Có các ý kiến cho rằng tổ các vua Trần là người Hán đi từ Nam Trung Quốc, nên các triều thần Trần có khuynh hướng dung hòa và thần phục với thiên triều. Điển hình là ngay cả trong lúc đất nước đang đối đầu với các cuộc xâm lăng của nhà Nguyên Mông Cổ, một số tôn thất nhà Trần đã khuyên vua nên qui hàng với khẩu hiệu "nhập Tống". Nhà Trần đã chia ra hai, một số theo Trần Ích Tắc về cố hương trong khi đa số còn lại trung thành với vua chiến đấu chống ngoại xâm.
Ý kiến này dựa vào một đoạn của chính sử về tổ tiên họ Trần.
Theo "Đại Việt Sử Ký toàn thư", (Quyển 5, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993) nói về Thái Tông Hoàng Đế :
"...Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần..."
Như vậy có phải tổ 3 đời của vua Trần là người Hán Hoa hay không? Có nhiều dữ kiện cho thấy rằng không phải vậy. Bài này có mục đích chứng tỏ rằng họ Trần từ đất Mân không phải thuộc dòng văn hoá Hán Hoa.
Chúng ta đã biết rằng dưới đời Trần phong tục xâm hình (nhất là rồng) rất phổ biến mà sứ giả Tống Nguyên, khi đến Việt Nam đã ghi lại và gọi là "Thái Long". Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã từng khuyên răn vua và con cháu rằng: "Nhà ta vốn là dân hạ bạn ưa chuộng việc hùng dũng, thường thích hình rồng vào đùi để tỏ mình không quên gốc". Tục xâm mình không bao giờ có ở văn hoá Hán Hoa.
Để bảo vệ cho triều đại Trần ban đầu khỏi bị lung lay, tôn thất nhà Trần đã không ngần ngại lấy nhau trong họ hàng. Đây là một điều mà văn hóa Hán Hoa cấm kỵ.
Nhà Trần có nguồn gốc là dân chài lưới đi từ đất Mân (hay có người nói là từ Quế Lâm) đã đến vùng bờ biển Bắc Việt định cư. Đất Mân có địa thế ở vùng biển Nam Trung Quốc dọc từ Phúc Kiến đến Quảng Đông. Vậy thì những người ở xứ Mân là những người có nguồn gốc như thế nào.
Bây giờ nói đến chuyện Hán hoá ở miền Nam Trung Hoa. Tôi có một chút ý kiến về mức độ Hán hóa trong thế kỷ 13. Theo tôi mức Hán hóa trong giai đoạn này không sâu rộng nhất là ở miền quê hẻo lánh hoặc ở miền núi và vùng biển của các làng chài dọc bờ biển.
Như ta đã biết Vương quốc Nam Chiếu (Nan Chao) ở miền Nam Trung Hoa (Vân Nam) tồn tại cho đến khi nhà Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Sự di dân của người Nam Chiếu ở thế kỷ 13 dẫn đến sự thành lập của các vương quốc Thái: Sukhothai, Ayuthaya và ngày nay Thái Lan. Đến bây giờ ngay cả đi đến miền Nam Trung Quốc giáp giới Việt Nam, ta vẫn còn thấy nhiều dân tộc chưa bị Hán hoá. Ngay cả đến Côn Minh, phong thái của dân vùng này còn đượm nét Nam Á. Ta cũng không quên nhắc lại là đảo Đài Loan (hay Formosa) đã được định cư từ lâu đời bởi những người Polynesian thổ dân. Chỉ đến thế kỷ 17 khi nhà Minh mất thì số lượng người Hán di dân và lập nghiệp mới đến đông đảo, chiếm đa số và đẩy người Hà Lan ra khỏi đảo. Hà Lan từ lúc trước đã muốn lập một thuộc địa ở đảo Formosa và dùng nơi đó làm trạm buôn bán với các nước Nhật, Đại Hàn và Trung Quốc. Họ đã đánh và đẩy người bản xứ vào sâu trong rừng núi hải đảo.
Về nguồn gốc họ Trần, tôi trích đây một đoạn ngắn từ bài "Sông Châu, Núi Đọi, Họ Trần và những quan hệ với cụ Kép Trà" (Trần Quốc Vượng, trong "Theo dòng lịch sử") :
"...Ai cũng biết: Họ Trần gốc dân chài miệt biển, trải dài từ Phúc Kiến đến tận Xingapo, có cội nguồn Malai cổ (Indonesian), theo một hệ thống thân tộc khác với chế độ cửu tộc của người Hoa mà sau này các họ người Việt cũng áp dụng, anh em gọi là "con chú con bác ruột" thuộc diện "hôn nhân ưu tiên", mà giới nho sĩ Hoa hoá sau này gọi là "loạn luân". Họ đã dần dà ngược sông lên làm ruộng lúa nước ở các vùng ô trũng, tập trung nhất là ở Sơn Nam Hạ (Thái Bình - Nam Định cũ) và ở Quảng Ninh (Yên Tử - Đông Triều) rồi tản mát đi các nơi..."
Từ các kiến trúc đời Trần, đời sống văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ về sông biển mà họ Trần có nguồn gốc Việt cổ dùng cùng với các địa danh vẫn còn lưu lại, cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Chàm vào văn hoá Việt... ta có thể đặt câu hỏi : Phải chăng họ Trần có nguồn gốc Việt cổ mà các dấu vết để lại đã cho phép và gợi cho ta câu trả lời xác định ?
Một vài phương chính về tâm thức, xã hội học, văn hóa học... bổ túc thêm về nguồn gốc họ Trần và thời đại Trần nói chung sẽ được phân tích sau đây.
(1) Tâm linh văn hóa dưới đời Trần
Người dân Việt miền biển Bắc phần mà họ nhà Trần tập trung từ Nam Định, Hải Dương lan vào nội địa có văn hoá sông nước gắn liền với văn hóa vùng cao tạo thành một bản sắc của văn hóa Việt Nam. Bản chất sông nước của họ Trần được thể hiện sau đây (trích Trần Quốc Vượng, "Xứ đông Hải Hưng nhìn từ Kẻ Chợ", trong sách "Theo dòng lịch sử"):
"... xứ Nam có Chử Đồng Tử rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải đại vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc đường 5 xuống tận Hải Phòng.
Thần (Đông Hải) là ai?
Ai biết đi điền dã dân tộc-sử (Ethno-historic) thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đấy là những đền thờ CÁ-ÔNG-VOI của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang đời Trần, thì thần Đông Hải Hải Đông đã được nhân cách hóa và hóa thân vào một nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, người đã cùng tướng quân Hoài Đạo Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm nghiêng ngửa lịch sử cuối Lý đầu Trần. Để cuối cùng, vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ Nam."
Họ Trần trở thành hoàng tộc, nở rộ từ xứ Nam - Thiên Trường rồi lan tỏa sang cả lộ Hải Đông và cả nước, với "cái nhìn về biển" rộng rãi hơn. Chính nhà Trần đã chia miền Biển Đại Việt khi ấy thành 2 khu vực quản lý: HẢI ĐÔNG từ cửa Đáy đến giáp (châu) Khâm Liêm, Quảng Đông, HẢI TÂY chạy dọc dài ven biển Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình-Trị-Thiên..." Gốc nhà Trần vì thế là thế giới sông nước và biển.
Nếu bây giờ chúng ta so sánh việc lập nghiệp của họ Trần với lập nghiệp của họ Mạc Cửu ở Hà Tiên Trấn sau này, ta sẽ thấy những sự khác biệt to lớn. Nếu viếng Hà Tiên và xem đền thờ hoặc chùa chiền của họ Mạc, ta sẽ thấy kiến trúc và thần linh đều là của Hán và ảnh hưởng Hán rất mạnh. Trái lại chúng ta không thấy những dấu vết này ở các kiến trúc đời Trần.
