Nữ Tướng Phạm Thị Uyển, Đền Dục Anh
Tượng bà Phạm Thị Uyển tại Đền Dục Anh – 139 Nguyễn Ngọc Vũ (ảnh Phạm Đình Điểu chụp ngày 12/12/ 2011)
Sử nước ta còn lưu truyền tiếng thơm về nguyên phi Ỷ Lan dưới triều Lý thay Vua trị nước khi vua ra trận bình định Chiêm Thành. Trước Ỷ Lan, đã có một vị hoàng hậu cầm quân ra trận xông pha hiểm nguy nơi trận mạc, Hoàng hậu Phạm Thị Uyển, vợ vua Mai Hắc Đế. Bà Phạm Thị Uyển là thành hoàng được dân làng Hòa Mục (Cầu Giấy, Hà Nội) thờ tự kính cẩn từ nhiều đời nay.
Theo thần tích được ghi trong tư liệu lịch sử của đình làng Hòa Mục, bà Phạm Thị Uyển là con gái đầu trong một gia đình 3 con ở quận Nam Xương. Cha là ông Phạm Huyên, hiệu là Minh Dực, mẹ là Phùng Thị Thảo hiệu Diệu Hoa. Phạm Thị Uyển là chị cả và hai em trai Phạm Miện và Phạm Huy, ba chị em gọi Phùng Hưng là cậu ruột, quê ở Đường Lâm. Hai người em bà sau này đều là các danh tướng trong cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng.
Năm 18 tuổi Phạm Thị Uyển lấy Mai Thúc Loan. Khi Mai Thúc Loan khởi nghĩa lên ngôi Hoàng đế (hiệu là Mai Hắc Đế, tháng 4 năm 713), bà trở thành Hoàng hậu.
Quân Đường bên Tầu thua trận nhưng không chịu bỏ mộng xâm lăng, sai Dương Tư Húc mang 10 vạn quân sang đánh nước ta. Thế giặc mạnh làm cho đội quân gồm những nông dân khởi nghĩa phải lui dần rồi bị tan vỡ.
Trong trận quyết chiến ở thành Tống Bình, hoàng hậu Phạm Thị Uyển dẫn đầu một cánh quân thủy giao chiến ác liệt với quân địch trên dòng Tô Lịch. Bấy giờ sông Tô còn là một nhánh của sông Hồng và là mặt án ngữ phía tây của thành Đại La. Thế giặc mạnh, quân ta bị đuối dần. Thế cùng lực kiệt nhưng quyết không để rơi vào tay giặc, hoàng hậu Phạm Thị Uyển đã nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn.
Trong trận quyết chiến ở thành Tống Bình, hoàng hậu Phạm Thị Uyển dẫn đầu một cánh quân thủy giao chiến ác liệt với quân địch trên dòng Tô Lịch. Bấy giờ sông Tô còn là một nhánh của sông Hồng và là mặt án ngữ phía tây của thành Đại La. Thế giặc mạnh, quân ta bị đuối dần. Thế cùng lực kiệt nhưng quyết không để rơi vào tay giặc, hoàng hậu Phạm Thị Uyển đã nhảy xuống sông Tô Lịch tự vẫn.
Xác bà trôi dạt đến địa phận trang Nhân Mục (nay là làng Hòa Mục) thì được nhân dân lén vớt lên chôn cất, rồi lập đền thờ. Đó chính là đền Dục Anh nằm trên đường Nguyễn Ngọc Vũ, quay mặt ra sông Tô Lịch ở đoạn gần cầu Trung Hòa.
7 thế kỷ sau, vào thời nghĩa quân Lam Sơn tổng công kích quân Minh, Lê Lợi nghỉ đêm ở miếu Dục Anh được thần báo mộng sẽ âm phù cho quân khởi nghĩa diệt giặc. Vậy là mối thù hơn 7 thế kỷ trước của bà đã có dịp trả khi bà phù hộ giúp Bình Định Vương Lê Lợi đánh tan giặc phương Bắc. Sau này khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã sắc phong cho bà là Khiêm Sung Đại Vương.
7 thế kỷ sau, vào thời nghĩa quân Lam Sơn tổng công kích quân Minh, Lê Lợi nghỉ đêm ở miếu Dục Anh được thần báo mộng sẽ âm phù cho quân khởi nghĩa diệt giặc. Vậy là mối thù hơn 7 thế kỷ trước của bà đã có dịp trả khi bà phù hộ giúp Bình Định Vương Lê Lợi đánh tan giặc phương Bắc. Sau này khi lên ngôi vua, Lê Lợi đã sắc phong cho bà là Khiêm Sung Đại Vương.
Ngày nay, Khiêm Sung Đại Vương được thờ ở đền Dục Anh, nơi xác bà trôi về sau khi tuẫn tiết và đình làng Hòa Mục. Hơn ngàn năm qua, nhân dân vẫn kính cẩn thờ tự người nữ anh hùng. Trước khi triều Lê phong cho bà là Khiêm Sung Đại Vương thì từ thế kỷ 8, dân địa phương đã lập miếu thờ bà ngay tại nơi xác bà trôi về. Trong tâm chí người dân, vị Hoàng hậu dũng cảm đã là một vị thành hoàng làng che chở cho dân làng từ lâu.
Tiếp bước Bà Trưng, Bà Triệu, Hoàng hậu Phạm Thị Uyển đã làm cho lịch sử phải nhìn nhận lại vai trò của người phụ nữ. Bà là một điển hình tiêu biểu cho bản sắc ViệtNam nói chung, bản sắc người phụ nữ nói riêng. Trong nhà vai trò người phụ nữ là tề gia nội trợ, nhưng khi giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh. Là hoàng hậu “mẫu nghi thiên hạ” nhưng bà cũng là một dũng tướng dám anh dũng hi sinh ngay giữa trận tiền để bảo vệ độc lập tự do của Tổ quốc.
Phạm Đình Điểu