LÊ HỮU TẦNG (*)
Trong chừng mực nhất định, có thể nói, chính Hồ Chí Minh đã sử dụng cách tiếp cận ấy ngay từ giữa những năm 50 đến gần cuối những năm 60 của thế kỷ XX - quãng thời gian chúng ta triển khai mạnh mẽ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa khắp miền Bắc, làm thay đổi kết cấu xã hội cũ, thay đổi cung cách làm ăn, nếp sống của mọi người. Vì vậy, trong bất cứ cuộc tiếp xúc nào với công chúng, ở đâu mọi người cũng hỏi: “Chủ nghĩa xã hội là gì?”, “Làm thế nào để xây dựng được chủ nghĩa xã hội?”, v.v.. Trong những lúc như thế, Hồ Chí Minh bao giờ cũng ứng khẩu trả lời tại chỗ theo cách hiểu của riêng mình chứ không dựa vào văn bản, sách vở nào hết. Mà đã trả lời ứng khẩu tại chỗ hết sức ngắn gọn như thế thì nội dung câu trả lời bao giờ cũng là nói tới những cái cốt lõi nhất của sự vật còn được đọng lại trong nhận thức, nói tới cái bản chất của sự vật.
Chẳng hạn, khi trả lời câu hỏi “Chủ nghĩa xã hội là gì?”, Hồ Chí Minh chú ý trước hết đến phương diện kinh tế, phương diện đời sống: “chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân sung sướng, ấm no”(19). “Đảng ta đấu tranh để làm gì? Là muốn cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Mỗi một đảng viên đấu tranh để làm gì? Cũng để mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”(20), v.v.
“Nói một cách tóm tắt, mộc mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(21).
Song nhấn mạnh đến phương diện kinh tế, đến sự giàu có không có nghĩa là cứ có những điều ấy thì đã đủ để có chủ nghĩa xã hội. Tháng 7 năm 1956, trong buổi nói chuyện tại lớp hướng dẫn giáo viên cấp 2, cấp 3 và hội nghị sư phạm, Hồ Chí Minh hỏi:
“- Thế chủ nghĩa xã hội là gì?
(Một đồng chí mạnh bạo đứng lên nói: "Chủ nghĩa xã hội là những tư liệu sản xuất thuộc về nhân dân").
- Thế giữa người và người như thế nào?
(Đồng chí ấy chưa trả lời được. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị một đồng chí cùng đi với mình trả lời hộ và nhắc lại):
- Như vậy chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng, v.v. làm của chung. Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con...
Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(22).
Đoạn vừa dẫn rất đáng chú ý vì qua đó, ta thấy trong cách hiểu của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội không phải chỉ có sở hữu công cộng, chỉ có cuộc sống sung sướng. Ngoài phương diện kinh tế, chủ nghĩa xã hội còn có một phương diện rất quan trọng khác nữa, đó là phương diện xã hội - phương diện quan hệ giữa người và người. Quan hệ đó phải như thế nào? Quan hệ đó phải công bằng (thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động mà Hồ Chí Minh vừa nhắc tới: “Ai làm nhiều ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiên là trừ những người già cả, đau yếu và trẻ con”). Quan hệ đó phải như thế nào nữa? Phải là một xã hội không còn chế độ người bóc lột người, một xã hội dân chủ, tự do. Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người ở nước ta, nhằm đưa lại đời sống no ấm cho toàn dân ta” (người trích nhấn mạnh) (23); “Chúng ta tiến lên xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” (người trích nhấn mạnh) (24); nhân dân ta “kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường” (người trích nhấn mạnh) (25).
Những phát biểu trên đây của Hồ Chí Minh cho thấy, việc Người nhắc đi nhắc lại ở nhiều nơi cả hai phương diện kinh tế và xã hội trên đây khi nói về cái cốt lõi, cái tạo nên bản chất của chủ nghĩa cộng sản (mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội) không phải là một điều ngẫu nhiên.
Thực vậy, những phát biểu đó của Hồ Chí Minh cho thấy, trong quan niệm của Người, chủ nghĩa xã hội không chỉ đơn thuần là một xã hội trái với chủ nghĩa tư bản, mà trước hết phải là một xã hội vừa cao hơn vừa đẹp hơn chủ nghĩa tư bản trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, một xã hội mà ở đấy con người được sống vừa giàu có hơn, sung sướng hơn, vừa công bằng, dân chủ, tự do hơn so với trong chủ nghĩa tư bản. Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội phải có đồng thời cả hai đặc trưng: vừa có nền kinh tế phát triển cao hơn, đời sống nhân dân giàu có, sung sướng hơn, vừa có quan hệ giữa người và người tốt đẹp hơn, công bằng, dân chủ, tự do hơn so với trong chủ nghĩa tư bản.
Ngày nay, nếu tính đến những kinh nghiệm nhận thức và trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội gần một thế kỷ qua và nếu xuất phát từ quan niệm trên đây của Hồ Chí Minh về cái cốt lõi nhất của chủ nghĩa xã hội, chúng tôi nghĩ rằng, nên lấy các đặc trưng chất lượng của chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu quan trọng nhất để chúng ta phấn đấu và theo đuổi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác, mục tiêu mà chúng ta nhằm đạt đến, đó là phải xây dựng cho được một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, tự do và mọi hoạt động, mọi biện pháp, mọi phương thức mà chúng ta tiến hành để đạt được đồng thời, tuy dần dần, từng bước cả hai đặc trưng đó đều phải được sử dụng và phải được coi là đi đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ quan niệm ấy, chúng tôi muốn nêu một vài nhận xét so sánh Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII với quan niệm đã được sửa đổi, bổ sung về chủ nghĩa xã hội được nêu ra tại Đại hội X và Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011.
Trước hết, so với quan niệm về chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh, “Văn kiện Đại hội X” và “Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011” đã có 3 điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng, trong đó:
- Thứ nhất, cả hai Văn kiện kể trên đã đưa ngay vào phần mở đầu của quan niệm về chủ nghĩa xã hội đặc trưng bao trùm: “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” (người trích nhấn mạnh)(26). Đây là luận điểm khái quát, phản ánh cái cốt lõi của chủ nghĩa xã hội mà các đặc trưng còn lại được trình bày tiếp đó, về thực chất, chỉ là sự cụ thể hoá của đặc trưng bao trùm này mà thôi. So với Cương lĩnh, có thể coi đây là bước tiến của Đảng và nhân dân ta trên con đường nhận thức bản chất của chủ nghĩa xã hội.
- Thứ hai, Văn kiện Đại hội X cũng có điểm sửa đổi, bổ sung quan trọng nữa liên quan đến vấn đề xây dựng quan hệ sản xuất mới trong mối quan hệ với lực lượng sản xuất mới trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thay cho luận điểm được nêu trong Cương lĩnh: “Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu”(27) là luận điểm mới được ghi trong Văn kiện Đại hội X: “Có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”(28). Đây cũng là một sự sửa đổi, bổ sung quan trọng và rất cần thiết vì, thứ nhất, nó phù hợp với thực tiễn đổi mới ở nước ta từ Đại hội VI tới nay, và đồng thời cũng phù hợp với quy luật về mối quan hệ qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; thứ hai, nó có tác dụng “cởi trói” cho chúng ta, giúp chúng ta có thể thực sự “tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” như yêu cầu của Đại hội VI trong quá trình tiến hành công cuộc “cải tạo xã hội chủ nghĩa” nếu nói theo ngôn ngữ của thời kỳ trước đổi mới. Tiếc rằng Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 lại trở lại sử dụng nguyên văn cách diễn đạt của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII (năm 1991).
Thứ ba, Đại hội đã bổ sung thêm vào quan niệm về chủ nghĩa xã hội một đặc trưng quan trọng nữa, đó là “có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”.
Tuy nhiên, trong Văn kiện Đại hội X và Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 cũng có hai điểm sửa đổi rất quan trọng khác mà theo chúng tôi, rất nên được cân nhắc kỹ hơn, đó là: thay cho đặc trưng thứ tư của chủ nghĩa xã hội được nêu trong “Cương lĩnh” là “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công..., có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” (người trích nhấn mạnh)(29), Văn kiện Đại hội X ghi: “Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”(30). Ngoài cụm từ “bóc lột”, Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 lần này loại bỏ tiếp cụm từ “con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công”. Kết quả là qua hai Văn kiện, cụm từ “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công” đã bị loại bỏ khỏi đặc trưng thứ tư của chủ nghĩa xã hội được nêu trong Cương lĩnh. Nói cách khác, toàn bộ cụm từ ấy không còn là sự biểu hiện những đặc trưng, hơn thế nữa, những đặc trưng chất lượng quan trọng, góp phần tạo nên bản chất của chủ nghĩa xã hội! Trong khi đó, đây chính là những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh tâm huyết nhất, coi đó là mục tiêu quan trọng nhất mà các ông đã cống hiến suốt cả đời mình để theo đuổi.
Chúng tôi hiểu rằng, khi phải loại bỏ những đặc trưng rất quan trọng này, Đại hội X và Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã phải tính đến tình hình là nếu bây giờ chúng ta cứ tiếp tục khẳng định rằng chúng ta vẫn sẽ tiếp tục theo đuổi cuộc đấu tranh nhằm xoá bỏ bóc lột, bất công, kiên quyết thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động (chứ không phân phối theo mức vốn góp, chẳng hạn) thì trước mắt người dân sẽ nghĩ rằng chúng ta đang nói một đằng, làm một nẻo, tiếp theo, người ta sẽ ngần ngại bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh; nếu có làm thì cũng làm cầm chừng để “rút chạy” kịp thời khi cần thiết. Hậu quả của việc “kiên trì lập trường” ấy như thế nào không cần nói chúng ta cũng đã có thể hình dung được từ kinh nghiệm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội không chỉ trước năm 1986, mà cả trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới.(29)
Vậy nên làm thế nào?
Theo chúng tôi, dù thế nào chăng nữa thì cũng không nên bổ sung, phát triển Cương lĩnh bằng cách loại bỏ toàn bộ cụm từ quan trọng nói trên vì, thứ nhất, mục tiêu của chúng ta là giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công cũng không bao giờ thay đổi nếu chúng ta chấp nhận quan điểm về sự bóc lột tư bản chủ nghĩa theo học thuyết của C.Mác và nếu chúng ta vẫn lấy một trong những tư tưởng quan trọng của Hồ Chí Minh là “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải cải tạo xã hội cũ thành một xã hội mới, một xã hội không có chế độ người bóc lột người”(31) làm kim chỉ nam cho toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thêm nữa, trong khi Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 vẫn tiếp tục khẳng định: “Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột, bất công” (người trích nhấn mạnh) thì, theo chúng tôi, lại càng không nên loại bỏ nội dung trên đây. Sự xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công ấy là một trong những điểm cốt lõi trong lý luận về xã hội cộng sản tương lai của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thế nhưng trong thời kỳ trước đổi mới, chúng ta đã sai lầm khi muốn xoá bỏ mọi sự bóc lột ngay lập tức một cách chủ quan, duy ý chí như chúng ta đã làm. Còn bây giờ? Mục tiêu đó vẫn không thay đổi, nhưng trên con đường tiến tới chỗ xoá bỏ bóc lột hoàn toàn, chúng ta lại buộc phải chấp nhận sự bóc lột ở những mức độ nhất định tuỳ hoàn cảnh cụ thể, khi những quan hệ sản xuất trong đó có bóc lột vẫn còn có tác dụng tích cực tới sự phát triển của lực lượng sản xuất nhiều hơn là trong trường hợp thủ tiêu chúng. Trước đây, như mọi người đều biết, các tác gia kinh điển đã từng nói, chúng ta khổ vì chủ nghĩa tư bản, nhưng chúng ta cũng khổ vì không có chủ nghĩa tư bản. Ở đây cũng thế: chúng ta khổ vì bóc lột, nhưng chúng ta cũng khổ vì không có bóc lột bởi vì hiện nay ở ta sự bóc lột đó vẫn đang có tác dụng tích cực tới sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khẳng định điều đó hoàn toàn không có nghĩa là chúng ta từ bỏ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ bỏ cuộc đấu tranh để giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, mà chính là khẳng định một phương thức làm khác để đạt tới mục tiêu ấy hiện thực hơn và phù hợp hơn với các quy luật phát triển khách quan của sự vật chứ không phải chủ quan, duy ý chí, và do đó, không tưởng như trước.
Với mục tiêu công bằng, bình đẳng xã hội cũng thế.
Xoá bỏ mọi bất công, mọi bất bình đẳng xã hội là một trong những mục tiêu của chúng ta, những người cộng sản. Mục tiêu đó cũng không thay đổi. Nhưng sai lầm của chúng ta trước đây chính là ở chỗ, chúng ta muốn thực hiện bình đẳng xã hội hoàn toàn ngay lập tức, bằng một phương thức phân phối về thực chất là bình quân. Với cách làm đó, chúng ta tưởng rằng đã đặt được mọi người vào vị trí ngang nhau, bình đẳng với nhau trong xã hội. Song, chúng ta đã lầm vì, thứ nhất, bằng phương thức phân phối đó, chúng ta đã triệt tiêu mất động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội; thứ hai, như C.Mác đã từng phân tích rất rõ trong Phê phán Cương lĩnh Gôta, ngay trong chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể có sự bình đẳng xã hội hoàn toàn chứ đừng nói đến trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo C.Mác, trong chủ nghĩa xã hội, chúng ta mới chỉ có thể đạt đến công bằng xã hội - một mức độ cụ thể của bình đẳng xã hội, - và sự công bằng xã hội đó được thể hiện ở chỗ “cống hiến lao động ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau”, tức là ở trong nguyên tắc phân phối theo lao động. Tuy nhiên, C.Mác cũng đã chỉ rõ, việc thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng ấy chẳng những chưa loại trừ được, mà vẫn còn hàm chứa trong nó sự chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng nhất định giữa các thành viên trong xã hội, vì “với một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia, v.v.”(32). Đó vừa là ưu việt, vừa là thiếu sót của nguyên tắc phân phối theo lao động - một thiếu sót, theo C.Mác, là không thể tránh khỏi trong chủ nghĩa xã hội - giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Như vậy, nếu trong chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã có thể đạt tới trình độ phát triển khiến có thể thực hiện được công bằng xã hội, xoá bỏ mọi bất công, nhưng vẫn còn phải chấp nhận sự bất bình đẳng ở mức độ nhất định, thì thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội cũng là thời kỳ chúng ta ngày càng tiến dần tới chỗ thực sự thực hiện được công bằng xã hội, nhưng chưa phải là bình đẳng xã hội nói chung, lại càng chưa phải là bình đẳng xã hội hoàn toàn. Sự bình đẳng hoàn toàn này chỉ có được qua một quá trình đấu tranh rất lâu dài để xoá bỏ dần dần mọi sự bất bình đẳng, chứ chưa thể xoá bỏ ngay lập tức. Nói cách khác, trên con đường tiến tới thủ tiêu hoàn toàn mọi sự bất bình đẳng, chúng ta lại buộc phải chấp nhận sự bất bình đẳng ở những mức độ nhất định. Khẳng định điều đó hoàn toàn không có nghĩa là chúng ta từ bỏ cuộc đấu tranh vì sự bình đẳng hoàn toàn giữa người và người, mà ngược lại, chính là nhằm thực sự đạt đến mục tiêu ấy bằng những con đường hiện thực hơn.
3. Về mục đích cuối cùng của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sự không nhất quán khi nêu số lượng và nội dung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở các tác giả khác nhau từ giữa thế kỷ XIX đến nay cùng với sự bổ sung, phát triển Cương lĩnh như Đại hội X và Dự thảo bổ sung, phát triển Cương lĩnh năm 2011 đã và đang làm trên đây cho chúng ta thấy rõ hơn nhược điểm của cách tiếp cận theo các đặc trưng được dự báo của chủ nghĩa xã hội, cụ thể là:
- Thứ nhất, như đã nói trên, số lượng và nội dung các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu ra ở các tác giả khác nhau, kể cả ở các tác gia kinh điển, không phải khi nào cũng trùng nhau. Trong không ít trường hợp, chúng có sự khác nhau, thậm chí khá khác nhau;(32)
- Thứ hai, trong số các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được nêu ra từ sau khi V.I.Lênin qua đời đến nay, có một số không phải là sự suy rộng kết quả tác động của các quy luật vận động và phát triển khách quan của chủ nghĩa tư bản sang miền xã hội lân cận xuất hiện sau chủ nghĩa tư bản như C.Mác, Ph.Ănghen, V.I.Lênin đã làm, mà chỉ là những ước vọng chủ quan của những người đề xuất;
- Thứ ba, và đây là điều quan trọng, vì đã khẳng định các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội là thế này hoặc thế kia, thì trong hoạt động thực tiễn, để có chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã buộc phải căn cứ vào từng đặc trưng (mới tồn tại ở dạng dự báo ấy) để đề ra chủ trương hành động tương ứng nhằm hiện thực hóa từng đặc trưng một, và qua đó hiện thực hóa tất cả các đặc trưng ấy, bất kể điều kiện khách quan có cho phép hay không và do đó, cũng bất kể hậu quả của việc hiện thực hóa ấy có tác động tích cực hay tiêu cực thế nào tới sự phát triển kinh tế - xã hội;
- Thứ tư, một khi các đặc trưng đã được nêu ra, nhất là được nêu ra trong các văn kiện chính thức, thì trong hoạt động thực tiễn, dù có phát hiện ra các hậu quả tiêu cực, chúng ta cũng không dám thay đổi nữa, mà cứ cố hiện thực hóa chúng theo các chủ trương hành động đã được quyết định, không dám làm khác. Trong trường hợp buộc phải làm khác thì chúng ta cũng buộc phải thay đổi điểm này hoặc điểm kia trong nội dung của đặc trưng này hay đặc trưng khác đã được nêu của chủ nghĩa xã hội. Sự thay đổi đó có khi là hợp lý, nhưng cũng có khi là không hợp lý như đã phân tích ở trên.
Vậy nên làm thế nào?
Theo chúng tôi, chính cách tiếp cận từ góc độ bản chất của chủ nghĩa xã hội giúp chúng ta vượt qua khó khăn ấy, khắc phục được những nhược điểm vừa nói của cách tiếp cận theo các đặc trưng được dự báo của CNXH.
Thực vậy, khác với cách tiếp cận trước đây, cách tiếp cận từ góc độ bản chất của chủ nghĩa xã hội không nhắm vào các đặc trưng rất cụ thể, phong phú của chủ nghĩa xã hội, mà nhắm vào hai đặc trưng cơ bản (về kinh tế và xã hội) tạo nên bản chất của chủ nghĩa xã hội là “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, tự do” làm đích hướng tới.
Khi nào có thể đạt tới cái đích ấy? Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội gần một thế kỷ qua cho thấy, đây là một quá trình rất lâu dài, trải qua nhiều chặng đường với thời gian không phải là hàng chục, mà nhiều chục, thậm chí hàng trăm năm. Trong hàng chục, thậm chí hàng trăm năm đó, tình hình thực tế luôn luôn biến động, đổi thay, trong đó chắc chắn có những biến động mà chúng ta không thể lường trước được hết, nhất là những biến động trong tương lai xa. Tình hình đó buộc chúng ta phải luôn luôn tính đến những biến động ấy để sửa đổi một cách kịp thời những chủ trương, biện pháp hành động, miễn sao các chủ trương, biện pháp hành động cụ thể đó đều nhằm thực hiện cho được đồng thời, tuy từng bước, cả hai đặc trưng biểu hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội như đã nói trên. Nói cách khác, cách tiếp cận bản chất không trói buộc chúng ta vào những chủ trương, biện pháp cụ thể được đề xuất trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định, mà chỉ đòi hỏi chúng ta bám chắc vào mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, tự do” để quyết định hành động, còn những chủ trương, biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu ấy cần rất linh hoạt. Ở đây, hơn lúc nào hết, cần thực hiện đúng bài học thứ hai mà Đại hội VI đã nêu ra, đó là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”. Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan thông qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phỏng theo cách diễn đạt của Văn kiện Đại hội VI, là sản xuất phải phát triển, dân phải ngày càng giàu, nước phải ngày càng mạnh, xã hội phải ngày càng công bằng, dân chủ, tự do hơn. Mọi chủ trương, chính sách gây tác động ngược lại đều phải được sửa đổi hoặc bãi bỏ.
Vậy “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, tự do” chính là cái đích mà chúng ta phải bám chắc để tiến tới, để hiện thực hóa cho được.
Về thực chất, cái đích ấy đã được Hồ Chí Minh chỉ ra từ cách đây non nửa thế kỷ. Ngày 01/12/1961, tại Đại hội Đảng bộ Hà Nội, Hồ Chí Minh nói:
“Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì?
Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” (người trích nhấn mạnh) (33).
Hơn 30 năm sau, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1/1994) đã cụ thể hóa thêm quan điểm ấy của Hồ Chí Minh khi khẳng định:
“Có ý kiến cho rằng hình thức sở hữu là phương tiện, không nên coi là mục tiêu. Chỉ có tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân mới là mục tiêu. Cần có nhận thức đầy đủ hơn và thống nhất hơn về vấn đề này.
Đúng là phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh mới là mục đích cuối cùng” (người trích nhấn mạnh)(34) của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng coi đây là mục tiêu, nhưng không xem đó là một mục tiêu bình thường, mà là mục tiêu chung của toàn dân tộc:
“Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung (người trích nhấn mạnh) là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(35).
Đặc biệt, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của khái niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường của nước ta” - một vấn đề đã được thảo luận rất nhiều trong suốt 20 năm đổi mới(36).
Từ những nội dung cơ bản của “định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” được nêu trong văn kiện Đại hội X, có thể thấy, việc thực hiện đầy đủ những nội dung cơ bản ấy cũng chính là nhằm thực hiện nội dung cơ bản của mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (mặc dầu việc thực hiện mục tiêu “văn minh” ở đây chưa được thể hiện rõ có lẽ do những khó khăn nhất định, và vì vậy, chúng tôi đã kiến nghị nên tính tới việc thay thành tố văn minh bằng thành tố tự do(37)).
Những điều trình bày trên đây cho thấy, “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh (hoặc tự do)” tuy chỉ là hai trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội, nhưng khác với các đặc trưng khác, chúng là những đặc trưng chất lượng cơ bản nhất, cốt lõi nhất, là biểu hiện tập trung bản chất của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Chính vì thế, chúng là mục tiêu, hơn thế nữa, là mục tiêu chung của toàn dân tộc, mục tiêu cuối cùng mà sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội phấn đấu đạt tới. Đạt được mục tiêu cuối cùng hay mục tiêu chung ấy cũng có nghĩa là đã xây dựng thành công một xã hội vừa cao hơn, vừa đẹp hơn chủ nghĩa tư bản, chứ không phải phải hiện thực hoá được tất cả các đặc trưng được dự báo trong các quan niệm khác nhau về chủ nghĩa xã hội mới có thể được coi là đã xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. q
(1) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.456-480, 595 – 628.
(3) Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.33, tr.117.
(4) Xem: V.I.Lênin. Sđd., t.38, tr.525; 519.
(5) Xem: C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.19. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.333; t.4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.628; t.20. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,