Đền thờ và kiến trúc của họ Trần ở Thiên Trường, Yên Tử hoặc các nơi khác như Thăng Long thì rõ ràng là mang nặng tâm thần Đại Việt. Đặc biệt ở quê hương họ Trần, có nhiều đền thờ thủy thần. Vùng Hà Nam Ninh cũng là nơi khám phá nhiều thuyền mộ (một nghi thức tiêu biểu của cư dân sông nước Đông Nam Á). Có thể nói nơi này là nơi các làn sóng cư dân hải đảo từ nhiều nơi đi đến, kể cả họ Trần. Những đoàn ngư dân tổ họ Trần làm vua, nếu là Hán Hoa đến đây bằng thuyền thì sẽ cảm thấy lạc lõng trong một môi trường văn hóa xa lạ (Xem thêm Hà Văn Tấn: "Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội nguồn của văn hóa dân gian", Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3, p.9-12. Phạm Quốc Quân: "Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh", Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981)
Sự thờ thuỷ thần là một nét đặc biệt ở vùng này như thờ Quảng Bá đại vương và Mẫu thuỷ thần cùng 5 con trai của thủy thần như ở đền Thánh Cả, Thánh Hai, Thánh Ba, Thánh Tư và đền Thánh Ngũ.
Theo Trần Quốc Vượng, ở các vùng văn hóa Champa cũng có cơ cấu gắn với các dòng sông miền Trung và lên mô hình qui hoạch "tiểu quốc" Chăm cổ lấy dòng sông là trục chủ đạo (generator) như ở cơ cấu Hà Nam Ninh thời Trần (xem TQV "Sông Châu-Núi Đọi-Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà" trong sách "Theo dòng lịch sử").
Cũng không lạ gì, khi những từ Việt Nam như: sông ngòi, cá, cù lao... là những từ gốc Malayo-Polynesian mà người Việt, Chàm, Mã Lai và gốc Malaya-Indonesian ở Đài Loan... (xin mở ngoặc đây là từ cá, một món ăn không thể thiếu được của cư dân đảo và nước, như Họ Trần nhà ta, là từ gốc cho nhiều dân tộc trên).
"Theo Từ nguyên học dân gian kiểu "đền Gàn" ở Thanh Trì là ông thánh này có tính gàn. Kỳ thực, theo văn bia còn lại ở đền đời Lê và theo Lĩnh Nam Chích Quái đền có tên là "Xá Càn" và thần là con của Thuỷ Thần. Xá Càn, cũng như Càn, Gàn (K-G về ngữ âm, kiểu Cấu, Cáo của phương ngữ Thanh Hóa và Mường) đều có gốc Malayo-Polynesian là CÁ. Tiếng Nhật: Xa-kan = cá, tiếng Chàm Kan=Cá)" (TQV "Mấy nét tóm tắt về làng Giẽ Hạ - Xã Thịnh Phúc và Phủ Từ họ Đặng ở xã nhà" trong "Theo dòng lịch sử").
Cũng vậy các loại cửa biển mang tên Cờn - Càn ở Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình-Tri-Thiên đều mang ý nghĩ đó theo gốc Mã Lai cổ. Ông tổ các họ Trần đi thuyền đến định cư vùng này sẽ tìm thấy một môi trường quen thuộc và dễ chịu chứ không phải là một môi trường văn hóa xa lạ
(2) Giao lưu văn hóa Việt-Chàm dưới đời Trần
Phần trên tôi trình bày vài nét về tính chất Việt cổ trong tâm thức thời Trần. Đây là sự kế tục từ đời Lý qua nhiều triều đại mà sự thể hiện rõ rệt và nổi bật nhất là dưới triều vua Trần Nhân Tông.
Trong phần này tôi trình bày về những ảnh hưởng và giao lưu văn hóa Chàm-Việt dưới thời Trần. Sự giao lưu này là kết quả của những cộng hưởng tâm thức và văn hoá cội nguồn cổ của 2 dân tộc cùng nguồn mà ở đời Trần là tiêu biểu của tính chất Việt gắn liền với đặc tính Đông Nam Á.
Vì nói về vấn đề giao lưu cộng hưởng tâm thức Chàm Việt, tôi sẽ chú trọng nhiều về viễn tượng văn hoá (cultural perspective) hơn là viễn tượng chính trị (political perpective).
Về phương diện ngoại giao và chính trị, trong thời điểm dưới nhà Trần, Champa ở vào thế nguy kịch của lịch sử mình ở Đông Nam Á. Chiến tranh với Mông Cổ, Khmer và sau này Đại Việt chưa kể trước đó với Java.
Để mở đầu, tôi xin trích một vài đoạn trong bài của GS Cao Xuân Phổ trong một hội nghị về sử học Đông Nam Á (5):
“...
Lúc bấy giờ, cư dân Đông Nam Á lần lần cư ngụ trên các đồng bằng và vùng trung du dọc theo các sông lớn như Mekong, Menam, Salween, Irrawady, Hồng, Mã ... (và các phụ lưu) và chính những con sông này, như những đường chỉ trong sâu chuỗi, nối những cư dân với nhau. Biển Nam Hải, với những dòng biển gió mùa thổi trong những khu đã được thiết lập, nối những cư dân vùng biển trên lục địa, kể cả dân hải đảo lẫn nhau. Sông, và biển ở Đông Nam Á, không những là những thành phần cá tính đóng góp vào lối sống Đông Nam Á, mà còn là sợi dây liên kết dân cư ở lục địa và hải đảo. Vì thế ngay cả trước khi văn hoá Ấn độ vào Trung Quốc, Đông Nam Á đã có một cá tính riêng biệt và thành đạt. “
“Khi mà dân ở vùng phía Nam bán đảo ấn Hoa và ỏ các hải đảo tiếp nhận các thành phần của văn hoá Ấn độ và lần lần thiết lập tổ chức xã hội của họ (Xây Dựng), thì những cư dân phía Bắc ở bán đảo, nhất là các bộ tộc Việt, phải chống lại sự Hoa hoá (Bảo tồn) khi bắt buộc phải tiếp nhận văn hoá Trung Quốc...”
“Các người Việt, dưới triều đại Lý và Trần, trên đường thiết lập quốc gia, có để ý đặc biệt về biển. Ta nên nhớ rằng từ thời đại Đông Sơn, họ đã kết hợp ba thành phần văn hoá: đồng bằng, biển và núi trong một cơ cấu thành đạt, mặc dầu vẫn còn thô sơ. Cơ cấu này sau đó đã bị phá mất dưới sự thống trị cả ngàn năm của Trung Quốc. Và bây giờ nước Việt đang hội nhập vào đại gia đình Đông Nam Á. Rất là tự nhiên rằng sau giải phóng và trở lại với các dân tộc khác ở Đông Nam Á, người Việt tiếp nhận từ các dân tộc ấy những thành tựu văn hoá để tăng thêm vị thế của mình dù đây chỉ là việc trong gia đình các dân tộc. Trong sự tiếp nhận này, không có sự chống đối thù nghịch. Thật là kỳ diệu khi con chim thần Garuda đã nằm ở các bệ đá chùa của các triều đại Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14). Các tượng người gác khổng lồ ở chùa Phật Tích (vết tích đời Lý - thế kỷ 11) rất giống các tượng thần dvarapalas ở Đồng Dương (Champa), hay các trống Java treo trước ngực của chim thần Kinnaris dưới đời Lý. Và phật giáo dưới triều Lý rất hãnh diện với phái “Thảo Đường” tạo lập bởi vị sư cùng tên đã sống ở Chàm".
Quả vậy, ngoài hình tượng rồng phổ biến trên nóc các đền, chùa..., khi ta đến chùa Ngọc Đình (Hà Sơn Bình) sẽ thấy ở vị trí trụ cột trên bốn góc của nhiều bệ đá, hình dáng những con Garuda mình người đầu chim. Những hoa mỹ trên bức chạm gỗ con Kinnari, mình chim đầu người, ở chùa Thái Lạc (Hải Hưng) dâng hoa tấu nhạc với những nhân vật trung tâm là vũ nữ, là nhạc công.
Kiến trúc, hoa văn, điêu khắc, tượng trong nghệ thuật Trần có phẩm chất dân gian. Phong cách ấy chuộng những hình khối và đường nét mập và khoẻ. Cái mập và khoẻ ở đây được thể hiện trong những khối căng và lẳn, những đường thanh và mạnh, với một cấu trúc hình khối tinh lọc và giản dị, khiến cho tất cả những tượng này nói chung đều vững chãi mà không nặng nề, ung dung, đường bệ mà không tĩnh. (Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1977).
Phong cách này hoàn toàn hoà hợp với hình thể phong cách Champa trong những kiến trúc Chàm sau khi gạt lọc đi những biểu tượng Ấn hoá.
Champa vi thế trong đời Lý-Trần trở thành như trạm chuyển -gạch nối giữa Đaị Việt và cộng đồng các dân tộc vùng Đông Nam Á. Ảnh hưởng và giao lưu của văn hoá Chàm vào một đất Việt có tính cách đón nhận hay bổ sung chứ không miễn cưỡng như văn hóa Hán. Để hiểu rõ thêm về luồng nhận trên, ta hãy xem xét một vài khía cạnh văn hoá và con người dưới thời Trần.
Trần Quốc Vượng trong bài "Bắc Thái - Anh là ai" trong ’Theo dòng lịch sử" có đề cập đến giao thoa văn hoá như sau:
"...
Không thể hiểu được Bắc Ninh văn hiến nếu không cắt nghĩa nó là một hiệu quả giao thoa, giao hoà văn hoá Việt, Hán, Ấn, Chàm... trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ đại đến Lý-Trần.. Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Dà La (tỳ khưu A Xa Lê tức Thầy Đen, Ấn Độ), Ti Ni Đa Luư Chi, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh-nghệ sĩ Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng... thì cũng khó mà có một truyền thống văn hiến Kinh Bắc của thời tự chủ như ta hiện thấy. Đằng sau một Nguyễn Nộn cư sĩ Phù Đổng, là một nguời Chàm Phan Ma Lôi "giỏi cuỡi ngựa" như Ngôn Thông, Đa Bảo và thiếu cộng đồng Chàm nơi đó thì không thể có Phù Đổng Thiên Vương, huyền tích Gióng và Hội Gióng hôm nay.. Tôi cũng có thể nói như vậy về pho tượng Phật bằng đá và những điêu khắc đá tuyệt vời ở chùa Phật Tích: Đấy là nghệ thuật Việt, cái đẹp Đại Việt đã biết hội nhập nhiều yếu tố ngoại sinh Hán, Đường, Champa."
Nếu chia văn hóa làm hai loại văn hóa dân gian và văn hoá bác học, thì giao lưu Chàm-Việt đạt nhiều trong lãnh vực dân gian trong khi đó giao thoa Hán-Việt ở vào lãnh vực bác học. Tuy vậy tính chất dân gian cũng không thiếu tính chất bác học trong nền văn minh Đại Việt.
Trở lại Trần Quốc Vượng:
"...
Quan họ là âm nhạc dân gian Kinh Bắc nhưng các nhà nhạc học Trần Văn Khê, Thanh Bảo mách tôi rằng giới nhạc học Nga và Tây Âu nói với hai vị ấy rằng Quan họ có rất nhiều chất bác học về điệu thức và giai điệu. Ta nên nhớ âm nhạc Champa đã được Nhạc Phủ đời Đường sưu tập và nghiên cứu. Lý Nhân Tông trở thành nhạc sĩ là do biết "hoà Đường Phạn nhị âm". Quan họ hình thành, có nghệ sĩ âm nhạc Chàm góp công, góp sức..."
Cũng theo An Nam Chí Lược, ở Thăng Long đời Trần, về nhạc thì có trống cơm (tên chữ Hán là "Phạn cổ") gốc ở Chiêm Thành truyền qua Việt Nam. Hình trống tròn dài, nghiền cơm đắp vào giữa mặt trống rồi dánh, tiếng ra trong trẻo, rõ ràng. Trống ấy hòa với tất tiêu (tiêu), tiểu quản (sáo), tiểu bạt (não bạt), đại cốc (mõ to) gọi là đại nhạc.
("Hà Nội nghìn xưa", Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, 1975)
Về sinh hoạt ở kinh thành Thăng Long dưới đời Trần, sứ giả nhà Nguyên Trần Phu lưu lại 52 ngày năm 1293, đã tả chi tiết qua bài An Nam Tức sự. Vua quan nhà Trần thường đi võng hay kiệu. Võng cánh dùng một mảnh vải dài hơn một trượng lấy 2 dóng gỗ tròn dài 5 tấc, treo 2 đầu tấm vải vào hai dóng gỗ nhờ một sợi dây thừng, rồi lại lấy một đòn tre to xỏ qua 2 dây thừng ấy, hai người khiêng hai đầu đòn. Cáng thời ấy gọi là "Đề Nha", một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Vua dùng kiệu hồng, tán đỏ, tám người khiêng. Khi đi voi thì trên lưng voi bày đủ yên cương bành ngồi, gọi là "la nga", cũng một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Sứ nhà Nguyên Trương Lập Đạo, năm 1291 có kể trong bài "Hành Lục" về vua Trần Nhân Tông ở kinh thành Thăng Long. Vua tiếp sứ và đọc chiếu xong, xuống điện Tập Hiền đãi yến. Trên bàn tiệc, bày la liệt các bát món ăn, thịt cá, hải sản và hoa quả quý lạ. Vua Trần ung dung ngồi nhai trầu, trầu têm, cau bổ và vôi hàu, có đưa mời sứ giả.
Về phương diện tâm linh, Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần với sự ủng hộ của giới quý tộc Trần và coi như là quốc giáo. Ngoài những thiền tăng từ nhà Nguyên Trung Hoa, còn có nhiều nhà sư Ấn Độ, Trung Á có khuynh hướng Mật giáo đến Việt Nam, như nhà sư Du Chi Bà Lam đến hai lần vào thời Nhân Tông và Anh Tông, nhà sư Bồ Đề Thất Lý (Bodhisri) đến thời Minh Tông. Trúc Lâm đệ nhị tổ, được thượng hoàng Nhân Tông sai đi tìm nhà sư Ấn có tên là Ban Đề Đa Ô Tra Thất Lợi (Panditausasri ?). (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991).
Phật giáo phát triển lan rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hoà hợp với một tâm linh bản địa Việt tạo lên một kiến trúc văn hoá hài hòa với văn hoá phương Nam. Văn hoá đời Trần là biểu hiện sự nhập chung của hai tâm linh này. Cũng vậy, sự suy thoái của Phật giaó và sự thắng thế của Nho giáo bắt đầu từ thế kỷ 14 do tầng lớp ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ là quí tộc Trần đã mất dần uy lực chính trị và kinh tế. Ở cuối nhà Trần và đầu nhà Hồ, thời kỳ huy hoàng của Phật giáo mới chấm dứt.
"Chế độ sở hữu ruộng đất lớn điền trang thái ấp bắt đầu tan rã. Các quan lại xuất thân nho học "bạch diện thư sinh", đại diện cho tầng lớp địa chủ nhỏ, bắt đầu nắm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Nho giáo với chế độ khoa cử dần dần thắng thế. Nhiều nhà nho như Trương Hán Siêu, Lê Quát bắt đầu lớn tiếng công kích Phật giáo"
Trong số những nhân vật tiêu biểu của đời Trần, ta sẽ nhận thấy có một vài nhân vật thông hiểu tiếng Chàm như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật (xem Phan Huy Chú - Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Nhân Vật Chí). Trần Nhật Duật không những giỏi tiếng Chàm và các ngôn ngữ hải đảo như Sách Mã Tích (gần Java ngày nay) mà còn biết các ngôn ngữ dân tộc miền núi và tiếng Tống nữa. Ông cũng thường cỡi voi đến thôn Đađa-li (sau gọi trệch là thôn Bà Già) nơi có nhiều người Chàm tù binh định cư gần Thăng Long để nói chuyện và ca hát suốt ngày.
Thời Nhân Tông, sứ giả nước Sách Mã Tích sang cống, không tìm đâu được người phiên dịch. Cả Thăng Long, chỉ một mình Trần Nhật Duật dịch được.
Nếu ta còn kể thêm là Trần Nhật Duật có vợ người Thanh Hoá, một vùng là cửa ngõ giao lưu văn hoá 2 nước. Cơ sở hậu duệ của Trần Nhật Duật sau này là ở vùng này. (TQV có nói thêm là trong bài của Quatrich Wales "The Dong Son genius and the evolution of Cham Art", Journal of Royal Asiatic Society, 1949 đề cập về văn hóa bản địa Chàm là di sản của văn hóa Đông Sơn, đó là chưa nói đến sự giao lưu giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn).
Ta cũng biết thêm rằng người Chàm không những định cư ở Thanh Hóa hay gần Thăng Long mà còn ở ngay những chốn như Kinh Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang ngày nay), cái nôi của ngàn năm văn vật. Người Chàm hầu như hoà đồng với người Việt trong một môi trường không xa lạ lắm dưới đời Trần. Ảnh hưởng của người Chàm vào văn hoá Việt nam có thể kể như kiến trúc đình đền, nhạc, quan họ như đã đề cập ở trên.
Lại nói về vua Trần Nhân Tông, sau khi xuống vua làm Thaí Thượng hoàng và về núi Yên Tử thường dạo chơi và cũng có tiếp xúc với mọi giới ở vùng Luy Lâu, Kinh Bắc. Sự giao thiệp của Nhân Tông mang tính cách đạo, văn và tâm thức. Có thể qua những sự giao tiếp này, người Chàm cảm nhận và danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang dội đến Champa.
Trần Nhân Tông tháng 11 năm 1301 đi chơi ở các địa phương Champa trong 8 tháng dài và nơi đâu cũng được đón tiếp nồng hậu coi như người nhà (1)(9).
Dĩ nhiên khi thượng hoàng Nhân Tông khi đi thăm thú khắp đất Champa trong một thời gian dài, chắc chắn đều có sự tháp tùng của những tu sĩ người Việt gốc Chàm hoặc người Việt thông tiếng và văn hóa họ. Sự ngưỡng mộ của dân Champa với thượng hoàng đã dẫn tới việc vua Champa Chế Mân (Jaya Simhavarman III) đề nghị với thượng hoàng thắt chặt quan hệ chặt chẽ của hai dân tộc bằng cuộc hôn nhân lịch sử Simhavarman-Huyền Trân công chúa.
Thượng hoàng Trần Nhân Tông rất tán đồng với ý kiến này và xúc tiến một liên minh Chàm-Việt. Chỉ có vua Trần Anh Tông và một số cận thần là không muốn và miễn cưỡng theo ý thượng hoàng. Liên minh Chàm-Việt vì thế chỉ vững khi còn Trần Nhân Tông và Simhavarman.
Ta cũng biết trước đó, vua Chế Mân đã đồng minh với vua Trần chống Mông Cổ và từ chối không cho chiến thuyền Mông Cổ ghé Champa trên đường đi chinh phạt Java. Có thể nói Jaya Simhavarman III nhận được ra thế chiến lược của nước Champa giữa các thế lực quanh Champa. Và để bảo đảm sinh tồn của Champa, nên đã hòa mình tìm bạn đồng minh. Trước khi cưới Huyền Trân, Jaya Simhavarman III đã cưới công chúa Java thành hoàng hậu Tapasi. Huyền Trân công chúa trở thành hoàng hậu thứ hai, tên Paramesvari (10).
Sau khi thượng hoàng Nhân Tông và Simhavarman III mất, liên minh Chàm-Việt dần dần đổ vỡ. Một số các nho sĩ trong triều nhân cơ hội không còn thượng hoàng đã lên tiếng chê bai và phá thế liên minh Chàm-Việt. Người quan trọng đứng đầu là Đoàn Nhữ Hài đã tìm mọi cách để phá vỡ. Trần Anh Tông không thấy được thế chiến lược của ý tưởng Nhân Tông. Sau này dẫn tới cuộc chiến tranh một mất một còn giữa Đại Việt và Champa. Đại Việt suýt bị tan dưới sự tấn công liên tục của vua Champa Chế Bồng Nga. May thay, vận nước còn cao nhờ các tên đạn của tướng Trần Khát Chân và vận Champa đã tới lúc tàn.
(Trần Anh Tông thường hay lẩn trốn đi chơi đêm và uống ruợu say, có lần bị thượng hoàng Nhân Tông quở trách khi đến thăm cung mà vua vẫn còn ngủ vì say rượu. Thượng hoàng giận bỏ về Thiên Trường. Vua tỉnh dậy, rất sợ hãi may nhờ có Đoàn Nhữ Hài thay mình viết thơ xin tạ tội. Từ đó vua rất cậy nhờ Đoàn Nhữ Hài. Đoàn Nhữ Hài sau này bị tử trận trên chiến dịch đánh Lào và Champa. Cũng vậy, có lần Nhân Tông đi đến cung vua cùng với thợ vẽ để thích hình rồng vào người nhưng Anh Tông vờ lúc thượng hoàng và tuỳ tùng không để ý, lẻn đi mất)
Cũng vậy, sử gia Ngô Sĩ Liên và các quan dưới đời Lê chuộng nho học đã chỉ trích nghiêm khắc hành động của thượng hoàng Trần Nhân Tông dẫn đến cuộc hôn nhân Simhavarman - Huyền Trân. Nhưng tôi cho đó là những người hẹp về cái nhìn.
Tóm lại, tôi đã trình bày tóm tắt và những nhận định chung về giao lưu văn hoá Champa - Vietnam dưới đời Trần. Sự giao lưu này thể hiện mạnh mẽ trong văn hoá dân gian Việt Nam. Văn hoá đời Trần tỏ rõ nét văn minh bản chất Việt. Đây cũng là thời kỳ mà ảnh hưởng từ Nam Á qua nút Champa thể hiện đậm nét và để lại một dư âm qua các triều đại kế tiếp từ đời Lê đến đời Nguyễn khi Nho Giáo chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong triều đình, tầng lớp quan lại và bộ máy chính quyền.
(3) Sự xung khắc của văn hóa bản xứ với Nho giáo
Trong phần trước, tôi có nói về văn hóa dân gian bản xứ Việt dưới đời Trần có những nét đồng với văn hoá Đông Nam Á trong khi văn hóa và văn chương bác học chịu ảnh hưởng Hán. Có thể nói ở văn hoá Việt, tầng ảnh hưởng Hán che trên tầng (layer) bản xứ Việt. Nếu đào sâu xuống tầng cuối, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.
Thí dụ, trở lại về chuyện Cửa Càn (hay Cờn) mà chúng ta biết ở Quỳnh Lưu, Nghệ An về đền thờ ở cửa biển này. Đền thờ này được thiết lập dưới cuối triều Trần Anh Tông vào năm Nhâm Tý (1312).
NGUYỄN ĐỨC HIỆP
Ý kiến này dựa vào một đoạn của chính sử về tổ tiên họ Trần.
Theo "Đại Việt Sử Ký toàn thư", (Quyển 5, Kỷ Nhà Trần, Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, 1993) nói về Thái Tông Hoàng Đế :
"...Trước kia, tổ tiên vua là người đất Mân (có người nói là người Quế Lâm), có người tên là Kinh đến ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường, sinh ra Hấp, Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, đời đời làm nghề đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần..."
Như vậy có phải tổ 3 đời của vua Trần là người Hán Hoa hay không? Có nhiều dữ kiện cho thấy rằng không phải vậy. Bài này có mục đích chứng tỏ rằng họ Trần từ đất Mân không phải thuộc dòng văn hoá Hán Hoa.
Chúng ta đã biết rằng dưới đời Trần phong tục xâm hình (nhất là rồng) rất phổ biến mà sứ giả Tống Nguyên, khi đến Việt Nam đã ghi lại và gọi là "Thái Long". Thượng hoàng Trần Nhân Tông đã từng khuyên răn vua và con cháu rằng: "Nhà ta vốn là dân hạ bạn ưa chuộng việc hùng dũng, thường thích hình rồng vào đùi để tỏ mình không quên gốc". Tục xâm mình không bao giờ có ở văn hoá Hán Hoa.
Để bảo vệ cho triều đại Trần ban đầu khỏi bị lung lay, tôn thất nhà Trần đã không ngần ngại lấy nhau trong họ hàng. Đây là một điều mà văn hóa Hán Hoa cấm kỵ.
Nhà Trần có nguồn gốc là dân chài lưới đi từ đất Mân (hay có người nói là từ Quế Lâm) đã đến vùng bờ biển Bắc Việt định cư. Đất Mân có địa thế ở vùng biển Nam Trung Quốc dọc từ Phúc Kiến đến Quảng Đông. Vậy thì những người ở xứ Mân là những người có nguồn gốc như thế nào.
Bây giờ nói đến chuyện Hán hoá ở miền Nam Trung Hoa. Tôi có một chút ý kiến về mức độ Hán hóa trong thế kỷ 13. Theo tôi mức Hán hóa trong giai đoạn này không sâu rộng nhất là ở miền quê hẻo lánh hoặc ở miền núi và vùng biển của các làng chài dọc bờ biển.
Như ta đã biết Vương quốc Nam Chiếu (Nan Chao) ở miền Nam Trung Hoa (Vân Nam) tồn tại cho đến khi nhà Nguyên Mông Cổ xâm lăng. Sự di dân của người Nam Chiếu ở thế kỷ 13 dẫn đến sự thành lập của các vương quốc Thái: Sukhothai, Ayuthaya và ngày nay Thái Lan. Đến bây giờ ngay cả đi đến miền Nam Trung Quốc giáp giới Việt Nam, ta vẫn còn thấy nhiều dân tộc chưa bị Hán hoá. Ngay cả đến Côn Minh, phong thái của dân vùng này còn đượm nét Nam Á. Ta cũng không quên nhắc lại là đảo Đài Loan (hay Formosa) đã được định cư từ lâu đời bởi những người Polynesian thổ dân. Chỉ đến thế kỷ 17 khi nhà Minh mất thì số lượng người Hán di dân và lập nghiệp mới đến đông đảo, chiếm đa số và đẩy người Hà Lan ra khỏi đảo. Hà Lan từ lúc trước đã muốn lập một thuộc địa ở đảo Formosa và dùng nơi đó làm trạm buôn bán với các nước Nhật, Đại Hàn và Trung Quốc. Họ đã đánh và đẩy người bản xứ vào sâu trong rừng núi hải đảo.
Về nguồn gốc họ Trần, tôi trích đây một đoạn ngắn từ bài "Sông Châu, Núi Đọi, Họ Trần và những quan hệ với cụ Kép Trà" (Trần Quốc Vượng, trong "Theo dòng lịch sử") :
"...Ai cũng biết: Họ Trần gốc dân chài miệt biển, trải dài từ Phúc Kiến đến tận Xingapo, có cội nguồn Malai cổ (Indonesian), theo một hệ thống thân tộc khác với chế độ cửu tộc của người Hoa mà sau này các họ người Việt cũng áp dụng, anh em gọi là "con chú con bác ruột" thuộc diện "hôn nhân ưu tiên", mà giới nho sĩ Hoa hoá sau này gọi là "loạn luân". Họ đã dần dà ngược sông lên làm ruộng lúa nước ở các vùng ô trũng, tập trung nhất là ở Sơn Nam Hạ (Thái Bình - Nam Định cũ) và ở Quảng Ninh (Yên Tử - Đông Triều) rồi tản mát đi các nơi..."
Từ các kiến trúc đời Trần, đời sống văn hóa, tín ngưỡng, ngôn ngữ về sông biển mà họ Trần có nguồn gốc Việt cổ dùng cùng với các địa danh vẫn còn lưu lại, cũng như ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Chàm vào văn hoá Việt... ta có thể đặt câu hỏi : Phải chăng họ Trần có nguồn gốc Việt cổ mà các dấu vết để lại đã cho phép và gợi cho ta câu trả lời xác định ?
Một vài phương chính về tâm thức, xã hội học, văn hóa học... bổ túc thêm về nguồn gốc họ Trần và thời đại Trần nói chung sẽ được phân tích sau đây.
(1) Tâm linh văn hóa dưới đời Trần
Người dân Việt miền biển Bắc phần mà họ nhà Trần tập trung từ Nam Định, Hải Dương lan vào nội địa có văn hoá sông nước gắn liền với văn hóa vùng cao tạo thành một bản sắc của văn hóa Việt Nam. Bản chất sông nước của họ Trần được thể hiện sau đây (trích Trần Quốc Vượng, "Xứ đông Hải Hưng nhìn từ Kẻ Chợ", trong sách "Theo dòng lịch sử"):
"... xứ Nam có Chử Đồng Tử rồi Mẫu Liễu Hạnh, thì xứ Đông đời đời rạng danh Đông Hải đại vương với hàng trăm đền thờ từ Bần Yên Nhân dọc đường 5 xuống tận Hải Phòng.
Thần (Đông Hải) là ai?
Ai biết đi điền dã dân tộc-sử (Ethno-historic) thì sẽ hiểu: Nguyên lai, đấy là những đền thờ CÁ-ÔNG-VOI của ngư dân và cư dân ven biển; sau thời Lý sang đời Trần, thì thần Đông Hải Hải Đông đã được nhân cách hóa và hóa thân vào một nhân vật lịch sử có thật: Đó là tướng quân Đông Hải đại vương Đoàn Thượng, người đã cùng tướng quân Hoài Đạo Vương xứ Bắc Nguyễn Nộn làm nghiêng ngửa lịch sử cuối Lý đầu Trần. Để cuối cùng, vì chia rẽ nhau, cả 2 tướng quân xứ Đông, xứ Bắc đều thua trí, thua lực của dòng họ Trần gốc dân chài xứ Nam."
Họ Trần trở thành hoàng tộc, nở rộ từ xứ Nam - Thiên Trường rồi lan tỏa sang cả lộ Hải Đông và cả nước, với "cái nhìn về biển" rộng rãi hơn. Chính nhà Trần đã chia miền Biển Đại Việt khi ấy thành 2 khu vực quản lý: HẢI ĐÔNG từ cửa Đáy đến giáp (châu) Khâm Liêm, Quảng Đông, HẢI TÂY chạy dọc dài ven biển Thanh-Nghệ-Tĩnh-Bình-Trị-Thiên..." Gốc nhà Trần vì thế là thế giới sông nước và biển.
Nếu bây giờ chúng ta so sánh việc lập nghiệp của họ Trần với lập nghiệp của họ Mạc Cửu ở Hà Tiên Trấn sau này, ta sẽ thấy những sự khác biệt to lớn. Nếu viếng Hà Tiên và xem đền thờ hoặc chùa chiền của họ Mạc, ta sẽ thấy kiến trúc và thần linh đều là của Hán và ảnh hưởng Hán rất mạnh. Trái lại chúng ta không thấy những dấu vết này ở các kiến trúc đời Trần.
Đền thờ và kiến trúc của họ Trần ở Thiên Trường, Yên Tử hoặc các nơi khác như Thăng Long thì rõ ràng là mang nặng tâm thần Đại Việt. Đặc biệt ở quê hương họ Trần, có nhiều đền thờ thủy thần. Vùng Hà Nam Ninh cũng là nơi khám phá nhiều thuyền mộ (một nghi thức tiêu biểu của cư dân sông nước Đông Nam Á). Có thể nói nơi này là nơi các làn sóng cư dân hải đảo từ nhiều nơi đi đến, kể cả họ Trần. Những đoàn ngư dân tổ họ Trần làm vua, nếu là Hán Hoa đến đây bằng thuyền thì sẽ cảm thấy lạc lõng trong một môi trường văn hóa xa lạ (Xem thêm Hà Văn Tấn: "Văn hóa nguyên thuỷ Đông Nam Á như một cội nguồn của văn hóa dân gian", Tạp chí Văn Hóa dân gian, 1984, số 3, p.9-12. Phạm Quốc Quân: "Mộ thuyền Châu Sơn và những ngôi mộ thuyền mới phát hiện ở Hà Nam Ninh", Tap chí Khảo Cổ Học, số 2-1981)
Sự thờ thuỷ thần là một nét đặc biệt ở vùng này như thờ Quảng Bá đại vương và Mẫu thuỷ thần cùng 5 con trai của thủy thần như ở đền Thánh Cả, Thánh Hai, Thánh Ba, Thánh Tư và đền Thánh Ngũ.
Theo Trần Quốc Vượng, ở các vùng văn hóa Champa cũng có cơ cấu gắn với các dòng sông miền Trung và lên mô hình qui hoạch "tiểu quốc" Chăm cổ lấy dòng sông là trục chủ đạo (generator) như ở cơ cấu Hà Nam Ninh thời Trần (xem TQV "Sông Châu-Núi Đọi-Họ Trần và những mối quan hệ với cụ Kép Trà" trong sách "Theo dòng lịch sử").
Cũng không lạ gì, khi những từ Việt Nam như: sông ngòi, cá, cù lao... là những từ gốc Malayo-Polynesian mà người Việt, Chàm, Mã Lai và gốc Malaya-Indonesian ở Đài Loan... (xin mở ngoặc đây là từ cá, một món ăn không thể thiếu được của cư dân đảo và nước, như Họ Trần nhà ta, là từ gốc cho nhiều dân tộc trên).
"Theo Từ nguyên học dân gian kiểu "đền Gàn" ở Thanh Trì là ông thánh này có tính gàn. Kỳ thực, theo văn bia còn lại ở đền đời Lê và theo Lĩnh Nam Chích Quái đền có tên là "Xá Càn" và thần là con của Thuỷ Thần. Xá Càn, cũng như Càn, Gàn (K-G về ngữ âm, kiểu Cấu, Cáo của phương ngữ Thanh Hóa và Mường) đều có gốc Malayo-Polynesian là CÁ. Tiếng Nhật: Xa-kan = cá, tiếng Chàm Kan=Cá)" (TQV "Mấy nét tóm tắt về làng Giẽ Hạ - Xã Thịnh Phúc và Phủ Từ họ Đặng ở xã nhà" trong "Theo dòng lịch sử").
Cũng vậy các loại cửa biển mang tên Cờn - Càn ở Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh, Bình-Tri-Thiên đều mang ý nghĩ đó theo gốc Mã Lai cổ. Ông tổ các họ Trần đi thuyền đến định cư vùng này sẽ tìm thấy một môi trường quen thuộc và dễ chịu chứ không phải là một môi trường văn hóa xa lạ
(2) Giao lưu văn hóa Việt-Chàm dưới đời Trần
Phần trên tôi trình bày vài nét về tính chất Việt cổ trong tâm thức thời Trần. Đây là sự kế tục từ đời Lý qua nhiều triều đại mà sự thể hiện rõ rệt và nổi bật nhất là dưới triều vua Trần Nhân Tông.
Trong phần này tôi trình bày về những ảnh hưởng và giao lưu văn hóa Chàm-Việt dưới thời Trần. Sự giao lưu này là kết quả của những cộng hưởng tâm thức và văn hoá cội nguồn cổ của 2 dân tộc cùng nguồn mà ở đời Trần là tiêu biểu của tính chất Việt gắn liền với đặc tính Đông Nam Á.
Vì nói về vấn đề giao lưu cộng hưởng tâm thức Chàm Việt, tôi sẽ chú trọng nhiều về viễn tượng văn hoá (cultural perspective) hơn là viễn tượng chính trị (political perpective).
Về phương diện ngoại giao và chính trị, trong thời điểm dưới nhà Trần, Champa ở vào thế nguy kịch của lịch sử mình ở Đông Nam Á. Chiến tranh với Mông Cổ, Khmer và sau này Đại Việt chưa kể trước đó với Java.
Để mở đầu, tôi xin trích một vài đoạn trong bài của GS Cao Xuân Phổ trong một hội nghị về sử học Đông Nam Á (5):
“...
Lúc bấy giờ, cư dân Đông Nam Á lần lần cư ngụ trên các đồng bằng và vùng trung du dọc theo các sông lớn như Mekong, Menam, Salween, Irrawady, Hồng, Mã ... (và các phụ lưu) và chính những con sông này, như những đường chỉ trong sâu chuỗi, nối những cư dân với nhau. Biển Nam Hải, với những dòng biển gió mùa thổi trong những khu đã được thiết lập, nối những cư dân vùng biển trên lục địa, kể cả dân hải đảo lẫn nhau. Sông, và biển ở Đông Nam Á, không những là những thành phần cá tính đóng góp vào lối sống Đông Nam Á, mà còn là sợi dây liên kết dân cư ở lục địa và hải đảo. Vì thế ngay cả trước khi văn hoá Ấn độ vào Trung Quốc, Đông Nam Á đã có một cá tính riêng biệt và thành đạt. “
“Khi mà dân ở vùng phía Nam bán đảo ấn Hoa và ỏ các hải đảo tiếp nhận các thành phần của văn hoá Ấn độ và lần lần thiết lập tổ chức xã hội của họ (Xây Dựng), thì những cư dân phía Bắc ở bán đảo, nhất là các bộ tộc Việt, phải chống lại sự Hoa hoá (Bảo tồn) khi bắt buộc phải tiếp nhận văn hoá Trung Quốc...”
“Các người Việt, dưới triều đại Lý và Trần, trên đường thiết lập quốc gia, có để ý đặc biệt về biển. Ta nên nhớ rằng từ thời đại Đông Sơn, họ đã kết hợp ba thành phần văn hoá: đồng bằng, biển và núi trong một cơ cấu thành đạt, mặc dầu vẫn còn thô sơ. Cơ cấu này sau đó đã bị phá mất dưới sự thống trị cả ngàn năm của Trung Quốc. Và bây giờ nước Việt đang hội nhập vào đại gia đình Đông Nam Á. Rất là tự nhiên rằng sau giải phóng và trở lại với các dân tộc khác ở Đông Nam Á, người Việt tiếp nhận từ các dân tộc ấy những thành tựu văn hoá để tăng thêm vị thế của mình dù đây chỉ là việc trong gia đình các dân tộc. Trong sự tiếp nhận này, không có sự chống đối thù nghịch. Thật là kỳ diệu khi con chim thần Garuda đã nằm ở các bệ đá chùa của các triều đại Lý - Trần (thế kỷ 11 - 14). Các tượng người gác khổng lồ ở chùa Phật Tích (vết tích đời Lý - thế kỷ 11) rất giống các tượng thần dvarapalas ở Đồng Dương (Champa), hay các trống Java treo trước ngực của chim thần Kinnaris dưới đời Lý. Và phật giáo dưới triều Lý rất hãnh diện với phái “Thảo Đường” tạo lập bởi vị sư cùng tên đã sống ở Chàm".
Quả vậy, ngoài hình tượng rồng phổ biến trên nóc các đền, chùa..., khi ta đến chùa Ngọc Đình (Hà Sơn Bình) sẽ thấy ở vị trí trụ cột trên bốn góc của nhiều bệ đá, hình dáng những con Garuda mình người đầu chim. Những hoa mỹ trên bức chạm gỗ con Kinnari, mình chim đầu người, ở chùa Thái Lạc (Hải Hưng) dâng hoa tấu nhạc với những nhân vật trung tâm là vũ nữ, là nhạc công.
Kiến trúc, hoa văn, điêu khắc, tượng trong nghệ thuật Trần có phẩm chất dân gian. Phong cách ấy chuộng những hình khối và đường nét mập và khoẻ. Cái mập và khoẻ ở đây được thể hiện trong những khối căng và lẳn, những đường thanh và mạnh, với một cấu trúc hình khối tinh lọc và giản dị, khiến cho tất cả những tượng này nói chung đều vững chãi mà không nặng nề, ung dung, đường bệ mà không tĩnh. (Mỹ thuật đời Trần, NXB Văn Hoá, Hà Nội, 1977).
Phong cách này hoàn toàn hoà hợp với hình thể phong cách Champa trong những kiến trúc Chàm sau khi gạt lọc đi những biểu tượng Ấn hoá.
Champa vi thế trong đời Lý-Trần trở thành như trạm chuyển -gạch nối giữa Đaị Việt và cộng đồng các dân tộc vùng Đông Nam Á. Ảnh hưởng và giao lưu của văn hoá Chàm vào một đất Việt có tính cách đón nhận hay bổ sung chứ không miễn cưỡng như văn hóa Hán. Để hiểu rõ thêm về luồng nhận trên, ta hãy xem xét một vài khía cạnh văn hoá và con người dưới thời Trần.
Trần Quốc Vượng trong bài "Bắc Thái - Anh là ai" trong ’Theo dòng lịch sử" có đề cập đến giao thoa văn hoá như sau:
"...
Không thể hiểu được Bắc Ninh văn hiến nếu không cắt nghĩa nó là một hiệu quả giao thoa, giao hoà văn hoá Việt, Hán, Ấn, Chàm... trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ đại đến Lý-Trần.. Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Dà La (tỳ khưu A Xa Lê tức Thầy Đen, Ấn Độ), Ti Ni Đa Luư Chi, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh-nghệ sĩ Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng... thì cũng khó mà có một truyền thống văn hiến Kinh Bắc của thời tự chủ như ta hiện thấy. Đằng sau một Nguyễn Nộn cư sĩ Phù Đổng, là một nguời Chàm Phan Ma Lôi "giỏi cuỡi ngựa" như Ngôn Thông, Đa Bảo và thiếu cộng đồng Chàm nơi đó thì không thể có Phù Đổng Thiên Vương, huyền tích Gióng và Hội Gióng hôm nay.. Tôi cũng có thể nói như vậy về pho tượng Phật bằng đá và những điêu khắc đá tuyệt vời ở chùa Phật Tích: Đấy là nghệ thuật Việt, cái đẹp Đại Việt đã biết hội nhập nhiều yếu tố ngoại sinh Hán, Đường, Champa."
Nếu chia văn hóa làm hai loại văn hóa dân gian và văn hoá bác học, thì giao lưu Chàm-Việt đạt nhiều trong lãnh vực dân gian trong khi đó giao thoa Hán-Việt ở vào lãnh vực bác học. Tuy vậy tính chất dân gian cũng không thiếu tính chất bác học trong nền văn minh Đại Việt.
Trở lại Trần Quốc Vượng:
"...
Quan họ là âm nhạc dân gian Kinh Bắc nhưng các nhà nhạc học Trần Văn Khê, Thanh Bảo mách tôi rằng giới nhạc học Nga và Tây Âu nói với hai vị ấy rằng Quan họ có rất nhiều chất bác học về điệu thức và giai điệu. Ta nên nhớ âm nhạc Champa đã được Nhạc Phủ đời Đường sưu tập và nghiên cứu. Lý Nhân Tông trở thành nhạc sĩ là do biết "hoà Đường Phạn nhị âm". Quan họ hình thành, có nghệ sĩ âm nhạc Chàm góp công, góp sức..."
Cũng theo An Nam Chí Lược, ở Thăng Long đời Trần, về nhạc thì có trống cơm (tên chữ Hán là "Phạn cổ") gốc ở Chiêm Thành truyền qua Việt Nam. Hình trống tròn dài, nghiền cơm đắp vào giữa mặt trống rồi dánh, tiếng ra trong trẻo, rõ ràng. Trống ấy hòa với tất tiêu (tiêu), tiểu quản (sáo), tiểu bạt (não bạt), đại cốc (mõ to) gọi là đại nhạc.
("Hà Nội nghìn xưa", Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán, 1975)
Về sinh hoạt ở kinh thành Thăng Long dưới đời Trần, sứ giả nhà Nguyên Trần Phu lưu lại 52 ngày năm 1293, đã tả chi tiết qua bài An Nam Tức sự. Vua quan nhà Trần thường đi võng hay kiệu. Võng cánh dùng một mảnh vải dài hơn một trượng lấy 2 dóng gỗ tròn dài 5 tấc, treo 2 đầu tấm vải vào hai dóng gỗ nhờ một sợi dây thừng, rồi lại lấy một đòn tre to xỏ qua 2 dây thừng ấy, hai người khiêng hai đầu đòn. Cáng thời ấy gọi là "Đề Nha", một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Vua dùng kiệu hồng, tán đỏ, tám người khiêng. Khi đi voi thì trên lưng voi bày đủ yên cương bành ngồi, gọi là "la nga", cũng một từ gốc Chàm-Mã Lai.
Sứ nhà Nguyên Trương Lập Đạo, năm 1291 có kể trong bài "Hành Lục" về vua Trần Nhân Tông ở kinh thành Thăng Long. Vua tiếp sứ và đọc chiếu xong, xuống điện Tập Hiền đãi yến. Trên bàn tiệc, bày la liệt các bát món ăn, thịt cá, hải sản và hoa quả quý lạ. Vua Trần ung dung ngồi nhai trầu, trầu têm, cau bổ và vôi hàu, có đưa mời sứ giả.
Về phương diện tâm linh, Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần với sự ủng hộ của giới quý tộc Trần và coi như là quốc giáo. Ngoài những thiền tăng từ nhà Nguyên Trung Hoa, còn có nhiều nhà sư Ấn Độ, Trung Á có khuynh hướng Mật giáo đến Việt Nam, như nhà sư Du Chi Bà Lam đến hai lần vào thời Nhân Tông và Anh Tông, nhà sư Bồ Đề Thất Lý (Bodhisri) đến thời Minh Tông. Trúc Lâm đệ nhị tổ, được thượng hoàng Nhân Tông sai đi tìm nhà sư Ấn có tên là Ban Đề Đa Ô Tra Thất Lợi (Panditausasri ?). (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, 1991).
Phật giáo phát triển lan rộng trong mọi tầng lớp nhân dân hoà hợp với một tâm linh bản địa Việt tạo lên một kiến trúc văn hoá hài hòa với văn hoá phương Nam. Văn hoá đời Trần là biểu hiện sự nhập chung của hai tâm linh này. Cũng vậy, sự suy thoái của Phật giaó và sự thắng thế của Nho giáo bắt đầu từ thế kỷ 14 do tầng lớp ủng hộ Phật giáo mạnh mẽ là quí tộc Trần đã mất dần uy lực chính trị và kinh tế. Ở cuối nhà Trần và đầu nhà Hồ, thời kỳ huy hoàng của Phật giáo mới chấm dứt.
"Chế độ sở hữu ruộng đất lớn điền trang thái ấp bắt đầu tan rã. Các quan lại xuất thân nho học "bạch diện thư sinh", đại diện cho tầng lớp địa chủ nhỏ, bắt đầu nắm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Nho giáo với chế độ khoa cử dần dần thắng thế. Nhiều nhà nho như Trương Hán Siêu, Lê Quát bắt đầu lớn tiếng công kích Phật giáo"
Trong số những nhân vật tiêu biểu của đời Trần, ta sẽ nhận thấy có một vài nhân vật thông hiểu tiếng Chàm như Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật (xem Phan Huy Chú - Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí - Nhân Vật Chí). Trần Nhật Duật không những giỏi tiếng Chàm và các ngôn ngữ hải đảo như Sách Mã Tích (gần Java ngày nay) mà còn biết các ngôn ngữ dân tộc miền núi và tiếng Tống nữa. Ông cũng thường cỡi voi đến thôn Đađa-li (sau gọi trệch là thôn Bà Già) nơi có nhiều người Chàm tù binh định cư gần Thăng Long để nói chuyện và ca hát suốt ngày.
Thời Nhân Tông, sứ giả nước Sách Mã Tích sang cống, không tìm đâu được người phiên dịch. Cả Thăng Long, chỉ một mình Trần Nhật Duật dịch được.
Nếu ta còn kể thêm là Trần Nhật Duật có vợ người Thanh Hoá, một vùng là cửa ngõ giao lưu văn hoá 2 nước. Cơ sở hậu duệ của Trần Nhật Duật sau này là ở vùng này. (TQV có nói thêm là trong bài của Quatrich Wales "The Dong Son genius and the evolution of Cham Art", Journal of Royal Asiatic Society, 1949 đề cập về văn hóa bản địa Chàm là di sản của văn hóa Đông Sơn, đó là chưa nói đến sự giao lưu giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn hóa Đông Sơn).
Ta cũng biết thêm rằng người Chàm không những định cư ở Thanh Hóa hay gần Thăng Long mà còn ở ngay những chốn như Kinh Bắc (Bắc Ninh-Bắc Giang ngày nay), cái nôi của ngàn năm văn vật. Người Chàm hầu như hoà đồng với người Việt trong một môi trường không xa lạ lắm dưới đời Trần. Ảnh hưởng của người Chàm vào văn hoá Việt nam có thể kể như kiến trúc đình đền, nhạc, quan họ như đã đề cập ở trên.
Lại nói về vua Trần Nhân Tông, sau khi xuống vua làm Thaí Thượng hoàng và về núi Yên Tử thường dạo chơi và cũng có tiếp xúc với mọi giới ở vùng Luy Lâu, Kinh Bắc. Sự giao thiệp của Nhân Tông mang tính cách đạo, văn và tâm thức. Có thể qua những sự giao tiếp này, người Chàm cảm nhận và danh tiếng của đạo sĩ Trần Nhân Tông vang dội đến Champa.
Trần Nhân Tông tháng 11 năm 1301 đi chơi ở các địa phương Champa trong 8 tháng dài và nơi đâu cũng được đón tiếp nồng hậu coi như người nhà (1)(9).
Dĩ nhiên khi thượng hoàng Nhân Tông khi đi thăm thú khắp đất Champa trong một thời gian dài, chắc chắn đều có sự tháp tùng của những tu sĩ người Việt gốc Chàm hoặc người Việt thông tiếng và văn hóa họ. Sự ngưỡng mộ của dân Champa với thượng hoàng đã dẫn tới việc vua Champa Chế Mân (Jaya Simhavarman III) đề nghị với thượng hoàng thắt chặt quan hệ chặt chẽ của hai dân tộc bằng cuộc hôn nhân lịch sử Simhavarman-Huyền Trân công chúa.
Thượng hoàng Trần Nhân Tông rất tán đồng với ý kiến này và xúc tiến một liên minh Chàm-Việt. Chỉ có vua Trần Anh Tông và một số cận thần là không muốn và miễn cưỡng theo ý thượng hoàng. Liên minh Chàm-Việt vì thế chỉ vững khi còn Trần Nhân Tông và Simhavarman.
Ta cũng biết trước đó, vua Chế Mân đã đồng minh với vua Trần chống Mông Cổ và từ chối không cho chiến thuyền Mông Cổ ghé Champa trên đường đi chinh phạt Java. Có thể nói Jaya Simhavarman III nhận được ra thế chiến lược của nước Champa giữa các thế lực quanh Champa. Và để bảo đảm sinh tồn của Champa, nên đã hòa mình tìm bạn đồng minh. Trước khi cưới Huyền Trân, Jaya Simhavarman III đã cưới công chúa Java thành hoàng hậu Tapasi. Huyền Trân công chúa trở thành hoàng hậu thứ hai, tên Paramesvari (10).
Sau khi thượng hoàng Nhân Tông và Simhavarman III mất, liên minh Chàm-Việt dần dần đổ vỡ. Một số các nho sĩ trong triều nhân cơ hội không còn thượng hoàng đã lên tiếng chê bai và phá thế liên minh Chàm-Việt. Người quan trọng đứng đầu là Đoàn Nhữ Hài đã tìm mọi cách để phá vỡ. Trần Anh Tông không thấy được thế chiến lược của ý tưởng Nhân Tông. Sau này dẫn tới cuộc chiến tranh một mất một còn giữa Đại Việt và Champa. Đại Việt suýt bị tan dưới sự tấn công liên tục của vua Champa Chế Bồng Nga. May thay, vận nước còn cao nhờ các tên đạn của tướng Trần Khát Chân và vận Champa đã tới lúc tàn.
(Trần Anh Tông thường hay lẩn trốn đi chơi đêm và uống ruợu say, có lần bị thượng hoàng Nhân Tông quở trách khi đến thăm cung mà vua vẫn còn ngủ vì say rượu. Thượng hoàng giận bỏ về Thiên Trường. Vua tỉnh dậy, rất sợ hãi may nhờ có Đoàn Nhữ Hài thay mình viết thơ xin tạ tội. Từ đó vua rất cậy nhờ Đoàn Nhữ Hài. Đoàn Nhữ Hài sau này bị tử trận trên chiến dịch đánh Lào và Champa. Cũng vậy, có lần Nhân Tông đi đến cung vua cùng với thợ vẽ để thích hình rồng vào người nhưng Anh Tông vờ lúc thượng hoàng và tuỳ tùng không để ý, lẻn đi mất)
Cũng vậy, sử gia Ngô Sĩ Liên và các quan dưới đời Lê chuộng nho học đã chỉ trích nghiêm khắc hành động của thượng hoàng Trần Nhân Tông dẫn đến cuộc hôn nhân Simhavarman - Huyền Trân. Nhưng tôi cho đó là những người hẹp về cái nhìn.
Tóm lại, tôi đã trình bày tóm tắt và những nhận định chung về giao lưu văn hoá Champa - Vietnam dưới đời Trần. Sự giao lưu này thể hiện mạnh mẽ trong văn hoá dân gian Việt Nam. Văn hoá đời Trần tỏ rõ nét văn minh bản chất Việt. Đây cũng là thời kỳ mà ảnh hưởng từ Nam Á qua nút Champa thể hiện đậm nét và để lại một dư âm qua các triều đại kế tiếp từ đời Lê đến đời Nguyễn khi Nho Giáo chiếm lĩnh vị trí quan trọng trong triều đình, tầng lớp quan lại và bộ máy chính quyền.
(3) Sự xung khắc của văn hóa bản xứ với Nho giáo
Trong phần trước, tôi có nói về văn hóa dân gian bản xứ Việt dưới đời Trần có những nét đồng với văn hoá Đông Nam Á trong khi văn hóa và văn chương bác học chịu ảnh hưởng Hán. Có thể nói ở văn hoá Việt, tầng ảnh hưởng Hán che trên tầng (layer) bản xứ Việt. Nếu đào sâu xuống tầng cuối, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.
Thí dụ, trở lại về chuyện Cửa Càn (hay Cờn) mà chúng ta biết ở Quỳnh Lưu, Nghệ An về đền thờ ở cửa biển này. Đền thờ này được thiết lập dưới cuối triều Trần Anh Tông vào năm Nhâm Tý (1312).
NGUYỄN ĐỨC HIỆP