Home » » HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “CON NGƯỜI DƯỚI ĐÁY” TRONG VĂN GOCKI

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “CON NGƯỜI DƯỚI ĐÁY” TRONG VĂN GOCKI

Written By kinhtehoc on Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011 | 00:29

Chương 2:   HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT “CON NGƯỜI DƯỚI ĐÁY”

 1. SỰ SA ĐOẠ, TỘI LỖI TRONG NHỮNG CẢNH ĐỜI CÙNG KHỔ TỐI TĂM
Những năm 90, chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ ở Nga. Nông thôn ngày càng thu hẹp, thay vào đó là các thành phố ngày càng được mở rộng. Dù bấy giờ ở nước Nga đô thị rất phát triển nhưng đời sống của nhân dân Nga rất cùng cực và khốn khổ.
Ở nước Nga nửa cuối thế kỉ XIX, hằng năm có nạn đói nhỏ, ba năm một lần có nạn đói trung bình, năm năm một lần có nạn đói lớn và mười năm một lần có nạn đói khủng khiếp. Nạn đói năm 1891 – 1892 lan tràn khắp 30 tỉnh, làm cho hàng triệu người chết. Những người còn sống thì phải lênh đênh trôi nổi khắp nơi để tìm việc làm mà sống. Trong những năm 90, số người đi lang thang để tìm cách sinh sống lên đến năm triệu người. Gorki rất quan tâm chú ý đến cuộc sống của những người du thủ du thực này. Đối với họ, ông rất đồng cảm và thương yêu. Bởi vì bản thân ông cũng là người chung hội chung thuyền với họ nên ông thật sự hiểu được cuộc sống khốn cùng của họ, những “con người dưới đáy” xã hội.
Sống trong cái xã hội mà theo Lênin, bọn quan lại đã “giăng một mạng nhện chằng chịt và con người giãy giụa như ruồi trong cái mạng nhện ấy” [3, 424]  thì đời sống của người dân ngày càng nghẹt thở. Hơn nữa lúc bấy giờ nạn đói – hậu quả của phong trào vô sản hoá nông thôn – là một nỗi ám ảnh rất đáng sợ đối với nhân dân. Không có việc làm, họ phải lăn lộn với sóng gió cuộc đời để xin việc, nhưng khổ nỗi “trên trái đất này lại không đủ công việc cho người ta làm và con người phải tốn bao nhiêu công sức mới tìm được việc” [ 8, 71 ]. Chính vì thế mà EmiLian Pilai và người bạn đường của anh ta không tìm ra được một việc làm ngay trên thành phố cảng lớn của nước Nga – Ôđexxa.
Emelian Pilai (truyện Emelian Pilai) và người bạn đường của anh ta phải trôi dạt muôn phương trong lúc không có gì trong bụng suốt mấy ngày liền. Cuối cùng họ quyết định đi làm muối, “đấy là việc khổ sai…chẳng ai làm được lâu. Bao nhiêu người phải bỏ đấy mà chuồn…không chịu nổi” [ 8, 71 ], và tiền lương thì với giá lột da xẻo thịt 60 cô – pêch mỗi ngày.
Trước tình cảnh khốn khổ, Emelian Pilai nhìn lại cuộc đời đã qua của mình và thấy rằng không có gì là tốt đẹp cả. Anh nhận ra rằng mình đã hơn 47 tuổi đầu mà còn tệ hơn một con chó “không có cái ổ mà nằm, không có miếng xương mà gặm” [ 8, 62 ]. Con người khốn cùng ấy đã bị dồn vào chân tường và anh đã phản ứng lại một cách tiêu cực.
Từng làm chạy hàng cho một ông chủ gỗ, thế nhưng Emelian Pilai đã dần dần trở nên sa đoạ. Anh sinh ra uống rượu và đã ngốn mất của ông chủ hết 60 rúp. Thế rồi anh bị đưa vào tù. Sau khi ra tù, không xin được việc làm hơn nữa nạn đói lại mấp mé dưới chân, Emelian Pilai nghĩ rằng chỉ còn một lối thoát duy nhất là đi giết người cướp của, anh sẵn lòng “mua hạnh phúc của mình bằng tính mạng của kẻ khác” [ 8, 58 ]. Theo lời lão Paven Pêtrôp – một tên có cách làm ăn mập mờ, mở quán rượu và chuyên tàng trữ đồ lấy trộm, bao đủ các thứ du côn và che giấu những việc của chúng – thì anh quyết định phục kích giết chết Ôbaimôp – một lão lái buôn – để cướp tiền. Thế nhưng sự việc không thành.
Qua cuộc đời khốn khổ và tội lỗi của Emelian Pilai, Gorki đã phơi bày ra ánh sáng bản chất đê tiện xấu xa của bọn thống trị dã man, những kẻ tàn nhẫn đã bóc lột con người đến tận xương tuỷ, cướp hết mọi quyền sống của con người dù đó là quyền được lao động.
Không chỉ Emelian Pilai, Tsencasơ ( tác phẩm Tsencasơ) từng là một nông dân hiền lành, lớn lên đi lính và là một chàng lính cận vệ khoẻ mạnh, đẹp trai, khéo léo. Nhưng sống giữa cái xã hội ngột ngạt lúc bấy giờ, anh đã trở nên sa đoạ. Suốt mười một năm trời đi du đãng, Tsencasơ trở thành “một tay nghiện rượu khét tiếng và là một tên ăn cắp khéo léo, can đảm” [ 8, 168 ]. Cuộc sống của anh trên bến tàu như “một con sói già bị săn đuổi“, nhưng với bản tính “ngang tàng và táo tợn” nên anh cứ ngang nhiên lấy cắp ở đó để sống. Bởi vì y cần tiền và “y sẽ chơi bời thoã thích khi trong túi y có những tờ giấy bạc” [ 8, 172 ].
Tsencasơ chính là sản phẩm của cái xã hội đầy rẫy những ung nhọt và bất công. Cái xã hội đã làm cho con người bị tha hoá và nó sẵn sàng hất cổ họ ra bên lề cuộc sống một cách tàn nhẫn. Sống trong cái xã hội này, Tsencasơ chỉ là một con người mà nếu bị giết chết thì không ai vì hắn  mà làm ầm ĩ lên, bởi vì “hắn là con người thừa trên trái đất! Ai hơi đâu mà bênh vực hắn” [ 8, 208 ]. Tsencasơ ý thức được điều chua chát ấy và anh vẫn cứ ngang nhiên sống trong cái xã hội đó. Cuộc sống của anh ở đó như đám mây đen chập chờn trong mắt bọn lính đoan mà lúc nào chúng cũng muốn dùng những bạo lực của tù dày để xoá tan nó đi.
Mùa thu năm 1892, nước Nga bị khủng hoảng kinh tế. Hàng triệu người dân Nga trên những nẻo đường của nước Nga mênh mông phải chịu đói khổ và trôi dạt bốn phương. Hai ông cháu của Lionka (truyện Lão Arkhip và bé Lionka) trên đường xin ăn kiếm sống đã nói rằng, ở nước Nga đói lắm “cả gián cũng chết đói” huống chi là người. Để chống lại cái đói, lão Arkhip đành đi ăn cắp và cuối cùng hai ông cháu phải nhận cái chết đầy bi thảm.
Trong truyện Người bạn đường của tôi, ta lại bắt gặp hình ảnh những người dân đói lũ lượt kéo nhau đi thành từng đoàn để tìm việc. Cả bốn trăm con người ở Fêôđôxia đều mơ ước có được việc làm như tác giả và người bạn đường của anh ta. “Nhưng rồi họ cũng đành sắm vai trò những kẻ đứng xem người ta xây đập…khắp nơi – cả trong thành phố lẫn các vùng xung quanh – từng toán   dân đói  mặt mày xám ngắt, chán nản, đi lang thang vơ vẩn và những kẻ du đãng vùng Azôp và Tavri sục sạo như bầy chó sói” [ 8, 228 ].
Không có việc làm, “người bạn đường” của tác giả đã quyết định đi ăn xin. Nhưng không phải đi ăn xin là có được miếng ăn, là được sống, vì “bọn ăn xin các người nhiều quá“, họ kéo nhau thành từng  “bọn” với vẻ hốc hác, thảm hại, chỉ hi vọng kiếm được một chút gì đáp ứng cho cái dạ dày rỗng tuếch, dù đó là một mẩu bánh mì.
Không chỉ chịu cảnh đói khổ, lang thang mà đi đến đâu những người này đều bị cảnh sát xua đuổi đến đó. Khi tác giả và người bạn đường của anh ta đến Kecsơ thì “tất cả những kẻ vô dụng – bọn chân đất – đã bị đuổi ra khỏi Kecsơ” [ 8, 230 ]. Họ buộc phải nấp ngủ dưới chân cầu ván ghép bắc từ bến kè lên để tránh sa vào tay cảnh sát.
Người thất nghiệp đã thế còn người có việc làm thì cũng chẳng hơn gì. Hai mươi sáu anh thợ làm bánh mì (truyện Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái) vốn là những người lao động tự do nhưng họ chẳng khác gì những tên tù khổ sai dưới sự bóc lột tàn nhẫn của các ông chủ tư sản.
Hai mươi sáu anh thợ làm việc như hai mươi sáu người tù, “hai mươi sáu cái máy sống bị nhốt trong hầm nhà ẩm ướt“. Họ kể, ở đó họ “nhào bột từ sáng đến tối làm bánh sữa và bánh mì khô…ông chủ rào sắt ở bên ngoài cửa sổ để chúng tôi không thể đem những mẩu bánh mì của ông ta cho những người ăn xin và những người bạn của chúng tôi đang đói vì không có công ăn việc làm…buổi trưa ông ta cho chúng tôi ăn lòng thối thay cho thịt” [ 8, 484 ]. Họ sống trong cảnh ngột ngạt tối tăm, ẩm thấp và họ chỉ biết cử động tay, ngón tay như cái máy. Họ chán nản, họ buồn và họ “mượn lời người khác hát lên nỗi đau xót âm thầm của mình, hát lên nỗi buồn của những con người sống thiếu ánh mặt trời, nỗi buồn của những kẻ nô lệ… Hai mươi sáu con người trong căn hầm của toà nhà đá lớn, sống cực khổ đến nỗi có cảm giác như cả ba tầng của toà nhà này đều xây hẳn trên vai” [ 8, 487 ].
Xã hội thật bất công với họ. Ông chủ của họ là “một tên biển lận, một kẻ lừa bịp, quân bất lương và thích hành hạ người khác” [ 8, 487 ] và họ phải chịu đựng trong sự tàn ác đó. Hơn nữa, đi đến đâu họ cũng bị cảnh sát xua đuổi đến đó. Vào những ngày lễ những người thợ khác thì quần áo bảnh bao đi đến vườn hoa thành phố dạo chơi, còn hai mươi sáu anh thợ thì “quần áo rách rưới, bẩn thỉu, chân quấn giẻ hay đi dép bện bằng vỏ cây, cảnh sát không cho họ đến vườn hoa thành phố “. Tuy sống trong cảnh tối tăm bẩn thỉu, nhưng họ vẫn cố thắp lên cho mình những tia hi vọng. Và họ gởi niềm hi vọng của mình vào Tania nhưng cuối cùng họ đã vỡ mộng. Họ vây quanh chửi mắng Tania thậm tệ. Nhưng rồi cuộc sống tối tăm, cực khổ vẫn vây quanh họ. Họ chỉ biết “lẳng lặng trở vào cái hầm đá ẩm thấp“, và “vẫn như trước kia mặt trời không bao giờ nhìn vào cửa sổ (họ) và Tania không bao giờ đến nữa” [ 8, 504 ].
Dường như số phận của những “con người dưới đáy” này chỉ được an bài trong cuộc sống tối tăm ngột ngạt, thiếu ánh sáng mặt trời, nếu như họ không phải lang thang phiêu dạt hoặc ăn xin. Cuộc sống của hai vợ chồng anh thợ giày Orlôp ( truyện Vợ chồng Orlôp) trong căn hầm nhà “tối tăm, ẩm thấp, toả ra mùi mốc, mùi nước sôi và mùi da thối” [ 8, 404 ] đã khiến cho Grigori Orlôp luôn cảm thấy nhàm chán, bứt rứt, suốt ngày anh chỉ biết uống rượu và đánh vợ :
Trong tâm hồn anh, tất cả đều lộn xộn và nặng trĩu, và anh đành buông mình theo những cảm giác nặng nề trong lòng mà không hiểu rõ ra sao nữa, chỉ biết rằng nửa chai vôtka là liều thuốc duy nhất có thể làm anh nhẹ lòng“  [ 8, 407 ].
Nhưng vòng quay của nhịp sống vẫn cứ quay và anh cũng bị cuốn hút vào vòng xoáy đó, anh lại cũng làm việc, cũng sống trong căn “phòng ẩm ướt tẻ nhạt. Cuộc sống nhộn nhịp ở đâu đó bên trên, còn ở đây nó chỉ để lọt tới những âm thanh vang vẳng, mơ hồ, từng cụm không màu sắc quợn lẫn với bụi rơi xuống cái hố của vợ chồng Orlôp” [ 8, 411 ]. Họ làm việc, họ chán nản và họ hát lên những lời buồn tẻ cho cuộc sống đen tối của mình:
Ôi, cuộc đơ-ơi…cuộc đời chó chết của ta ơi…
Ngươi chỉ là một chuỗi buồn! Ôi chuỗi buồn đáng nguyền đáng rủa
Chuỗi buồn đáng nguyền đáng rủa của ta, ôi!…
[ 8, 413 ]
Là vợ chồng với nhau nhưng họ nói chuyện với nhau không bằng những lời âu yếm thiết tha mà bằng những lời thô lỗ, tục tằn và độc địa. “Họ yêu nhau, nhưng sống buồn tẻ, họ không có những cảm xúc và hứng thú có thể thoả mãn nhu cầu tự nhiên của con người là xúc động, suy nghĩ, và nói chung là sống. Giá vợ chồng Orlôp có một mục đích sống dù chỉ là mục đích góp nhặt từng xu, thì chắc chắn họ sống sẽ thoải mái hơn. Nhưng họ không có cả mục đích như thế ” [ 8, 414 ].
Cuộc đời đối với họ như cái hố tối tăm, chật chội và ngột ngạt, đã chôn sống họ. Điều đó đã khiến Orlôp cảm thấy tức tối mà thốt lên rằng: “Hỡi ơi, cuộc sống! Ngươi là chốn tù đày tuyệt diệu“[ 8, 420 ]. Vợ anh có ý định thay đổi chỗ ở để cho cuộc sống có gì đó mới mẻ hơn nhưng dù anh có thay đổi chỗ ở thì vẫn thế thôi, vẫn là sống trong cái “hố” tối tăm, ngột ngạt, không có gì tốt đẹp hơn lên vì “cuộc đời là cái hố“.
Họ cứ sống như thế hết ngày này sang ngày khác. Mà thật ra họ là những con người không đến nỗi tồi tệ lắm, họ sống và chờ đợi một cái gì xảy đến phá tan tành cuộc sống lố lăng đến khốn khổ của họ” [ 8, 422 ].
Gorki có sự tiếp thu truyền thống là miêu tả những bi kịch của con người nhưng ông có nét khác so với các nhà văn dân chủ Nga những năm 60. Đó là ông đi sâu miêu tả những bi kịch của những người cùng khổ nhưng ông không coi việc miêu tả tỉ mỉ bi kịch đó là mục đích chính của mình, mà ông đi sâu vào thế giới nội tâm, tìm hiểu những phẩm chất tốt đẹp, khám phá những khả năng tiềm tàng, những khát vọng hướng tới một cuộc cách mạng lớn lao trong những con người khốn cùng này. Đây cũng là một trong những đặc điểm quan trọng mà chúng tôi muốn trình bày.
2. NHỮNG THỂ HIỆN PHẨM CHẤT TỐT ĐẸP CỦA NHÂN VẬT “CON NGƯỜI DƯỚI ĐÁY”
2.1.  Lòng khát khao về cuộc sống mới, tốt đẹp
Cứ tưởng rằng sống giữa chốn bùn nhơ đen tối thì những “con người dười đáy” sẽ bị vùi lấp đi bao mơ ước khát vọng của mình. Nhưng trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn ấp ủ bao ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng và nhân đạo.
Tsencase (tác phẩm Tsencase) ngoài cái vẻ của một tên cướp khét tiếng, ghê tợn, trong tâm hồn anh vẫn có những giờ phút thơ mộng để giao cảm với thiên nhiên. Anh yêu mến ngắm nhìn biển tươi đẹp, và ngắm nhìn không biết chán. Đối diện với biển, anh quên đi bao ý nghĩ tội lỗi:
Y, một kẻ cắp, y yêu biển. Cái bản tính nóng nảy sôi nổi, thèm khát cảm giác của y không bao giớ biết chán khi ngắm nghía khoảng rộng đen tối, bao la, tự do và dũng mãnh này…Ngồi ở cuối thuyền y bẻ tay lái rẽ nước và bình tĩnh nhìn về phía trước, lòng tràn ngập niềm mong muốn được đi lâu và xa trên làn nước phẳng lặng, mịn mượt như nhung này” [ 8, 183 ].
Nếu như Gavrila cảm thấy ngợp thở trước cái yên lặng và vẻ đẹp tối tăm của biển thì đối vối Tsencase, biển như là thứ nước thánh thiêng liêng của chúa trời, nó có thể rửa sạch mọi tội lỗi của y:
Ở ngoài khơi, trong lòng y bao giờ cũng dậy lên một tình cảm rộng lớn ấm áp, tình cảm ấy choán hết tâm hồn y, tẩy rửa hết những cái nhơ nhớp mà đời sống hằng ngày đã in sâu vào tâm hồn. Y quí trọng tình cảm ấy và thích thấy mình trở nên tốt đẹp hơn ở nơi đây, giữa khoảng trời nước bao la, nơi mà mọi ý nghĩ về cuộc sống  bao giờ cũng bớt gay gắt và bản thân cuộc sống bao giờ cũng mất giá trị. Đêm đêm, tiếng thở nhẹ nhàng trong giấc ngủ của biển bay bổng trên mặt nước bao la. Cái âm thanh mênh mông ấy truyền sự bình tĩnh vào tâm hồn con người, dịu dàng thuần hoá những dục vọng độc ác điên cuồng, khơi lên trong lòng người bao mơ ước mãnh liệt” [ 8, 184].
Suốt 11 năm trời sống cuộc đời một tên du đãng nhưng trong tâm trí của Tsencase  những kí ức tốt đẹp xa xăm không bao giờ mất đi và cái dĩ vãng tốt đẹp của cuộc đời xa xưa luôn hiện về trước mắt y: “Y đã kịp thấy y lúc trẻ thơ, làng quê y, mẹ y – người thiếu phụ má đỏ, mũm mỉm, có đôi mắt sáng hiền hậu – và bố y – người đàn ông cao lớn đồ sộ, có bộ râu cằm hung và khuôn mặt nghiêm khắc. Y thấy mình là chú rể và thấy vợ y, cô Anfixa mắt đen có bím tóc dài, người đẫy đà, dịu hiền, vui tính, và y lại thấy mình là chàng lính cận vệ đẹp trai…Y thấy cả cái cảnh làng xóm đón tiếp y khi y hết hạn tòng ngũ trở về. Y thấy bố y hãnh diện như thế nào trước cả làng về thằng “Grigori của mình“. Những kí ức ấy “đã làm sống lại những hòn đá của dĩ vãng và nhỏ những giọt mật vào chén thuốc độc mà hồi xưa người ta đã uống…Tsencase cảm thấy mình được tắm trong luồng không khí thân thuộc âu yếm, làm cho lòng y dịu lại. Luồng không khí thân yêu ấy đưa đến tai y cả những lời âu yếm của mẹ, cả những lời lẽ trang nghiêm của ông bố nông dân giàu nhiệt huyết, vô số âm thanh đã bị quên lãng và nhiều mùi thơm nồng đượm của đất mẹ vừa mới tan băng, mới cày và vừa được bao phủ một lớp lúa thu óng ả như tấm lụa màu ngọc bích” [ 8, 199 ]. Càng thả hồn trong những kí ức hạnh phúc bao nhiêu, thì khi nhìn lại hiện tại, Tsencase càng ý thức được những nỗi bất hạnh, cô độc của mình bấy nhiêu: “Y cảm thấy y là kẻ cô độc, bị vứt ra và vĩnh viễn bị gạt ra khỏi cái cuộc sống đã sản sinh ra dòng máu hiện đang chảy trong mạch y” [ 8, 199 ]. Điều đó càng làm cho ta quí mến hơn con người có dáng vẻ dữ tợn này.
Dù sống, lao động trong không khí ngột ngạt, ẩm thấp, chật chội nhưng hai mươi sáu anh thợ ( truyện Hai mươi sáu anh chàng và một cô gái) vẫn tràn đầy mơ ước về một ánh sáng tốt đẹp, xa xăm. Họ nhắm nghiền mắt và cất cao ước mơ của mình bằng tiếng hát “và có lẽ anh hình dung những làn sóng âm thanh đậm đà bao la ấy là con đường dẫn về một nơi xa xăm rực rỡ ánh mặt trời – đó là con đường rộng lớn và anh thấy mình đang đi trên con đường đó”       [ 8, 487 ]. Ngoài những bài hát, họ còn có một cái gì tốt đẹp nữa để tắm mát những tâm hồn khốn khổ và khô cằn của mình, và có lẽ đối với họ “nó thay cho mặt trời“. Đó là mỗi buổi sáng họ được nhìn thấy Tania – một khuôn mặt nhỏ, xinh xắn hồng hào có cặp mắt xanh và vui vẻ – đến lấy bánh sữa. Trước mặt cô, họ tự cho mình là “những kẻ bẩn thỉu, tối tăm xấu xí“. Đối với họ, Tania như ngôi sao băng thoáng hiện rồi biến mất nhưng đó là nguồn sống hằng ngày không thể thiếu đối với họ. Họ tự dựng cho mình một hình tượng tốt đẹp về Tania. Họ cho rằng những người đàn bà mà họ biết đều là những kẻ chỉ đáng nghe những lời trơ trẽn thô lỗ nhưng đối với Tania thì họ không bao giờ dám nói những lời như thế. Họ “nói với cô bằng những lời đặc biệt – những lời …chỉ dành riêng cho cô. Trong lúc chuyện trò với cô, giọng nói (họ) dịu dàng hơn, những lời bông đùa cũng nhẹ nhàng hơn” [ 8, 488 ]. Với họ – “những con bò đực đần độn” – thì cô như một thiên thần sống giữa chốn bùn lầy mà họ phải tôn sùng. Việc giao bánh cho cô được họ xem như là một thứ nghi lễ thiêng liêng, “việc đó trở thành một lễ cúng hằng ngày hiến dâng thần tượng” [ 8, 490 ].  Họ cảm thấy sung sướng và hãnh diện khi được giúp đỡ cô mọi việc và không dám đòi hỏi ở cô một điều gì. Họ xem cô là nguồn hi vọng, nguồn ánh sáng duy nhất sẽ chiếu sáng vào cuộc sống tối tăm, ngột ngạt của họ. Họ nói: “Chúng tôi phải yêu Tania, bởi vì chúng tôi chẳng còn ai để mà yêu” [ 8, 490 ].
Nhìn thấy bao cô thợ khác chết mê chết mệt vì anh lính đẹp trai khoẻ mạnh, mới vào làm thì trong lòng hai mươi sáu anh chàng này lại không một chút mải may nghi ngờ gì về Tania. Họ luôn tin tưởng vào sự vững vàng của cô. Họ nói: “Tania ấy à? Cô ấy sẽ đứng vững! Không dễ gì lung lạc nổi cô ta đâu“          [ 8, 499 ]. Niềm tin đó đã tạo cho họ sự can đảm để họ quyết định thách đố với tên lính. Cuộc thách đố diễn ra và họ luôn tin rằng Tania sẽ chiến thắng. Càng ngày họ càng căng thẳng, sốt ruột, nóng lòng, chờ đợi kết quả cuộc thử thách tấm lòng trong sạch của vị thần nhỏ bé của mình. Đối với họ, Tania là điểm tựa duy nhất để họ bám vào và vươn lên cuộc sống bình thường. Họ chưa gục ngã vì còn hình ảnh của cô. Nhưng cuối cùng họ đã thất vọng, chiếc cầu hi vọng duy nhất của họ đã bị chặt đứt, thần tượng thiêng liêng mà họ tôn thờ đã sụp đổ, Tania đã bị tên lính chinh phục. Hai mươi sáu anh chàng xoay quanh chửi mắng cô bằng những lời độc địa, không kiêng nể. Họ cho rằng cô đã bóc lột hết của họ tất cả, trong khi “họ đã phung phí tất cả những gì tốt dẹp nhất vì cô, mặc dù cái tốt đẹp ấy chỉ là những mẩu vụn của những kẻ hành khất” [ 8, 503-504 ]. Cuối cùng họ nhận ra rằng đó không phải lỗi ở Tania.
Cũng như hai mươi sáu anh chàng, cuộc sống trong tầng hầm ẩm ướt, bẩn thỉu và tối tăm, không bao gìơ dập tắt được bao ước mơ cao đẹp của anh thợ đóng giày Grigori Orlôp (truyện Vợ chồng Orlôp). Anh luôn khao khát “thèm muốn cuộc sống nhẹ nhõm, vô tư” khác với cuộc sống nặng nề, chật chội và tù đọng mà anh đang sống. Với ý thức vươn lên, Orlôp không chấp nhận cái vòng lẩn quẩn của mình là “sống, khâu, và chết“. Và sự xuất hiện của anh sinh viên y tế như làn gió mát thổi vào tâm hồn đang chán nản của anh. Đó là một năng lực tự giác đột nhập vào cuộc sống tối tăm của anh, và hé mở trong anh bao hi vọng trong cuộc sống. Khi trở thành người hộ lí y tế, Orlôp muốn biểu hiện những mặt tốt đẹp nhất của mình, muốn trở thành người anh hùng: “Trong lòng anh bỗng dâng lên một khao khát muốn làm một điều gì để mọi người phải chú ý đến anh, phải kinh ngạc về anh. Đó là lòng hiếu danh độc đáo của một sinh vật bỗng nhận ra mình là một con người và vì chưa tin hẳn vào sự thật đó, một sự thật mới mẻ đối với mình, hắn muốn làm một điều gì để khẳng định điều đó cho mình và cho người khác: Đó là lòng hiếu danh đã đần dần biến thành khát vọng muốn lập nên một công trạng không vụ lợi” [ 8, 454 ]. Ước mơ đó lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng Orlôp, “lòng anh đang thèm khát khoảng không rộng rãi…để anh có thể phát huy hết sức mạnh của mình…anh cảm thấy anh mang trong mình một sức mạnh lớn lao vô cùng tận!” và anh đã nghĩ đến ước mơ lập chiến công thầm lặng nhưng vẻ vang, đó là việc “giải phóng nước Nga khỏi bệnh dịch tả“. Chiến công đó sẽ giúp anh thoát khỏi cái “hố” không thấy ánh sáng, không thấy mặt trời, không biết mọi người. Nhưng khi đã ngoi lên được thì anh lại thấy lo sợ, cảm thấy cuộc sống trước kia chẳng có gì tươi đẹp, còn cuộc sống bây giờ cũng không vừa ý chút nào dù anh không uống rượu và không đánh vợ. Cuộc sống khắc khổ ăn không đủ no trước kia của vợ chồng anh bây giờ được thay bằng cuộc sống trọc phú mà cái giá của nó là “nỗi lòng day dứt“, và nỗi lòng đó không thể dung hoà được với cuộc sống hằng ngày. Anh muốn vươn lên thoát khỏi cuộc sống tầm thường nhưng cuộc sống ở bệnh viện vẫn là một sự tầm thường. Nếu như trước kia anh từng ngưỡng mộ bác sĩ Vasenkô và những sinh viên y tế ở đây vì họ làm những việc cao cả là cứu người, thì sau cái chết của cậu bé Xenka, anh đã nghi ngờ tất cả, nghi ngờ mọi cố gắng của con người, nỗi chán chường lại tràn ngập hồn anh và anh quay về với cuộc sống rượu chè cùng thói quen đánh vợ trước kia. Cuối cùng anh đã rời khỏi bệnh viện và trở thành một kẻ du thủ du thực. Nhưng ước mơ về hành động anh hùng vẫn cháy bổng không nguôi trong lòng anh. Orlôp nói: “Như thế là tôi đã được đưa lên cao rồi lại bị quặp xuống…tôi vẫn chưa làm nên công trạng gì. Nhưng giờ đây tôi vẫn muốn được hơn người về một mặt nào đó…Nghiền nát trái đất ra thành tro bụi hay tụ tập bè đảng! Hoặc đại khái làm một việc gì để vượt lên trên tất cả mọi người và nhổ nước bọt xuống đầu họ…và nói với họ: “Lũ dòi bọ kia! Các ngươi sống để làm gì? Các ngươi sống thế nào? Các ngươi chỉ là đồ đạo đức giả, có thế thôi!” [ 8, 482 - 483 ]. Nhưng: “Cuộc sống sao mà buồn tẻ và chật chội“, Orlôp thấy mình đã bế tắc, không có lối thoát, không có cách nào để thực hiện được ước mơ. Anh nói: “Tôi sinh ra với nỗi lòng day dứt…và số tôi là cái số lang thang. Tôi đã đi khắp bốn phương chẳng thấy đâu là nguồn an ủi” [ 8, 483 ]
2.2. Cố gắng giữ nhân phẩm của mình
Những nhân vật của Gorki dù có rơi vào sự sa đoạ tội lỗi nhưng trong tâm hồn họ vẫn còn sót lại những nhân tính quí báu.
Emelian Pilai (truyện Emelian Pilai) trong lúc cùng đường đã nghĩ đến việc giết người cướp của. anh nghĩ rằng chờ lão lái buôn xe ngựa đi ngang qua là “chỉ một vố ! Thế là có tiền” [ 8, 66 ]. Nhưng ở đời không ai có thể đoán trước được tương lai, anh nghĩ thế này mà chuyện xảy ra thế khác. Không phải lão Obaimôp đi qua  mà là một cô gái trẻ đang đau khổ tuyệt vọng đi qua. Và Emilian đã “dừng bước” khi nhìn thấy ” hai vai cô ta rung lên từng đợt và những giọt nước mắt to cứ lần lượt nhỏ xuống“. Những giọt nước mắt ấy đã làm anh xúc động, đã vực dậy cái lương tâm đang đứng trên bờ vực tội lỗi của anh. Đi bên cạnh cô gái, anh thấy mình lúng túng và anh đã nói những gì anh không biết nữa. Anh cảm thấy cái tốt đẹp nhất suốt 47 năm trời trong đời mình là được cô gái ấy, một cô tiểu thư được nuông chiều sung sướng, hôn lên trán mình – kẻ đói nghèo, dân đi chân đất phiêu dạt.
Từ những ý nghĩ ban đầu để có tiền, bây giờ Emelian Pilai trở nên cao thượng hơn, biết tự trọng và “chẳng còn bụng dạ đâu mà nghĩ đến tiền bạc nữa“    [ 8, 69 ]. Anh đã can đảm từ chối số tiền mà cô gái đưa cho anh: “Thôi cô ạ, cám ơn cô, Tôi không cần tiền đâu” [ 8, 69 ]. Thế là từ ý nghĩ giết người ban đầu, Emelian đã chuyển sang cứu sống một linh hồn đau khổ, đáng thương đang tuyệt vọng và muốn trầm mình tự tử. Hành động đó cũng chính là sự vươn lên cao thượng của Emelian Pilai.
Còn Tsencase ( truyện Tsencase) thì có dáng vẻ bề ngoài dữ tợn của một tên cướp: “Y có cái vẻ hao hao giống con diều hâu thảo nguyên, thân hình gầy gò dữ tướng và dáng đi rình mò nhịp nhàng” [ 8, 168]. Nhưng thực ra bản chất của tên ăn cướp, kẻ du đãng, con người bị vứt ra khỏi tất cả những gì thân thiết ruột thịt này lại là người có tâm hồn đẹp đẽ và cao thượng. Anh khinh bỉ Gavrila – kẻ hèn nhát, tham lam ti tiện và độc ác đến mức đánh mất cả lòng tự trọng của mình. Khi phát hiện ra việc “làm ăn” cùng Tsencase là đi ăn cắp, Gavrila cho rằng đó là việc đáng nguyền rủa. Gã sợ sệt, lo lắng, “gã khóc thút thít, sụt sịt, ngọ ngoậy trên ghế nhưng vẫn chèo mạnh với vẻ tuyệt vọng” [ 8,186 ]. Đến lúc Tsencase lấy trộm hàng xong, trên đường về anh hỏi gã ” có muốn được tờ 200 rup không?” thì gã trả lời: “Tôi chẳng cần gì cả. Tôi chỉ mong được lên bờ” [ 8, 194]. Nhưng suốt đoạn đường về, trong đầu tên tham sống sợ chết này lúc nào cũng mưu tính nhiều thủ đoạn để lấy được số tiền mà Tsencase lấy cắp được. Gã nghĩ: “Ta sẽ phang cho hắn một nhát chèo…tiền thì ta chiếm lấy, còn hắn thì cho xuống biển” [ 8, 208 ]. Thật bỉ ổi hơn nữa là chỉ vì số tiền đó mà Gavrila sẵn sàng quỳ xuống, gục đầu vào gối và nghẹn ngào van xin Tsencase: “Anh ơi!…Anh cho tôi số tiền ấy! Vì chúa xin anh hãy cho tôi!” [ 8, 206 ]. Hành động của Gavrila đã đẩy gã từ giai cấp tư sản xuống “con người dưới đáy”. Gã trở thành tên nô lệ khúm núm của đồng tiền, tên tham lam, thấp kém và mất tự chủ. Còn Tsencase, một tên cướp, không vì tiền mà đánh mất nhân cách của mình. Trước hành động van vỉ hèn hạ của Gavrila, Tsenkasơ “thò tay vào túi, lấy ra những tờ giấy bạc, ném vào mặt gã…ném tiền xong, y cảm thấy mình là anh hùng” [ 8, 207]. Cho dù Gavrila đã có hành động bất lương đối với anh nhưng Tsencase vẫn sẵn sàng tha thứ cho hắn. Điều đó càng làm cho Tsencase vươn lên, cao thượng hơn.
Tuy là một tên lưu manh nhưng Tsencase vẫn là con người biết tự trọng. Anh cảm thấy mình bị tổn thương khi người khác xúc phạm đến thân phận nghèo khổ và danh dự của mình. Nhiều lần Gavrila cho anh là con người mờ ám thì “Tsencase cảm thấy như bị bỏng trong ngực và y hạ giọng, thốt lên với vẻ căm tức lạnh lùng…Y nhảy xuống đất, tay trái kéo ria mép, tay phải nắm lại thành từng nắm đấm rắn chắc, gân guốc, mắt long lên sòng sọc” [ 8, 177 ]. Tsencase rất đau đớn khi bị kẻ khác dẫm vào lòng tự ái của mình, và những lúc ấy ” y cảm thấy đau rát trong ngực. Cảm giác ấy làm y tức giận và bao giờ cũng xuất hiện khi lòng tự ái của y … bị kẻ khác làm tổn thương, đặc biệt khi kẻ đó là kẻ mà y coi là không đáng đếm xỉa đến” [ 8, 197-198 ]. Càng tức điên lên khi người ta chỉ xem mình là con người thừa trên trái đất: “Tsencase đứng thẳng, thân hình khô đét, dữ tợn, nhe răng ra coi đến độc ác, cười khanh khách, tiếng cười đầy vẻ châm chọc và ria mép y nhảy lên một cách nóng nảy trên khuôn mặt góc cạnh, dài hoắt. Cả đời chưa bao giờ y bị xúc phạm đau đớn đến thế và chưa bao giờ y hung tợn như thế” [ 8, 208 ].
Chi tiết “ria mép” của Tsencase (được nhắc lại 8 lần) biểu hiện cho khí phách ngang tàng đầy kiêu hãnh của y. Khi y đắc chí thì ” ria mép y rung rinh khoái trá và mắt rực lên như đốm lửa” [ 8, 202 ]. Khi y làm xong việc thì “mặt y đỏ, ria mép xoắn vểnh lên một cách ngang tàng” [ 8, 202 ]. Bộ ria mép đối với y là niềm kiêu hãnh. Vì thế dù bị thương nặng, đi lảo đảo nhưng y vẫn ” tay trái đỡ lấy đầu còn tay phải khẽ vuốt nhánh ria mép nâu“  [ 8, 212 ].
Trong truyện Người bạn đường của tôi, ta thấy dù sống trong cảnh nghèo khổ, nhưng tình người của những kẻ sống “dưới đáy” xã hội không bao giờ cạn. Họ sẵn sàng cứu giúp tên công tước Sakrô, khi hắn lang thang trôi dạt và đói rách. Chính hắn cũng nhận thấy rằng:”Bọn chân đất là những người rất tốt“         [ 8, 252 ].
Trong tâm hồn những “con người dưới đáy”, nghèo khổ và tội lỗi, là những phẩm chất rất đáng trân trọng. Họ trở nên độc ác, tội lỗi khi xã hội dồn họ vào chân tường. Và cuộc sống tối tăm, ngột ngạt trong xã hội đã mang lại cho họ những ý nghĩ độc ác. Họ cảm thấy bứt rứt, chật chội và tầm thường trong xã hội này. Họ đau đớn, quằn quại muốn tìm lối thoát cho mình nhưng họ bất lực và bế tắc. Tuy nhiên mọi sự vùng vẫy của họ đã chứng tỏ một điều là : Trong ý thức của quần chúng bị áp bức đang lớn dần lên sự phản kháng kiên quyết nhằm chống lại trật tự xã hội bất công, thối nát của bọn phong kiến  – tư bản Nga hoàng, đang bóp nghẹt quyền sống của con người. Đó là sự vươn dậy, sự “tái sinh” của những “con người dưới đáy” để khơi nguồn cho những tư tưởng phản kháng, đấu tranh sau này.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved