ !
3.23
子语鲁大师乐,曰: 乐其可知也:始作,翕如也;从之,纯如也,皦如也,绎如也,以成
Tử ngữ Lỗ đại sư nhạc, viết: Nhạc kỳ khả tri dã: thỉ tác, hợp như dã; Tòng chi, đồn như dã, kiểu như dã, dĩ thành”.
Khổng tử nói với quan nhạc nước Lỗ: Ta cũng có biết về nhạc: khởi đầu phải tương hợp, (nhạc khớp lời ca), tiếp tục khai triển quấn quít hài hòa, rõ ràng trong sáng, liên tục, như thế là thành công.
3.24
仪封人请见,曰:“君子之至於斯也,吾未尝不得见也”. 从者见之。出曰:“二三子何患於丧乎?天下之无道也久矣,天将以夫子为木铎” .
Nghi phong nhân thỉnh kiến, viết: “Quân tử chi chí ư tư dã, ngô vị thưởng bất đắc kiến dã”. Tòng giả kiến chi. Xuất viết: “Nhị tam tử hà hoạn ư tang hồ ? Thiên hạ chi vô đạo dã cửu hĩ, thiên tương dĩ phu tử vi mộc đạc”.
Quan trấn thủ ấp Nghi xin gặp (Khổng tử), nói: “Quân tử các nơi đến đây, chưa có ai tôi chưa được tiếp kiến”. Học trò dẫn vào gặp Khổng tử. Khi trở ra, vị quan đó nói với học trò của thầy Khổng: “Các vị đừng lo buồn việc Khổng tử mất chức. Thiên hạ vô đạo đã lâu, trời sai Khổng tử làm cái mõ cây (gõ mõ cảnh báo người đời).
(Chú thích: Khổng tử từ bỏ chức tướng quốc nước Lỗ, đi chu du sang nước Vệ, ở đây gặp quan ấp tên Nghi. Ông Nghi sùng bái, đánh giá cao vai trò thầy Khổng còn hơn mọi chức quan)
3.25
子谓韶:“尽美矣,又尽善也”; 谓武:“尽美矣,未尽善也”
Tử vị Thiều: “Tận mỹ hĩ, hựu tận thiện dã;” vị Vũ: “Tận mỹ hĩ, vị tận thiện dã”.
Khổng tử nói về bản nhạc Thiều: “Đẹp tuyệt vời, nội dung lại hay, tốt”, và  nhận xét về bản nhạc Vũ: “Rất hay, nhưng nội dung kém hơn một chút”.
(Chú thích: Thiều là khúc nhạc thời vua Thuấn, là khúc nhạc thời Chu Vũ Vương)
 3.26
子曰:居上不宽,为礼不敬,临丧不哀,吾何以观之哉 ?
Tử viết: Cư thượng bất khoan, vi lễ bất kính, lâm tang bất ai, ngô hà dĩ quan chi tai?”.
Khổng tử nói: Cấp trên thiếu khoan dung kẻ dưới, hành lễ thiếu kính cẩn, gặp việc tang không đau buồn, làm sao ta có thể chịu họ được ?
  Hết thiên 3
  1. 4.      nhân
第四篇 thiên 4
26 bài
4.1
子曰:里仁为美,择不处仁,焉得知?
Tử viết: “Lý nhân vi mỹ, trạch bất xứ nhân, yên đắc tri ?”
Khổng tử viết: Ở nơi có nhân đức là tốt đẹp, sống nơi thiếu nhân đức sao gọi là hiểu biết ?
4.2
子曰:不仁者不可以久处约,不可以长处乐。仁者安仁,知者利仁
Tử viết: Bất nhân giả bất khả dĩ cửu xứ chung, bất khả dĩ trường xứ lạc. Nhân giả an nhân, tri giả lợi nhân.
Khổng tử nói: Kẻ bất nhân không ở lâu cảnh cùng khốn được, cũng không thể ở lâu nơi sung sướng được. Người có nhân yên tâm sống làm điều nhân, người hiểu biết làm lợi cho đức nhân.
4.3
子曰:唯仁者能好人,能恶人
Tử viết: Duy nhân giả năng hiếu nhân, năng ố nhân.
Khổng tử nói: Chỉ có người nhân đức mới biết yêu và ghét rõ ràng.
4.4
子曰:苟志於仁矣,无恶也
Tử viết: Cẩu chí ư nhân hĩ, vô ố dã.
 Khổng tử viết: Nếu quyết chí thực hành đức nhân thì không làm điều ác.
4.5
子曰: 富与贵,是人之所欲也.不以其道得之,不处也;贫与贱,是人之所恶也,不以其道得之,不去也。君子去仁,恶乎成名?君子无终食之间违仁,造次必於是,颠沛必於是.
Tử viết: Phú dữ quí, thị nhân chi sở dục dã. Bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất xứ dã; Bần dữ tiện, thị nhân chi sở ố dã;  bất dĩ kỳ đạo đắc chi, bất khứ dã. Quân tử khứ nhân, ố hồ thành danh ? Quân tử vô chung thực chi gian vi nhân, tạo thứ tất ư thị, điên phái tất ư thị.
Khổng tử viết: Giàu và sang thì ai cũng thích. Không dùng đạo nhân mà đạt được thì không nên chọn làm. Nghèo và thấp hèn, chẳng ai thích. Không dùng đạo nhân để thoát nghèo hèn thì không làm. Người quân tử mà bỏ mất điều nhân, sao có thể gọi là quân tử ? Quân tử không làm trái điều nhân dù chỉ trong khoảng cách một bữa ăn (*), dù vội vã cấp thiết cũng không như vậy, dù phải khốn cùng phiêu dạt cũng không xa rời đạo nhân.
(Lời bàn: * “Trong khoảng cách một bữa ăn”: tức là trong nửa ngày quân tử cũng không quên làm điều nhân đức).
4.6
子曰: 我未见好仁者,恶不仁者。好仁者,无以尚之;恶不仁者,其为仁矣,不使不仁者加乎其身。有能一日用其力於仁矣乎?我未见力不足者。盖有之矣,我未之见也
Tử viết: Ngã vị kiến hảo nhân giả, ố bất nhân giả. Hiếu nhân giả vô dĩ thượng chi; Ố bất nhân giả, kỳ vi nhân hĩ, bất sử bất nhân giả gia hồ kỳ thân. Hữu năng nhất nhật dụng kỳ lực ư nhân hĩ hồ ?  Ngã vị kiến lực bất túc giả. Cái hữu chi hĩ, ngã vị chi kiến dã.
Khổng tử nói:  Ta chưa thấy người nào thích điều nhân và ghét kẻ bất nhân. Người có nhân không đặt cái gì trên chữ nhân. Người ghét điều ác, thực tế biết làm điều nhân, không chịu thân thích với kẻ bất nhân. Có ai dốc sức làm điều nhân suốt ngày chưa ? Ta chưa thấy người đạt điều nhân mà không phải dốc sức rèn luyện. Có người không cần dốc sức cũng làm được điều nhân, nhưng ta chưa thấy bao giờ.
4.7
子曰:人之过也,各於其党。观过,斯知仁矣
Tử viết: Nhân chi quá dã, các ư kỳ đảng.Quan quá, tư tri nhân hĩ.
Khổng tử nói: Người mắc sai lầm, còn tùy theo loại người nào. Nhìn sai lầm của họ, ta biết có phải người đức nhân không.
(Lời bàn: Có nhiều kiểu sai lầm, quân tử cũng có thể mắc sai lầm nhưng vẫn khác với sai lầm của kẻ tiểu nhân).
4.8
子曰:朝闻道,夕死可矣
Tử viết: Triêu văn đạo, tịch tử khả hĩ.
Khổng tử nói: Buổi sáng nghe được đạo, chiều tối chết cũng cam lòng.

4.9
子曰:士志於道,而耻恶衣恶食者,未足与议也 。
Tử viết: Sĩ chí ư đạo nhi sỉ ố y ố thực giả, vị túc dữ nghị dã.
Khổng tử nói: Kẻ sĩ lập chí vì đạo nhân mà cảm thấy xấu hổ vì ăn đói mặc rách, chưa thể cùng bàn luận (về đạo nhân) được.

4.10
子曰:君子之於天下也,无适也,无莫也,义之与比
Tử viết: Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô đích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dự bỉ.
Khổng tử nói: Quân tử sống trong thiên hạ, không kể to nhỏ, sang hèn, đều phải ngẫm xem có hợp đạo nghĩa không.
4.11
子曰:君子怀德,小人怀土;君子怀刑,小人怀惠
Tử viết: quân tử hoài đức, tiểu nhân hoài thổ; Quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ
 Khổng tử nói: Quân tử nghĩ đến đạo đức, tiểu nhân nghĩ đến đất đai. Quân tử coi trọng hình thức phép tắc, tiểu nhân chỉ mong ân huệ.

4.12
子曰:放於利而行,多怨
Tử viết: Phóng ư lợi nhi hành, đa oán
Khổng tử viết:
Kẻ chỉ biết tính đến lợi ích của mình, sẽ chuốc lấy nhiều oán hận.
4.13
子曰:能以礼让为国乎,何有?不能以礼让为国,如礼何?
Tử viết: Năng dĩ lễ nhượng vi quốc hồ, hà hữu ?
Bất năng dĩ lễ nhượng vi quốc, như lễ hà ?
Khổng tử nói: Dùng lễ nhượng để trị quốc, được  không ?
Nếu không dùng lễ nhượng để trị quốc được thì lễ còn có tác dụng gì nữa.
(Chú thích: “lễ nhượng trị quốc” là lãnh đạo mềm dẻo, nhường nhịn lẫn nhau. Chắc hẳn điều này lạc hậu so với thời đại “pháp quyền”. Hình như chế độ “pháp quyền xã hội chủ nghĩa” ưa dùng “lễ nhượng” kiểu Khổng tử)
 4.14
子曰:不患无位,患所以立;不患莫己知,求为可知也.
Tử viết: Bất hoạn vô vị, hoạn sở dĩ lập; Bất hoạn mạc kỷ tri, cầu vi khả tri dã.
Khổng tử nói: Chẳng lo buồn vì không có địa vị, chỉ lo không có đức tài xứng với địa vị ấy. Không cần lo người khác không hiểu mình, nên lo làm sao có năng lực khiến cho người khác biết mình.
4.15
子曰: 参乎,吾道一以贯之.
曾子曰:“唯”.
子出, 门人问曰:“何谓也?”.
曾子曰:夫子之道,忠恕而已矣
Tử viết: Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi.”.
Tăng tử viết: “Duy”.
Tử xuất, môn nhân vấn viết: “Hà vị dã ?”.
Tăng tử viết: “Phu tử chi đạo, trung thứ nhi dĩ hĩ”.
Khổng tử nói: Trò Sâm à, đạo của ta nhất quán một điểm thôi.
Tăng tử: Đúng ạ.
Khổng tử đi ra, một người khác hỏi: “Thầy nói như vậy có ý gì?”.
Tăng tử nói: Đạo của thầy chỉ có một chữ “trung thứ” thôi.
 [ Chú thích: Tăng tử là Tăng Sâm.
Trung nghĩa là trung thành, tận tâm theo đạo nhân. Mình làm được rồi thì muốn người khác cũng làm được (kỷ dục đạt nhi đạt nhân).
Thứ là: Cái gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người khác (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân) ]
4.16
子曰:君子喻於义,小人喻於利
Tử viết: Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi.
Khổng tử nói: Người quân tử chỉ biết điều nghĩa, kẻ tiểu nhân chỉ biết điều lợi.

4.17
子曰:见贤思齐焉,见不贤而内自省也
Tử viết: Kiến hiền tư tế yên, kiến bất hiền nhi nội tự tỉnh dã.
Khổng tử nói: Nhìn thấy người hiền thì noi theo, thấy kẻ không hiền thì xem xét lại mình.
4.18
子曰:事父母几谏,见志不从,又敬不违,劳而不怨
Tử viết:  Sự phụ mẫu kỷ gián, kiến chí bất tòng, hựu kính bất vi, lao nhi bất oán.
Khổng tử nói: Phụng dưỡng cha mẹ phải can ngăn khuyên giải, nếu can không được, vẫn phải tôn kính không làm trái, đừng để cha mẹ mệt vì oán giận.

4.19
子曰:父母在,不远游,游必有方。
Tử viết: Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương
Khổng tử: Cha mẹ còn sống, không được đi xa, nếu đi phải nói rõ nơi cụ thể.
 (Lời bàn: Thời đại ngày nay thực khó làm theo lời Khổng tử, chỉ cần nhớ phần chót câu nói)
 4.20
子曰:三年无改於父之道,可谓孝矣
Tử viết: Tam niên vô cải ư phụ chi đạo, khả vi hiếu hĩ.
Khổng tử: Ba năm không thay đổi cách đối xử với cha mẹ, có thể gọi là con hiếu.

4.21
子曰:父母之年,不可不知也。一则以喜,一则以惧
Tử viết: Phụ mẫu chi niên, bất khả bất tri dã. Nhất tắc dĩ hỉ, nhất tắc dĩ cụ.
Khổng tử nói: Tuổi tác của cha mẹ, con không thể không biết. Biết là để vui mừng hoặc là lo sợ.
(Lời bàn: Vui mừng cha mẹ thượng thọ, lo sợ cha mẹ già yếu bệnh tật và cần lo hậu sự)
4.22
子曰:古者言之不出,耻躬之不逮也
Tử viết: Cổ giả ngôn chi bất xuất, sỉ cung chi bất đãi dã.
Khổng tử: Người xưa thận trọng lời nói ra, bởi sợ xấu hổ không thực hiện được lời nói.

4.23
子曰:以约失之者鲜矣
Tử viết:  Dĩ ước thất chi giả tiển hĩ.
Khổng tử: Người biết tự kiềm chế mình mà phạm sai lầm là rất ít.
4.24
子曰:君子欲讷於言而敏於行.
Tử viết:  Quân tử dục nột ư ngôn nhi mẫn ư hành.
Khổng tử: Quân tử nói năng chậm rãi, thực hành thì nhanh nhẹn.
4.25
子曰:德不孤,必有邻
Tử viết: Đức bất cô, tất hữu lân.
Khổng tử: Người đạo đức không bao giờ bị cô lập, ắt có bạn hữu gần gũi.

4.26
子游曰:事君数,斯辱矣;朋友数,斯疏矣
Tử Du viết:  Sự quân sác, tư nhục hĩ; Bằng hữu sác, tư sơ hĩ.
Tử Du nói: Thờ vua mà luôn kể sai lầm của vua, dễ chuốc lấy phiền toái lăng nhục; kết giao bạn bè mà luôn góp ý sai lầm của bạn, dễ bị mọi người xa lánh.

Hết thiên 4

  1. 5.      公冶 Công Dã Tràng
第五篇 thiên 5
28 bài
 5.1
子谓公冶长: “可妻也。虽在缧绁之中,非其罪也”. 以其子妻之
Tử vị Công Dã Tràng, “Khả thế dã, tuy tại luy tiết chi trung, phi kì tội dã”. Dĩ kỳ tử thế chi.
Khổng tử nói về Công Dã Tràng:”Có thể gả con cho Tràng, tuy nó bị ngồi tù nhưng tội này không do nó gây ra”. Sau đó Khổng tử gả con gái cho Tràng.

5.2
子谓南容,“邦有道,不废;邦无道,免於刑戮”.以其兄之子妻之。
Tử vị Nam Dung,  bang hữu đạo, bất phế; Bang vô đạo, miễn ư hình lục. Dĩ kỳ huynh chi tử thế chi.
Khổng tử nói về Nam Dung:”Nước có đạo, không bị phế truất; Nước vô đạo, không bị hình phạt”. Sau đó Khổng tử đem gả cháu gái cho Dung.


(Chú thích:Nam Dung thờ vua theo đạo Trung dung, khi nước nhà thịnh vượng  được khen ngợi, khi nước nhà suy đốn cũng không bị chê trách, trừng phạt)

5.3
子谓子贱,君子哉若人,鲁无君子者,斯焉取斯”
Tử vị Tử Tiện, quân tử tai nhược nhân, Lỗ vô quân tử giả, tư yên thủ tư
Khổng tử nói về Tử Tiện: Người này quả đúng là quân tử. Nếu nói nước Lỗ không có người quân tử, thì Tử Tiện học từ đâu được những phẩm chất như vậy chứ.
5.4
子贡问曰:“赐也何如?”. 子曰:“女,器也”. 曰:“何器也?”. 曰:“瑚琏也”
Tử Cống vấn viết: Tứ dã hà như ?
Tử viết: Nhữ, khí dã.
Viết: Hà khí dã ?
Viết: Hồ liễn dã.
Tử Cống hỏi: Tứ là người thế nào ạ?
Khổng tử đáp: Ngươi giống như một công cụ.
Tử Cống hỏi : Như công cụ nào ?
Khổng tử: Như cái hồ liễn
(Chú thích: Hồ liễn là cái bình đựng thức ăn cúng trong tông miếu
Ý nói Tử Cống (tên là Tứ) là người tài nhưng chỉ giỏi một loại công việc).
5.5
或曰:“雍也仁而不佞”. 子曰: 焉用佞?御人以口给,屡憎於人,不知其仁。焉用佞?
Hoặc viết: Ung dã nhân nhi bất nịnh.
Tử viết: Yên dụng nịnh ? Ngự nhân dĩ khẩu cấp, lũ tăng ư nhân, bất tri kỳ nhân. Yên dụng nịnh?
Có người nói: Ung là người có đức nhân, không biết nịnh (kém tài ăn nói). Khổng tử nói: Tại sao phải có tài nói khéo? Nhanh mồm miệng để cãi thay cho người ta, thường bị người ta ghét, ta chẳng biết anh ta có nhân không. Sao cần phải nịnh ?


5.6

子使漆雕开仕。对曰:“吾斯之未能信”.  子说。
Tử sử Tất Điêu Khai sĩ, đối viết: Ngô tư chi vị năng tín. Tử duyệt.
 Khổng tử bảo Tất Điêu Khai ra làm quan, anh ta trả lời: Con nghĩ con chưa tự tin ra làm quan. Khổng tử nghe rất vui lòng.
 (Lời bàn: Thầy mừng vì học trò khiêm tốn, thận trọng, chẳng hăng máu vồ vập ra làm quan như nhiều trò khác. Lại không coi nhẹ việc quan)
5.7
子曰:“道不行,乘桴浮於海,从我者,其由与!”, 子路闻之喜。子曰:“由也好勇过我,无所取材” .
Tử viết:  Đạo bất hành, thừa phù phù ư hải, tòng ngã giả, kỳ Do dư !.
Tử Lộ văn chi hỉ. Tử viết: Do dã hảo dũng quá ngã, vô sở thủ tài.
Khổng tử viết: Nếu Đạo của ta không được thực hiện, ta sẽ ngồi bè gỗ trôi ra biển, theo ta đi có lẽ chỉ có Trọng Do… Tử Lộ nghe thấy rất  vui.
Khổng tử nói tiếp: Do này, chí dũng cảm của người cao hơn ta, tìm đâu ra người như thế.
(Chú thích: Khổng tử biểu lộ ý chí quyết tâm truyền bá đạo nhân tới cùng. Ông khen học trò Trọng Do tức Tử Lộ có được đức “dũng” để làm việc nghĩa)
5.8
孟武伯问子路仁乎?子曰:“不知也”. 又问。子曰:“由也,千乘之国,可使治其赋也,不知其仁也”.“求也何如?”.子曰:“求也,千室之邑, 百乘之家,可使为之宰也,不知其仁也”,“赤也何如?” .子曰:“赤也,束带立於朝,可使与宾客言也,不知其仁也。”
Mạnh Vũ Bá vấn Tử Lộ nhân hồ ? Tử viết: Bất tri dã. Hựu vấn.
Tử viết: “Do dã, thiên thừa chi quốc, khả sử trị kỳ phú dã, bất tri kỳ nhân dã.
“Cầu dã hà như?”.
Tử viết: “Cầu dã, thiên thất chi ấp, bách thừa chi gia, khả sử vi chi tể dã, bất tri kỳ nhân dã.
“Xích dã hà như ?”.
Tử viết: Xích dã, thúc đới lập ư triều, khả sử dữ tân khách ngôn dã, bất tri kỳ nhân dã.
 Mạnh Vũ Bá hỏi rằng Tử Lộ có đức nhân không. Khổng tử nói: Không biết. Bá lại hỏi. Khổng tử nói: Trọng Do có thể giao quản lý nước nghìn cỗ xe, nhưng ta không biết hắn là người có nhân hay không.
Lại hỏi tiếp: “Cầu là người thế nào?”.
Khổng tử nói: Nhiễm Cầu có thể giao làm quan tể một ấp có nghìn hộ, chỉ huy lính trăm binh xa, còn nó có nhân hay không, ta không biết.
“Còn Công Tây Xích thế nào ?”.
 Khổng tử đáp: Xích à, mặc lễ phục đứng trong triều đình, phụ trách tiếp đãi khách nước ngoài. Nhưng ta cũng không biết anh ta là người có đức nhân không.
 (Lời bàn: Con người có năng lực làm việc thì được tín nhiệm. Nhưng phải qua thực tế mới đánh giá được đức nhân của họ).
5.9
子谓子贡曰:“女与回也孰愈?”对曰:“赐也何敢望回?回也闻一以知十,赐也闻一以知二。”子曰:“弗如也。吾与女弗如也” .
Tử vị Tử Cống viết: “Nhữ dữ Hồi dã thục dũ ?.
Đối viết: “Tứ dã hà cảm vọng Hồi ? Hồi dã văn nhất dĩ tri thập, tứ dã văn nhất dĩ tri nhị.
Tử viết: “Phất như dã. Ngô dữ nhữ phất như dã.”.
Khổng tử nói với Tử Cống:  Ngươi với Nhan Hồi ai giỏi hơn ?
Tử Công đáp: Con làm sao dám sánh với Nhan Hồi. Hồi nghe một việc thì suy ra được mười việc, con nghe một việc chỉ suy ra được 2 việc thôi.
Khổng tử nói: Chẳng bằng. Ta và ngươi chẳng bằng Hồi.
(Lời bàn: Thế giới bao la phong phú nhưng việc này có liên quan với việc kia. Học cần biết suy luận từ việc này đến việc khác theo các qui luật biện chứng…Tử Cống tự biết mình không bằng Nhan Hồi, đó là Cống hiểu biết. Ngay cả Khổng tử cũng nói mình chẳng bằng trò Hồi).
5.10
宰予昼寝,子曰:“朽木不可雕也,粪土之墙不可杇也, 於予与何诛!”. 子曰:“始吾於人也,听其言而信其行;今吾於人也,听其言而观其行。於予与改是”
Tể Dữ trú tẩm, Tử viết: Hủ mộc bất khả điêu dã, phân thổ chi tường bất khả ô dã, ư Dữ dữ hà tru !. Tử viết: Thỉ ngô ư nhân dã, thính kỳ ngôn nhi tín kỳ hành; Kim ngô ư nhân dã, thính kỳ ngôn nhi quan kỳ hành. Ư Dữ dữ cải thị.
Tể Dữ ngủ ban ngày, Khổng tử nói: Gỗ mục thì không thể đẽo thành công cụ, bức tường bằng đất xấu không thể quét vôi mới được. Còn gì để trách cứ anh ấy nữa. Khổng tử nói thêm: trước đây ta chỉ nghe người khác nói thì tin (anh ta), bây giờ ta nghe rồi còn phải quan sát (anh ta) nữa. Tể Dữ ngủ ngày khiến ta thay đối suy nghĩ (về anh ta).
 (Chú thích: Khổng tử khuyên trò học tập tích cực…Tể Dữ nói thì hay nhưng không chăm chỉ. Nay thầy Khổng chính mắt nhìn thấy mới đánh giá đúng về anh ta).
5.11
子曰:“吾未见刚者”. 或对曰:“申枨”子曰:“枨也欲,焉得刚?”
Tử viết: Ngô vị kiến cương giả. Hoặc đối viết: Thân Trành.
Tử viết Trành dã dục, yên đắc cương ?.
Khổng tử nói: Ta chưa thấy người nào kiên cường. Có người đáp “Thân Trành là người như vậy”.
Khổng tử nói: Thân Trành nhiều dục vọng, sao gọi là kiên cường ?
 (Chú thích: Thân Trành là người kiêu hãnh, vị kỷ, người ta tưởng nhầm là kiên cường)
5.12 子贡曰:我不欲人之加诸我也,吾亦欲无加诸人。子曰:赐也,非尔所及也。
Tử Cống viết: Ngã bất dục nhân chi gia chư ngã dã, ngô diệc dục vô gia chư nhân.
Tử viết: Tứ dã, phi nhĩ sở cập dã
Tử Cống nói: Con không chịu để người đổ cái xấu cho con, cũng không muốn đem việc không tốt đổ cho người khác.
Khổng tử nói: Trò Tứ, ngươi chưa phải là người làm được việc đó.
(Chú thích: Khổng tử cho rằng “Không muốn người khác đổ tội cho mình”- đó là thiên tính của con người, điều này dễ hiểu. Không đổ việc xấu cho người khác thì chỉ người có đức nhân mới làm được. Đạo Nhân là vấn đề rộng lớn, phức tạp ông chưa đề cập, trò Tứ chưa thể theo kịp).
5.13
子贡曰:夫子之文章可得而闻也;夫子之言性与天道, 不可得而闻也
Tử Cống viết:  Phu tử chi văn chương khả đắc nhi văn dã; phu tử chi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn dã.
Tử Cống nói: Văn chương của thầy, chúng ta đã được biết. Còn luận bàn của thầy về nhân tính và đạo trời thì chúng ta chưa biết.
(Chú thích: Nhân tính và đạo trời là hai vấn đề triết lý‎ cao xa, Khổng tử ít bàn tới bởi khả năng nhận thức của học trò chưa tới…)

5.14
子路有闻,未之能行,唯恐有闻。
Tử Lộ hữu văn, vị chi năng hành, duy khủng hữu văn.
Tử Lộ mỗi khi nghe được một việc, nếu thấy vẫn chưa làm được, thì rất sợ nghe thêm những việc khác.
5.15
子贡问曰:孔文子何以谓之“文”也?子曰:敏而好学,不耻下问,是以谓之“文”也。
 Tử Cống vấn viết: Khổng Văn tử hà dĩ vị chi “văn” dã ?
Tử viết: Mẫn nhi hiếu học, bất sỉ hạ vấn, thị dĩ vị chi “văn” dã.
Tử Cống hỏi: Khổng Văn tử vì sao đặt tên thụy là “văn” ?
Khổng tử nói: Ông ta thông minh lại ham học, không cho là nhục khi cần hỏi người dưới mình, nên đặt tên thụy là “văn”.
5.16
子谓子产有君子之道四焉:“其行己也恭,其事上也敬,其养民也惠,其使民也义”
Tử vị Tử Sản hữu quân tử chi đạo tứ yên: Kỳ hành kỷ dã cung, kỳ sự thượng dã kính, kỳ dưỡng dân dã huệ, kỳ sử dân dã nghĩa.
Khổng tử nói về Tử Sản có bốn phẩm chất của người quân tử: Làm người xử sự rất khiêm cung. Phụng thờ vua cung kính, có trách nhiệm, nuôi dưỡng dân cho nhiều ân huệ, điều khiển dân hợp lý.
 (Chú thích: Công Tôn Tử Sản là cháu của Trịnh Mục công, cầm quyền nước Trịnh hơn 20 năm, nhà cải cách nổi tiếng. Bài này nói về 4 phẩm chất của người quản l‎ý‎ quốc gia)
5.17
子曰:晏平仲善与人交,久而敬之。
Tử viết: Án Bình Trọng thiện dữ nhân giao, cửu nhi kính chi.
Khổng tử nói: Án Bình Trọng giỏi về kết giao bằng hữu, cả khi quan hệ với bạn lâu ngày vẫn tôn trọng bạn.


5.18

子曰:臧文仲居蔡,山节藻棁,何如其知也!
Tử viết: Tang Văn Trọng cư thái, sơn tiết tảo chuyết, hà như kỳ tri dã !
Khổng tử nói: Tang Văn Trọng nuôi một con rùa lớn, quanh cột nhà chạm khắc núi non và hình rong biển, người như vậy sao gọi là người có trí !
 (Chú thích: Tang Văn Trọng sưu tầm rùa lớn, quanh cột nhà chạm khắc núi non, trên kèo chạm trổ hoa văn đẹp đẽ, bị Khổng tử chê trách. Người xưa thường tìm bắt rùa lấy mai để bói toán cát hung, nhà vua thường dùng rùa to, quan đại phu chỉ được dùng rùa nhỏ. Tang Văn Trọng dùng rùa to là không đúng phép tắc. Việc chạm khắc núi non và hoa văn đẹp đẽ thường chỉ có trong cung điện hay tông miếu nhà vua, người dân thường không được tùy tiện làm như vậy).

5.19
子张问曰:“令尹子文三仕为令尹,无喜色;三已之,无愠色。旧令尹之政,必以告新令尹。何如?”.
子曰:“忠矣”.
曰:“仁矣乎?”.
曰:“未 知。焉得仁?”,
曰“崔子弑齐君,陈子文有马十乘,弃而违之,至於他邦,
则曰:‘犹吾大夫崔子也’ . 违之。之一邦,则又曰:‘犹吾大 夫崔子也’.违之,何如?子曰:“清矣”.曰:“仁矣乎?”曰:“未知,焉得仁?”
Tử Trương vấn viết: Lệnh doãn tử Văn tam sĩ vi lệnh doãn, vô hỉ sắc; tam dĩ chi, vô uẩn sắc. Cựu mệnh quân chi chính, tất dĩ cáo tân lệnh doãn. Hà như ?
Tử viết: Trung hĩ.  Viết: Nhân hĩ hồ ? Viết: Vị tri. Yên đắc nhân ?
Viết: Thôi tử thí Tề quân, Trần tử văn hữu mã thập thừa, khí nhi vi chi, chí ư tha bang, tắc viết:  Do ngô đại phu Thôi tử dã. Vi chi. Chi nhất bang, tắc hựu viết: Do ngô đại phu Thôi tử dã, vi chi, hà như ?. Tử viết: Thanh hĩ. Viết: Nhân hĩ hồ ? Viết : Vị tri, yên đắc nhân ?
Tử Trương hỏi: Tử Văn ba lần làm quan lệnh doãn nước Sở, không tỏ vẻ vui mừng; Ba lần bị bãi quan mà không oán hận. Mỗi lần thay đổi chức vụ, đều đem chính sự bàn giao đầy đủ cho quan mới. Nên đánh giá ông ta thế nào ?
Khổng tử nói: Là người trung thành. Tử Trương hỏi thêm: Tử Văn là người có nhân, được không ? Khổng tử đáp: Ta không biết, làm sao đánh giá có nhân được.
Tử Trương lại hỏi: Khi Thôi tử (Thôi Trữ) giết vua Tề Trang công, Trần Văn tử có 10 cỗ xe ngựa dám vứt bỏ mà rời nước Tề sang nước khác, lại nhận xét: “Người chấp chính ở đây cũng giống như Thôi tử nước tôi”. Nói rồi lại bỏ đi nước khác, được một thời gian lại chê “Cũng giống như Thôi tử nước chúng tôi”… Rồi lại bỏ đi qua nước khác, vậy đánh giá ông ta thế nào ? Khổng tử đáp: Người ấy rất trong sạch.
Tử Trương nói: có phải là người nhân không ?
Khổng tử nói: Không biết, sao vội đánh giá được!
5.20
季文子三思而后行。子闻之,曰:“再,斯可矣”
Quí Văn tử tam tư nhi hậu hành. Tử văn chi, viết:  Tái, tư khả hĩ.
Quí Văn tử ba lần nghĩ rồi mới làm. Khổng tử nghe biết, nói: Nghĩ thêm lần nữa là được rồi.
5.21
子曰:甯武子,邦有道则知,邦无道则愚,其知可及也,其愚不可及也
Tử viết: Ninh Vũ tử, bang hữu đạo tắc tri, bang vô đạo tắc ngu, kỳ tri hà cập dã, kỳ ngu bất khả cập dã.
Khổng tử nói: Ninh Vũ tử, khi nước nhà có đạo, thái bình thì được tiếng là có đức trí, khi nước nhà loạn lạc thì mang tiếng ngu đần. Có trí như Ninh thì thiên hạ theo kịp, giả ngu như Ninh thì thiên hạ không ai đuổi kịp.
5.22
子在陈曰: 归与!归与!吾党之小子狂简, 斐然成章,不知所以裁之
Tử tại Trần viết: Qui dư ! Qui dư ! Ngô đảng chi tiểu tử cuồng giản, phỉ nhiên thành chương, bất tri sở dĩ tài chi.
Khổng tử (lúc còn ở nước Trần) nói: Về đi, về đi. Học trò quê hương ta kinh nghiệm còn it ỏi, văn chương học vấn tuy có chỗ khả quan nhưng chưa biết đào sâu sự lí, mở mang đạo đức và hiểu biết bản thân.
5.23
子曰:伯夷叔齐不念旧恶,怨是用希
Tử viết: Bá Di, Thúc Tề bất niệm cựu ố, oán thị dụng hy.
Khổng tử nói: Bá Di, Thúc Tề không nhớ oán giận cũ, nên hiếm người giận họ.
5.24
子曰:孰谓微生高直?或乞醯焉,乞诸其邻而与之
Tử viết: Thục vị Vi Sinh Cao trực ? Hoặc khất ê yên, khất chư kỳ lân nhi dự chi.
Khổng tử nói: Ai bảo Vi Sinh Cao là người thẳng thắn ? Có người đến xin giấm, nhà không có không dám nói thực, rồi sang nhà hàng xóm xin cho người ta (kể như của nhà mình).

5.25
子曰: 巧言令色足恭,左丘明耻之,丘亦耻之。匿怨而友其人,左丘明耻之,丘亦耻之
Tử viết: Xảo ngôn lệnh sắc túc cung, Tả Khâu Minh sỉ chi, Khâu diệc sỉ chi. Nặc oán nhi hữu kỳ nhân, Tả Khâu Minh sỉ chi, Khâu diệc sỉ chi.
Khổng tử nói: Những người nói khéo, ngọt ngào, giả bộ hiền lành, cung kính quá độ, Tả Khâu Minh cho như thế là đáng sỉ nhục, Khâu ta cũng cho là sỉ nhục. Giấu kín oán hận trong lòng mà giả bộ hữu hảo, Tả Khâu Minh cho đó là sỉ nhục, Khâu ta cũng cho là đáng nhục.
 (Chú thích: Tả Khâu Minh là tác giả bộ Chiến quốc sách)
 5.26
颜渊,季路侍。子曰:“盍各言尔志”. 子路曰:“願车马,衣轻裘,与朋友共,敝之而无憾”. 颜渊曰:“愿无伐善,无施劳”. 子路曰:“愿闻子之志”. 子曰:“老者安之,朋友信之,少者怀之” .
Nhan Uyên, Tử Lộ thị. Tử viết: Hạp các ngôn nhĩ chí ?  Tử Lộ viết: Nguyện xa mã, y khinh cừu, dữ bằng hữu cộng, tệ chi nhi vô hám. Nhan Uyên viết: Nguyện vô phạt thiện, vô thi lao.
Tử Lộ viết: Nguyện văn tử chi chí. Tử viết: Lão giả an chi, bằng hữu tín chi, thiếu giả hoài chi.
Nhan Uyên, Tử Lộ theo hầu. Khổng tử nói: Sao các anh chẳng nói ý chí của mình (cho ta nghe) ?
Tử Lộ thưa: Con nguyện mang xe ngựa, áo da cừu của con cho bạn hữu dùng, dù đến hỏng cũng không oán giận.
Nhan Uyên nói: Con nguyện không phô trương ưu điểm của con, không tỏ rõ công lao của mình.
Tử Lộ thưa: chúng con muốn nghe thầy nói nguyện vọng của thầy.
Khổng tử đáp:  Người già được nuôi dưỡng đầy đủ, bạn bè tin cậy lẫn nhau, trẻ em được quan tâm chăm sóc.
5.27
子曰:“已矣乎!吾未见能见其过而内自讼者也” .
Tử viết: Dĩ hĩ hồ ! Ngô vị kiến năng kiến kỳ quá nhi nội tự tụng giả dã.
Khổng tử nói: Thôi hết rồi ! Ta chưa từng thấy người nào có thể tự phát hiện sai lầm và tự phê phán bản thân.
5.28
子曰:十室之邑,必有忠信如丘者焉,不如丘之好学也
Tử viết: Thập thất chi ấp, tất hữu trung tín như Khâu giả yên,  bất như Khâu chi hiếu học dã.
Khổng tử: Một thôn có chục nhà thì nhất định có một người trung tín như ta, nhưng không hiếu học như ta.
 (Khổng tử tin tưởng rằng nơi nào cũng có người nhân đức, nhưng chưa hẳn đã hiếu học)
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved