Home » » DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH BẰNG TỬ VI ĐẨU SỐ-PHẦN 2

DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH BẰNG TỬ VI ĐẨU SỐ-PHẦN 2

Written By kinhtehoc on Thứ Bảy, 18 tháng 2, 2012 | 21:10

PHẦN THỰC HÀNH

Trước khi vào phần THỰC HÀNH, chúng ta cùng xem lại một số đánh giá của giới chuyên môn về vai trò của TỬ VI trong dự đoán học:

Cách đây hơn 2.500 năm, đạo Phật khi nghiên cứu về con người cho rằng con người có 9 thức. Trong đó, 6 thức cho biết được con người đang tồn tại, còn 3 thức thuộc về tiềm thức. Với tử vi, Trần Đoàn là người đầu tiên ở phương Đông nghiên cứu về thế giới tiềm thức đầy bí ẩn. Ngay cả cách phân loại con người trong tử vi cũng đem lại cho chúng ta nhiều điều bất ngờ lý thú. Nếu Páp-lốp, dựa trên khí chất đã phân con người làm 4 loại (tính nóng, tính lạnh, tính ưu tư và tính điềm tĩnh), Freud – cha đẻ của thuyết Phân tâm học – phân con người làm 3 loại (loại nghệ sĩ, loại lý trí và loại giữa) dựa theo bản năng sinh dục, thì Trần Đoàn sắp xếp và phân loại con người dựa trên 12 nhóm quan hệ khác nhau (Mệnh, Phụ mẫu, Phúc đức, Điền trạch, Quan lộc, Nô bộc, Thiên di, Tật ách, Tài bạch, Tử tức, Phu thê, Huynh đệ). Có lẽ cho đến bây giờ và trong tương lai, không có quan hệ nào của con người nằm ngoài những nhóm quan hệ đó. Cách phân loại dựa trên mối quan hệ trong tử vi là hết sức khoa học.
Khi nghiên cứu tử vi, người ta cũng phát hiện thấy con số 110 sao được chia thành 14 nhóm chính, đặc trưng cho tính cách. 14 nhóm sao chính đó tương ứng với 14 chất chính tạo thành con người (10 nguyên tố đại lượng, 4 nguyên tố vi lượng). Những số sao và nhóm sao ấy cũng trùng hợp với nhóm và các nguyên tố trong Bảng tuần hoàn Men-đê-lê-ép.
Mặc dù không thoát khỏi được tư tưởng của thời đại là thuyết Âm Dương và Ngũ Hành sinh khắc, nhưng tử vi vẫn giữ được nét độc đáo nhờ sự khảo sát khác lạ, có thể xem như là một cuộc cách mạng, hoặc ít ra cũng là một phát minh biệt lập trong phái Tướng số học thời bấy giờ. Với tử vi, hiện nay chỉ có những cá nhân say mê nghiên cứu, mà chưa có một nước nào đặt thành một môn trong trường học. Gần đây, Nhật Bản ứng dụng tử vi trong việc xem ngày tốt xấu để phân bổ cho các lái xe, nhằm giảm bớt những tai nạn bất ngờ xảy ra. Do còn nhiều thiếu sót nên tử vi chưa được thừa nhận như một khoa học dự báo về con người. Khi nghiên cứu tử vi cần chú ý:
Thứ nhất, không nên coi cuộc đời con người là bất biến. Việc biểu đồ hoá số mệnh con người trong một lá số chỉ là một hướng tiên đoán mang tính định hướng máy móc. Vì lá số, dù tinh vi đến đâu cũng không giải đoán một cách độc lập và biệt lập với những yếu tố bên ngoài như: hoàn cảnh, giai cấp, văn hoá, môi trường sinh hoạt… Vậy nên khi xem tử vi, người xem phải tập hợp được những yếu tố đó.
Thứ hai, khi xem tử vi người ta thường quan tâm nhất đến cung Mệnh. Cung Mệnh có quan hệ chặt chẽ đến cá tính con người. Mệnh và Vận bao giờ cũng đi đôi với nhau, nhưng Vận quyết định Mệnh. Vận có thể sửa đổi được, nếu con người có ý thức. Một người thành đạt, ngoài yếu tố Mệnh ra còn phải hội với yếu tố Vận nữa. Vận có thể được hiểu là sự tao ngộ giữa Mệnh với hoàn cảnh cụ thể. Nói như vậy để thấy rằng vận Mệnh không phải là bất biến mà vận mệnh có thể sửa đổi được.
Thứ ba, cứ theo như cách tính toán trong tử vi thì tối đa cũng chỉ được 512.640 lá số. Trong khi dân số hiện nay trên thế giới hơn 6 tỷ người, nếu tính bình quân sẽ có gần 12.000 người chung nhau 1 lá số. Vậy thì 12.000 người này có cùng chung một số phận hay sao? Câu trả lời chắc chắn sẽ là không. Nhưng, nếu coi tử vi là một thuật toán sắc xuất thì cũng có thể coi 512.640 lá số là những phương trình khung, xem nó như là 512.640 “khung vận mệnh” của con người vậy.
Nói như vậy để thấy rằng, không nên tuyệt đối hoá tử vi, dễ sa vào tình trạng trì trệ, thụ động, dẫn đến sự suy thoái về tinh thần. Nhưng có một điều không thể chối cãi rằng, tử vi là một môn nghiên cứu về con người, là một môn toán xác suất cổ, xác suất cao hay thấp tuỳ thuộc vào trình độ của người sử dụng. Người giỏi và người trung bình khi tính toán tử vi sẽ ra kết quả khác nhau. Vậy nên, khi xem tử vi, nói chung đạt 70% xác suất đã là giỏi.
Nhưng như Eđison đã từng nói, thiên tài 99% là mồ hôi, nước mắt còn 1% là ngẫu hứng. Vận mệnh con người, từ đó có thể hiểu là do chính con người quyết định chứ không phải nằm trong những lá số chật hẹp này. Sự biết bao giờ cũng mang lại cho con người sức mạnh, quyền lực, bồi dưỡng khả năng, giúp hành động thêm thích ứng. Biết mình, biết người để tránh những sơ suất trong xử thế, phát huy sở trường, hạn chế sở đoản, nhờ đó mà dễ thành công trong cuộc sống.
Có thể nói, tử vi là một trò chơi đầy trí tuệ, đáp ứng được một phần nào sự tò mò của con người. Dùng tử vi để cầu điều may, tránh điều dở, hướng về chân thiện, thận trọng trong hành động và lời nói là một hướng cần được nghiên cứu một cách nghiêm túc. Mặt khác cũng cần cảnh giác với những người tự nhận là am hiểu tử vi có động cơ loè bịp, doạ dẫm với mục đích xấu.
*****

I/ LẬP LÁ SỐ TỬ VI

Trước đây, việc Lập một Lá số tử vi rất mất thời gian lại dễ không có những sai lệch trong quá trình an các Sao. Ngày nay, công việc này đã được Internet giải quyết giúp, rất nhanh chóng, thuận lợi lại đảm bảo chính xác. Có nhiều trang Web. Giúp ta làm việc này, nhưng theo chúng tôi, trang http://www.lyso.vn/ là phù hợp nhất. Trang Web. này không chỉ lấy Lá số trọn đời mà còn làm luôn việc an sao Lưu niên theo yêu cầu của ta.
Muốn Lấy một Lá số, Quý vi chỉ cần click chuột VÀO ĐÂY, sau đó, khi trang Web mở ra, Quý vị lần lượt gõ Tên, Năm, Tháng, Ngày và giờ sinh vào các ô trang Web yêu cầu, rồi gửi đi là xong. Và chỉ trong chớp mắt, Quý vị sẽ nhận ngay Lá số Quý vị vừa yêu cầu lập.
Quý vị hãy làm thử nhiều lần việc dùng trang Web. http://www.lyso.vn/ (Click chuột VÀO ĐÂY) để lập Lá số cho thông thạo, trước khi chuyển sang phần LUẬN ĐOÁN.
*****
VÍ DỤ VỀ LẤY LÁ SỐ TỪ TRANG http://www.lyso.vn:
Bước 1: Click chuột VÀO ĐÂY, trang Lý số Việt Nam mở ra. Ta tiến hành kê khai: Họ tên: Nguyễn Văn Mỗ + Thời gian (ra đời của Ng Văn Mỗ): 12 giờ 30 ngày 16 tháng 6 năm 1976 + Năm xem: Chọn “năm nay” (2011) + Giới tính: Chọn “Nam” (Xem hình dưới):
Bước 2: Click chuột vào hàng chữ được đóng khung : “Xem trước lá số”. Lập tức Lá số của Nguyễn Văn Mỗ sẽ hiện ra như dưới đây (Xin Click vào đường Link): http://www.lyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/123016061976/1/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20M%E1%BB%97.jpglyso.vn/dichvu/lasotuvi/1/123016061976/1/Nguyễn
Đó chính là LÁ SỐ ta cần tìm. Nhìn vào ô chính giữa của Lá số, ta có một loạt THÔNG TIN bước đầu về Nguyễn Văn Mỗ như sau:
THÔNG TIN BAN ĐẦU:
1/Ngày giờ tháng năm sinh theo Dương lịch (do ta vừa khai) và đối chiếu với Âm lịch là năm Bính thìn, tháng Giáp ngọ, ngày Kỷ hợi, giờ Canh ngọ. Năm xem là năm Tân mão 2011 (Ng Văn Mỗ ở tuổi 36).
Khi tiến hành lập lá số, tùy theo GIỜ SINH, thường dẫn đến các trường hợp sau:
*/ Sinh giờ Tý, Ngọ: Mệnh và Thân đồng cung (cùng đóng 1 cung): Cả đời không bị ảnh hưởng bởi môi trường sống tức là không dễ gì thay đổi Mệnh..
*/ Sinh giờ Mão, Dậu: Thân và Thiên di đồng cung:
*/ Sinh giờ Thìn, tuất: Thân và Tài bạch đồng cung: Coi trọng tiền bạc.
*/ Sinh giờ Tị, Hợi: Thân và Phu thế đồng cung: Coi trọng cuộc sống gia đình, vợ chồng.
*/ Sinh giờ Dần, Thân: Thân và Quan lộc đồng cung (“Thân cư Quan lộc”): Thích địa vị và coi trọng công việc.
*/ Sinh giờ Sửu, Mùi: Thân và Phúc đức đồng cung: Chịu ảnh hưởng nhiều của phúc đức tổ tiên.

2/ Về ÂM DƯƠNG (so sánh giữa mệnh tuổi đương sự với Cung mà Mệnh của đương sự đóng trong Lá số): Ở trường hợp này, đương sự là DƯƠNG NAM, Mệnh đóng tại Cung “TÝ” là được “ÂM DƯƠNG THUẬN LÝ”.
3/ Về quan hệ MỆNH – CỤC: Mệnh: “Sa trung THỔ”; Cục: “THỔ ngũ cục”. Như vậy là quan hệ Ngũ hành giữa Mệnh và Cục là “TỊ HÒA” (cùng là THỔ).
4/ THÂN và MỆNH ở cùng một CUNG, cung “TÝ”: Thân Mệnh đồng cung.
Đó là những thông tin bước đầu rất quan trọng để ta đi vào LUẬN GIẢI LÁ SỐ sau này.
*****
II/ DỰ ĐOÁN VẬN MỆNH
II.1/ VÍ DỤ: Theo hướng dẫn ở mục I trên, ta lấy lá số tử vi cho một người có tên là Phạm Trọng Yêm sinh giờ Sửu, ngày 02 tháng 8 năm Kỷ Sửu (năm dương là 2009), kết quả thu được LÁ SỐ như dưới đây:
II.2/ TRÌNH TỰ TIẾN HÀNH:
Bước 1:
1.1- Xem tuổi và cung an mệnh có thuận lợi hay bất lợi: Dưong cư dương vị, âm cư âm vị là đắc vị thuận tốt. Nghịch vị cuộc đời hay gặp nhiều ngang trái – không được vui vẻ – hay bất mãn, bất đắc chí. Tuy nhiên nghich vị cũng thường giúp đương số nỗ lực vượt bậc để thành công.
1.2- Xét Cung Mệnh: Mệnh đóng tại Cung nào trong 12 Cung của Lá số để biết có được Sinh địa, Vượng địa hay bị Bại địa hoặc Tuyệt địa: Dựa vào Bảng 1
Bảng 1: Ngũ Hành của Bản Mệnh liên quan đến vị trí Cung an Mệnh:
BẢN MỆNH
CUNG MỆNH
Sinh Địa
Vượng Địa
Bại Địa
Tuyệt Địa
Kim
Tỵ
Dậu
Ngọ
Dần
Mộc
Hợi
Mão
Thân
Hỏa
Dần
Ngọ
Mão
Hợi
Thủy – Thổ
Thân
Dậu
Tỵ
Trường hợp Lá số này, Mệnh Hỏa đóng tại Cung Thân: Bình thường, không phải Sinh, Vượng địa cũng không bị Bại, Tuyệt địa. Mệnh tại Thân: Sao CHỦ MỆNH là LIÊM TRINH, Sao chủ Thân là THIÊN TƯỚNG (xem mục số 15, điểm D, ở phần KHÁI NIỆM trên)
Bước 2:
2.1- Xét sự thuận nghịch về lý âm dương giữa Năm sinh với vị trí cung an Mệnh để biết tổng quát tốt xấu của cung cần giải đoán. Trường hợp Lá số này, năm sinh Kỷ (- Thổ), Mệnh an cung Thân (+ Kim): Nghịch lý âm dương.
2.2- Xem sinh khắc ngũ hành giữa bản mệnh và cung an mệnh tức là xem địa lợi hay không để biết cuộc đời có được vững vàng hay mong manh, thành đạt dễ dàng hay trắc trở, kết quả lớn hay nhỏ, lâu bền hay ngắn ngủi:
Cung đồng hành hay sinh hành của mệnh là tốt.
Cung được mệnh sinh xuất là số lao đao
Cung bị hành mệnh khắc xuất là số chật vật, phải nỗ lực cố gắng nhiều mới thành đạt được.
Mệnh bị cung khắc nhập là xấu nhất, số bị thất bại gian nan và hoạn nạn.
2.3- Xét sự sinh khắc ngũ hành của Can Chi Năm sinh (Theo Bảng 2):
Bảng 2: ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH CỦA THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI
KIM
MỘC
THỔ
THỦY
HỎA
ÂM
Tân – Dậu
Ất – Mão
Sửu – Kỷ – Mùi -
Quý – Hợi
Đinh – Tị -
DƯƠNG
Canh - Thân
Giáp – Dần
Mậu – Thìn – Tuất
Nhâm – Tý
Bính – Ngọ
Trường hợp Lá số này: Can năm sinh Kỷ (- Thổ) Chi năm sinh Sửu (- Thổ): Tỉ Hòa!
2.4- Xét sự tương quan ngũ hành giữa bản Mệnh và Cục. Lá số đã cho: Mệnh là Hỏa (Tích lịch), Cục là Kim (tứ): Mệnh khắc Cục.
NHẬN ĐỊNH VỀ HÀNH CỦA BẢN MỆNH (MỆNH) VÀ CỤC VÀ TƯƠNG QUAN XUNG KHẮC
Khi tính sinh khắc giữa hành của Bản Mệnh và hành của Cục, thì đương nhiên hành của Mệnh phải được chọn làm gốc, hành Cục là phụ thuộc.
Hành Mệnh và hành Cục đồng hành: cả hai hành đều được hưng vượng lên (Vượng) nên tốt.
Hành Cục sinh hành Mệnh: hành Mệnh được hưng thịnh lên (Tướng) nên tốt.
Hành Mệnh sinh hành Cục: hành Mệnh bị suy yếu (Hưu) trong đó hành Cục được hưng thịnh (Tướng) nên không tốt cho bản Mệnh, xấu.
Hành Mệnh khắc hành Cục: hành Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù) nhưng không có hại, trung bình.
Sự sinh khắc trên đây là sự sinh khắc của ngũ hành chính. Chúng ta nên áp dụng nguyên tắc sinh khắc của Ngũ Hành nạp Âm mới chính xác hơn.
Số đẹp tốt đến đâu mà người:
Mộc Cục an Mệnh tại Ngọ – Chịu lắm tai ách vì sinh xuất
Hoả Cục an mệnh tại Dậu – Hay bị tai hoạ
Kim cục an mệnh tại Tý – Chịu thương tổn
Thuỷ cục an mệnh tại dần – Hay bị vấp váp trì trệ
Thổ cục an mệnh tại mão – Hay bị bệnh về máu huyết.
Mộc mệnh an ở Thân Dậu – Xấu vì bị khắc nhập
Hoả Mệnh an ở Tuất Hợi – Nhiều tai ách
Kim mệnh an ở Sửu Dần – Nhiều bệnh tật cho cả vợ con
Thuỷ Thổ mệnh an ở Thìn Tỵ – Hay bị tang tóc
2.5- Xem chính tinh miếu vượng đắc hay hãm. Miếu vượng, đắc gặp tuần triệt là xấu. hãm gặp tuần triệt án ngữ là tốt. Hành của chính tinh phải hợp hay sinh Hành bản mệnh vì tương quan giữa các chính tinh và mệnh thân về ngũ hành.
Chính tinh và Mệnh đồng Hành hay chính tinh sinh mệnh -> ảnh hưởng mạnh mẽ nhất. Mệnh sinh chính tinh ảnh hưởng mạnh nhưng đương số không có lập trường vững vàng hay thay đổi lập trường theo hoàn cảnh.Mệnh khắc chính tinh: Không bị ảnh hưởng của chính tinh
Chính tinh khắc mệnh -> Bị ảnh hưởng xấu nếu hành động theo tính chất của sao. Ví dụ mệnh hoả bị Phá quân thủ mệnh (thuỷ). Nếu hành động theo tính chất của Phá quân là thủ đoạn, phản phúc, bất trung, bất hiếu thì bị tai hoạ. Nếu ngay thẳng nhưng gặp môi trường thúc đẩy trở thành bất lương ngoài ý muốn thì cũng là bất lương.
Mệnh khắc chính tinh: Thì các trung tinh bàng tinh giữ vai trò quan trọng ví dụ Mệnh Kim có Thiên Cơ (Mộc) thủ mệnh thì Tả, Hữ, Xương, Khúc (nếu có) giữ vai trò quan trọng.
Hành
của Chính tinh nên hoà với hành của cung hay được hành của cung sinh hành của chính tinh mói tốt.
Sau đây là Bảng về HÀNH, VỊ TRÍ và TÍNH NĂNG CỦA CÁC SAO (Muốn biết cụ thể tính chất, tác dụng của sao nào thì Click chuột vào tên sao đó để xem):
SaoHànhVị trí Diễn giải
CỰ MÔNhttp://huyenhoc.awardspace.com/CuMon.htmThủyV:Tí, Ngọ, Mão, Dậu
Đ: Dần, Thân, Hợi
H: Tỵ, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Am tinh. Tính hay thay đổi, giỏi lý sự, chủ về thị phi và sự giàu có (nhà cửa).
LIÊM TRINHThủy M: Dần, Thân
V: Tý, Ngọ, Thìn, Tuất, Sửu,Mùi.

H: Tỵ, Hợi, Mão, Dậu
Hung tinh (chính trực quan). nóng nảy cương trực, liêm khiết.
PHÁ QUÂNThủy V: Tí, Ngọ.
Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Mão, Dậu, Dần, Thân, Tỵ, Hợi
Hung tinh, ngỗ ngược, hồ đồ, ưa nịnh hót. Chủ sự cướp phá.
THÁI ÂMThủyV: Tuất, Hợi, Tý,
Đ:Dậu, Thân, Sửu, Mùi
H: từ Dần đến Ngọ
Phúc tinh. thông minh. Chủ điền tài.
THÁI DƯƠNGHỏaV: Dần, Ngọ, Thìn
Đ: Mão, Tỵ, Sửu, Mùi
H: từ Thân đến Tý
Quý tinh. thông minh, khôn ngoan.Chủ quan lộc.
THAM LANGMộcV: Sửu, Mùi.
Đ:Thìn, Tuất, Dần, Thân
H: Tị, Hợi, Tý, Ngọ, Mão, Dậu
Hung tinh. Gian tham
THẤT SÁTKimV:Dần, Thân, Tí, Ngo.
Đ:Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi
H:Thìn, Tuất, Mão, Dậu
Hung tinh (quyền tướng). quyền biến, túc trí đa mưu; hãm thì nóng hay giết chóc. Chủ sự oai vũ.
THIÊN CƠMộcV:Thìn, Tuất, Mão, Dậu.
Đ: Tỵ, Thân, Mùi, Ngọ, Tý, Sửu
H: Dần, Hợi
Quý tinh, mưu trí tài năng, hiền hậu. Chủ về thời thế và sự biến hóa..
THIÊN ĐỒNGThủyV: Dần, Thân
Đ:Tí, Mão, Tỵ, Hợi
H: Ngọ, Dậu, Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Quý tinh. hiền vui, ôn hòa, nhu nhược
THIÊN LƯƠNGMộcV: Ngọ, Thìn, Tuất
Đ: Tí, Mão, Dần, Thân, Sửu, Mùi.
H: Tỵ, Dậu, Hợi
Thiên tinh, hiền lành trung hậu thật thà. Chủ thọ và thiện tâm.
THIÊN PHỦThổV: Tí, Ngọ, Dần, Thân
Đ:Thìn, Tuất, Mùi, Hợi
B: Sửu, Mão, Dậu
Quý tinh. thông minh, tiết hạnh. Chủ về tài bạch.
THIÊN TƯỚNGThủyH: Mão DậuQuí tinh. Chủ Quan, Lộc
Tối kỵ gặp Tuần , Triệt.
TỬ VIThổV: Tý, Ngọ, Dần, Thân
Đ: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Hợi, Tí
B: Mão, Dậu
Phúc quý tinh. chủ sự quyền quý.
VŨ KHÚCKimV: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
Đ: Dần, Thân, Tí, Ngọ, Mão, DậuH: Tỵ, Hợi
Tài tinh. Cương trực, liêm khiết, hiền lành, cần mẫn, chủ về tài.
Ân QuangMộcV: Sửu, Mùi
Đ: Mão Dậu
Quý tinh. Chủ sự ân huệ, giúp đỡ.
Bác sỹThủyCát tinh. chủ sự thông đạt, thâm thúy.
Bạch HổKimV:Dần, Thân, Mão, Dậu
H: Tuất.
Hại tinh. Chủ sự không lành.
Bát TọaMộcV: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.Đài các tinh. chủ sự vinh hiển thanh nhàn.
BệnhHỏaHung tinh, bệnh tật, khù khờ, nhầm lẫn..
Bệnh PhùThổHung tinh. chủ về bệnh tật.
Cô ThầnThổHung tinh. Lạnh lùng, khó tính, chủ sự cô đơn.
DưỡngMộcCát tinh. cẩn thận, chủ sự nuôi nấng.
Đà LaKim V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ: Tí, Hợi
H: Dần, Thân
Sát tinh. Nếu Đà la chiếu thì vạ miệng
Đại haoHỏaĐ:Dần, Thân, Mão, Dậu
H: Tý, Ngọ
Hại tinh. lơ đễnh, chủ sự hao tán.
Đào hoaMộcDâm tinh. chủ về tình và yểu.
Đẩu QuânHỏaHung tinh. Chủ điền tài.
Đế Vượng Cát tinh. chủ sự thịnh vượng
Địa KiếpHỏa Đ:Dần, Thân, Tị, Hợi.
H: Thìn, Tuất.
CUNG MỆNH có Kiếp : gian phi, vô hạnh, mọi việc đều hoàn toàn thất bại.
Địa Không Đ:Dần, Thân, Tị, Hợi.
H: Thìn, Tuất.
Sát tinh. nghèo cùng, cô độc, hiểm ác. MỆNH có Địa không độc thủ: bần cùng
Địa Võng
Am tinh. chủ sự giam bắt, cản trở. Võng ngộ hung thành cát, ngộ cát thành hung
Điếu KháchHỏaPhóng đãng tinh. khoe khoang khoác lác
Đường phù Cát tinh, chủ sự thanh tịnh.
Giải ThầnMộcThiện tinh. độ lượng hay giúp đỡ cứu vớt người.
Hoa CáiKim V: TíĐài các tinh. ưa sa hoa lộng lẫy, hay làm bộ..
Hóa KỵThủy Đ: Thìn, Tuất, Mão, Dậu, Thân.
H: Tí, Sửu, Ngọ, Hợi
Ac tinh. hay ích kỷ, ghen ghét rất ác và thâm hiểm.
Hóa QuyềnThủy Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Tí, Ngọ, Thân, Dậu, Hợi.
Quý tinh. chủ sự có quyền.
Hóa KhoaThủy Đ: Dần, Thân, Hợi
H: Tý, Dậu
Cát tinh. chủ khoa giáp
Hóa LộcMộc Đ:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi
H: Tý, Ngọ, Thân, Dậu
Tài Tinh. chủ về tài lộc.
Hỏa TinhHỏaĐ:Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, TuấtH: TýSát tinh. táo bạo nóng nảy lanh lẹ phá phách.
Hữu BậtThổ Đ : Tị, Hợi, Sửu, Mùi. Mão, Dậu.Chủ sự giúp đỡ, ngộ cát phù cát, ngộ hung phù hung.
Hồng Loan Đ: Tí, Thìn, Ngọ. Cát tinh, chủ sự mừng và nhân duyên.
Hỷ ThầnHỏaCát tinh. Chủ sự vui mừng và thọ.
Kiếp SátHỏa Đ:Tí, Hợi, Dần, Thân
H: Mão, Tị, Ngọ.
Ac tinh, nóng nảy, độc ác, bất chính, chủ sự phá hoại.
Kình DươngKim V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ:Tí, Hợi, Dần, Thân.
H: Mão, Tí, Ngọ.
Sát tinh, ác, hùng hổ, lăng nhăng. (Kình tối kỵ Quan, Thê, Tử)
Lâm Quan Cát tinh, đàng hoàng, chủ sự làm ăn.
Linh TinhHỏa Đ: Dần … Mùi
H: Tí, Hợi.
Sát tinh
Lộc TồnThổ V: Tí, Ngọ, Thân, Dần, Mão, Dậu. Tài tinh. giàu có, hiền lành, đôn hậu. Chủ sự tài lộc
Long ĐứcThủyCát tinh
Long TrìThủyCát tinh. chủ về khoa giáp và hỷ sự.
LN Văn TinhHỏaVăn tinh. thông thái chủ về văn học.
Lực SỹHỏaVõ tinh, chủ về sức mạnh uy quyền.
Lưu HàThủyHung tinh. thâm hiểm, chủ thủy tai.
MộThủyHung tinh. chủ sự nghiệp quả.
Mộc DụcThủyPhóng đãng tinh. Chủ sự phong tình.
Nguyệt ĐứcHỏaCát tinh. Chủ sự cứu giúp.
Phá ToáiHỏaHung tinh. chủ sự phá hoại
Phi LiêmHỏaCát tinh. chủ sự mau lẹ, thịnh tiến.
Phong CáoThổCát tinh. Chủ bằng sắc công danh.
Phượng CácThổ V:Sửu, Mùi, Mão, DậuCát tinh. Chủ sự hiển vinh lâu dài.
Phục BinhHỏaAc tinh. gian ác, hiểm sâu. Chủ sự lừa đảo.
Phúc ĐứcThổCát tinh. thật thà, chất phác, từ thiện.
Quả TúThổV: HợiHung tinh. Chủ sự cô đơn.
Quan PhùHỏaH: Tí, HợiGian tinh. Chủ sự hèn hạ.
Quan PhủHỏaGian tinh. hèn hạ gian nịnh.
Quốc ẤnThổQúy tinh. Chủ sự quyền quý.
SuyThủyHung tinh. Chủ sự suy bại
Tả PhùThổ V:Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Đ: Dần, Thân, Tị, Hợi, Mão, Dậu.
Hộ tinh. Chủ sự giúp đỡ, ngộ cát phù cát, ngộ hung phù hung.
Tam ThaiHỏaĐài các tinh. Chủ sự hiển vinh lâu dài.
Tang MônMộcHại tinh. Chủ sự tang thương.
Tấu ThưKimVăn tinh. Chủ về văn thư.
ThaiThổ Đ: Sửu, Tuất.Thìn.Cát tinh. chủ sự tái sinh
Thai PhụThổVăn tinh. Chủ sự danh vọng.
Thái TuếHỏaH . Thân, Dậu.Hung tinh. chủ sự đa đoan, khẩu thiệt.
Thanh LongV:Thìn, Tuất, Sửu, MùiQuý tinh. chủ sự tiến phát.
Thiên RiêuThủyV:Mão, Dậu, Tuất, Hợi.Phóng đãng tinh: chơi bời phóng đãng.
Thiên ĐứcHỏaPhúc tinh. Chủ sự từ bi. Thiên Đức đóng cung nào gieo phúc cho cung đo
Thiên GiảiHỏaThiện tinh. Chủ sự việc giải trừ tai ách.
Thiên HìnhHỏaV:Dần, Mão, Dậu, Tuất.Hung tinh. Chủ sự hình phạt
Thiên HưThủyHại tinh. sai ngoa, bất chính
Thiên HỷThủyCát tinh. vui vẻ, ôn hòa, chủ sự mừng.
Thiên KhốcThủyV: Tí, Ngọ.
Đ : Sửu, Thân
Hại tinh. chủ sự đau thương thảm khốc.
Thiên KhôiHỏaQuý tinh. thông minh, chủ về khoa giáp.
Thiên KhôngHỏaV: Tí, Hợi,Đ : Dần,
H: Thìn, Tuất
Sát tinh. gian hùng mà chẳng nên việc gì. Chủ sự thất bại.
Thiên LaAm tinh. chủ sự giam bắt cản trở.
Thiên MãHỏaV: Dần (Quý tinh)
Đ: Tỵ, Thân, Hợi
Tài năng hoạt bát. Chủ sự hoạt động.
Thiên QuanThiên PhúcHỏaPhúc tinh: chủ sự phò nguy cứu khổ.
Hai sao này đóng đâu cứu khổ cứu nạn ở đó.
Thiên QuýThổQuý tinh. Chủ sự giúp đỡ
Thiên SứThủyHung tinh. chủ sự không may.
Thiên TàiHộ tinh. Phù suy không phù thịnh; chế ngự các sao xấu mà ngăn ngừa cả sao tốt.
Thiên ThọThọ tinh. Chủ thọ.
Thiên ThươngThủyHung tinh. Chủ sự đau thương, nguy khốn.
Thiên TrùCát tinh. Thiên trù gặp Lộc ở cung Tài : tốt.
Thiên ViệtThiên KhôiHỏaQúy tinh. Thanh bạch, khoan hòa, thông minh tài giỏi.
Thiên YThủyTrung tinh. Chủ việc thuốc thang.
Thiếu ÂmThủyCát tinh. Lạnh lùng hơi thông minh.
Thiếu DươngHỏaCát tinh. Dịu dàng, ôn hòa thông minh
Tiểu HaoHỏaSát tinh. hoang phí, chủ sự hao tán
Tràng SinhThủyQuý tinh. từ thiện, độ lượng, chủ thọ
TRIỆTThủyV:Dần, Thân, Mão, DậuBạo ngược, khắc khe. Chủ sự triệt hại.
Trực PhùKimGian tinh. gian tà, nhỏ mọn.
TUẦNThủyV:Dần, Thân, Mão, DậuÁn Tinh
Tuế PhaHỏaHung tinh. Chủ sự phá hoại.
TuyệtThổHung tinh. Chủ sự hết.
TửHỏaHung tinh. Chỉ sự chết.
Tử PhùKimHung tinh. Chủ sự nguy cùng. biểu hiện sự chết.
Tướng QuânMộcVũ tinh. Chủ sự binh quyền.
Văn KhúcThủyVăn tinh. văn chương, chủ khoa giáp
Văn XươngKimVăn tinh. Thông minh có tài văn chương; chủ khoa giáp.




2.6- Xem phối hợp cung nhị hợp với cung an Mệnh-Thân. Nhị hợp (còn gọi là Lục hợp) trong 12 chi. Qui tắc lục hợp được tính theo từng cặp như sau : Ngọ - Mùi ; Tỵ – Thân ; Thìn -Dậu ; Mão – Tuất ; Dần – Hợi; Sửu – Tý
Trong Tử Vi 12 cung Địa bàn cũng tính nhị hợp như nguyên lý trên .
Mệnh an tại Tý, Ngọ thì hợp Phụ Mẫu + Mệnh an tại Tỵ ,Hợi thì hợp Điền Trạch
Mệnh an tại Sửu ,Mùi thì hợp Huynh Đệ + Mệnh an tại Thìn ,Tuất thì hợp Nô Bộc
Mệnh an tại Mão , Dậu thì hợp với Tật Ách + Mệnh an tại Dần , Thân thì hợp với Tử Tức. Nhiều nhà nghiên cứu TV cho rằng , mệnh hợp với cung nào thì cả cuộc đời đường số luôn bận tâm suy nghĩ đến cung đó .
Trường hợp Lá số này: Mệnh an Cung Thân: Người này hợp với Tử tức. Cung nhị hợp với cung Thân là cung Tị (cung Tử tức)2.7- Xem cách cục để biết số thuận cách cục nào tức là xem các sao an mệnh phối hợp với cung xung chiếu (Di) hai cung hợp chiếu (Tài, Quan) hai cung giáp (Phụ, Huynh) và cung nhị hợp.
Xem mệnh và Thân đều như vậy.
Mệnh định số mạng thọ yểu sang hèn.
Thân định sự hưởng thụ của cuộc đời.
2.8- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Thái Tuế trên lá số
2.9- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Lộc Tồn trên lá số
2.10- Xem vị trí của tam hợp hai cung Mệnh/Thân và vòng Tràng Sinh trên lá số
Phải xét qua tất cả các yếu tố trên rồi phối hợp lại để đưa ra lời lý giải tổng quát về những nét đại cương của cuộc đời cho lá số.
Bước 3: Xét 4 Cung “Tam phương tứ chính” xem có được “CÁCH” gì không? Trường hợp Lá số này “Tam phương tứ chính” gồm các Cung: THÂN – TÝ – THÌN – DẦN. Được CÁT CÁCH “Tử Phủ triều viên” (Sao Tử vi (Thìn) và sao Thiên tướng (Thìn) hợp chiếu Cung Mệnh (Thân): Đây là lá số của người thanh cao, vừa có phúc vừa được thọ, vật chất đầy đủ, hưởng lộc dồi dào. Lại được thêm các sao Thiên khôi, Thiên việt, Quyền và Lộc hội chiếu, nên rất tốt! Phần PHỤ LỤC cuối tài liệu này sẽ cung cấp cho ta CÁC “CÁT CÁCH”, CÁC “HUNG CÁCH”, CÁC “ÁC CÁCH”… Sau khi tải được Lá số từ trang Web đã nói ở phần trên, chúng ta chỉ việc đối chiếu với những “Cách” nêu cụ thể và chi tiết ở phần PHỤ LỤC này, là sẽ xác định được Lá số đó có được Cách gì không, Cách đó cho ta những thông tin gì về chủ nhân Lá số? Cụ thể ở Lá số của ví dụ này có: Liêm trinh tọa Mệnh tại Thân. Cung “tam hợp” có Tử vi (ở cung Tài bạch) và Thiên phủ (ở cung Quan lộc), đối chiếu Phụ lục III, được Cát cách “TỬ PHỦ TRIỀU VIÊN” – Cát cách số 2: Người thanh cao, phúc thọ, hưởng lộc dồi dào “Tử Phủ triều viên thực lộc vạn chung“.
Bước 4: Xem ý nghĩa và đặc tính của Chính tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại cung Mệnh và Thân.
a/Mệnh cần căn cứ sao Tử vi để dự đoán: Tử vi miếu vượng hóa Cát là cực tốt; nếu hãm địa lại cực Hung. Tử vi cần đi kèm Tả phù Hữu bật, Thiên tướng, Khôi, Việt, Thái dương, Thái âm và Lộc tồn (Tử vi có Lộc tồn, Thái dương Thái âm tam hợp chiếu:giầu sang hết chỗ nói). Tử vi thiếu Tả, Hữu (2 đại thần) thành Cô quân. Tử vi gặp nhiều sao Hung thành vua bất nhân.
b/
Sao Thiên cơ là Thiện tinh, sao trí tuệ. Thiên cơ giữ Mệnh lại thêm các sao Tốt thì rất dễ thành công, đa mưu túc trí. Với Nữ giới: Mệnh có Thiên cơ thì Hung càng thêm Hung; nếu có Thiên lương nữa thì là người khéo léo, tháo vát, giỏi nội trợ. c/ Thái dương ở Mệnh là Quý khí của con người, có tài văn tài võ. Hội tụ các sao Tốt thì giáng phúc, hội tụ các sao xấu thì uổng công. Thái dương nằm tại Mệnh miếu địa: Công danh rạng rỡ. Cung Quan lộc có Thái dương: Cực tốt. mệnh Nữ có Thái dương thì chồng tốt, thêm Thái âm thì phú quý song toàn. d/ Vũ khúc chủ tiền bạc ở cung Tài bạch. Chủ về tuổi thọ ở Mệnh. Vũ rất sợ bị chế hãm, rất cần Lộc tồn và ưa sao Thái âm; lấy 2 sao Thiên phủ và Thiên lương làm trợ lực. Gặp Lộc, Mã thì phát tài, gặp Tham lang thì thiếu niên bất lợi, gặp Dương, Đà thì cô khắc, gặp Phá quân thì khó hiển đạt, gặp cùng cung có Thất sát, Hỏa tinh thì vì tiền bạc mà gặp họa. Vũ khúc thủ Mệnh thì người cương cường, quả đoán. Tuổi Giáp, Kỷ: Phúc hậu nếu thêm Tham, Hỏa xung phs thì là Quý cách. Nữ mệnh gặp Cát tinh: bậc quý phụ; gặp Sát xung phá: Cô khắc. đ/ Thiên đồng chủ Cung Phúc đức. Gặp nhiều Cát tinh thêm phúc đức, liêm khiết, nhiều ý chí và bất chấp Thất sát. Gặp Tả, Hữu Xương Lương thì hiển quý. Rất tốt cho người tuổi Nhâm, Ất. Nữ mà có thiên đồng bị Lương, Âm xung phá thì làm lẽ và đi tu. e/ Liêm trinh chủ về không trọng lễ nghĩa. An tai Mệnh thì số đào hoa. Đắc địa gặp Lộc tồn thì Phú quý, gặp Văn xương thì lịch thiệp, gặp Thất sát thì phát về Võ. Nếu không được chỗ miếu vượng lại phạm Quan phù thì hóa khí thành tù. Liêm đồng cung Tham ở Tị và Hợi thì dù phát đạt bao nhiêu cũng đổ vỡ. f/ Thiên phủ chủ về Quyền và Phúc, thọ Mệnh, giải ách. Phò tá cho Tử vi, nắm giữ Tài bạch, Điền trạch. Có khả năng chế phục Kình, Đà, cải hóa Hỏa, Linh. Chủ tướng mạo thanh tú. Hội cùng Thái dương, Xương, Khúc thì dễ khoa bảng; gặp Lộc tồn vũ khúc thì phú quý; Rơi Không vong Tứ sát thì bị cô lập. Mệnh Nữ có Thiên phủ thủ Mệnh: Vui vẻ, vượng chồng ích con; dù gặp xung sát cũng yên. g/ Thái âm Đắc địa là người Thông minh, hiền lương.Ở Mệnh miếu vượng thì phú quý. Nếu ở cung Dậu là hội nhiều sao Tốt, thêm thái dương ở Mão chiếu sang: Đại phúc. Hãm lại gặp ác sát: nghèo khổ, tàn tật (Rất sợ Dương Đà đồng cung, sợ Liêm phạm Thất sát xung phá dễ bị tàn tật). Thái âm tuy là sao thuần hòa nhưng nếu thiếu ánh sáng sẽ thành Hung tinh. h/ Tham lang là thần chủ Họa, Phúc. Tại Mệnh ưa phóng đãng, gặp sao tốt thì phú quý, gặp sao xấu thì hư họa, mưu mô. Miếu gặp Hỏa, Linh: Võ chức quyền quý. i/ Cự môn ở Mệnh thường chiêu nạp tai tiếng thị phi, ám muội, đa nghi. k/ Thiên tướng ở Mệnh chủ nhiều tiền, dáng cao lớn, nghiêm nghị, dễ thăng chức. Hạn gặp Tướng: hóa dữ thành lành. l/ Thiên lương là sao coi việc thọ, yểu. An Mệnh: tính nghiêm nghị, dáng người đầy đặn, lòng chính trực. m/ Thất sát ở Mệnh: Nên làm tăng đạo; Vận hạn xấu thường chết yểu. Tốt nhất khi ở cung Quan lộc.
n/ Phá quân tại số là hao tinh, chủ Hung bạo, xảo trá, khó hợp với ai. Tuổi Giáp, Quý mà hợp cách thì phú quý. Nữ Mệnh bị Phá quân xung phá thì dâm đãng. o/ Văn xương chủ về khoa giáp. Lợi ở Thìn, Tị, Ngọ; bất lợi ở Mão, Dậu. Ở Mệnh: Người thanh tú, nho nhã, nhất cử thành danh, phúc thọ song toàn. Gặp Thái dương Thái âm hoặc thêm Quyền, Lộc dễ thành danh. p/ Văn khúc chủ về khoa giáp văn chương. Ở Mệnh: người hào hoa phong nhã (nhưng nếu đứng một mình thì thành Hung: thành vô danh tiểu tốt) Văn khúc sợ gặp Phá quân, Tham, Sát, Hình, Kị. Hợp nhất là Văn khúc đóng cung Quan. Mệnh Nữ không nên có Văn khúc. q/ Tả phù thủ Mệnh thì giáng Phúc, dung mạo đôn hậu khảng khái, phong lưu. r/ Hữu bật thủ Mệnh chủ văn bút tinh thông. Tả và Hữu đều cần có Vua để phù tá, không vua thành vô dụng. 2 sao này đứng cạnh Tử vi Thiên phủ thì tước lộc rất lớn. s/ Thiên khôi Thiên việt: Khôi lâm Mệnh thì Việt cư Thân. Chủ cung Mệnh thì sang quý. t/ Lộc tồn là vị tinh tú chân nhân, phò Đế tướng để tăng uy quyền, phò Nhật Nguyệt để tăng độ sáng. Ở Mệnh (Điền và Tài) thì phú quý. u/ Thiên lâm Mệnh gọi là Dịch mã, cần có Tử, Phủ, Xương, Khúc thủ chiếu thì mới Cát. Lâm Đại Tiểu hạn gặp Tử Phủ lưu Xương thì càng lợi. Cùng cung với Lộc tồn gọi là Lộc Mã song hành, cùng Tử Phủ: Phù liễn mã, cùng Hình, Sát: Phù thi mã, cùng Hỏa tinh: Chiến mã, cùng cung Đà la: Chiết túc mã, ở cung Tứ Huyệt: Tử mã: Nếu người phạm phải các số trên thì nhiều bệnh tật. v/ Hóa lộc là sao Phúc đức. Ở đâu tốt đấy. x/ Hóa quyền nắm quyền sinh sát. Ở đâu cũng tốt. y/ Hóa khoa là thần cai quản thi cử, văn chương. Thủ Mệnh gặp Quyền Lộc thì hoạn lộ phú quý. z/ Hóa kị thủ Mệnh thì một đời bất thuận. j/ Kình thủ Mệnh: Người thô bạo; Đà thủ Mệnh: Bất chính; Hỏa (đại sát tinh) thủ Mệnh: diện mạo có nhiều đặc điểm, tính cương cường, xuất chúng. Không nên ở các Cung khác, nếu gặp Dương, Đà tuổi nhỏ gian truân; Linh (đại sát tinh) thủ Mệnh: tướng mạo kì dị, nhưng có nét oai nghiêm nếu gặp Tham lang: Công danh hiển đạt. Miếu địa thì rất tốt, Hãm thành kẻ cô hàn; Thiên không, Địa kiếp thủ Mệnh: Gặp Cát tắc Cát, gặp Hung tắc Hung; Thiên hình thủ Mệnh: Nếu không đi tu thì cũng cô độc.
Xem ý nghĩa và đặc tính của các Trung tinh và Phụ tinh tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp của cung Mệnh-Thân. Xét ý nghĩa, đặc tính, vị trí và sự đắc hãm của các Hung Sát tinh trên lá số. Xem ảnh hưởng của các Hung Sát Bại tinh (nếu có) tọa thủ, hợp chiếu và nhị hợp tại các cung quan trọng như tại ba cung Mệnh-Tài-Quan, cung an Thân và cung Phúc Đức.
Hãm hay đắc của sao thì không liên quan đến hành khí của sao mà chỉ liên quan đến tính chất xấu hay tốt mà sao đem lại. Sao đắc hãm tại các vị trí khắc nhau, và tuỳ theo tính chất đắc vượng miếu hay hãm mà mang ý nghiã khắc nhau. Ý nghiã xấu tốt của sao không thể thay đổi, trừ khi gặp Tuần hay Triệt. Một sao đã hãm địa không thể trở nên đắc địa cho dù hành khí của sao có thay đổi do tương quan sinh khắc giữa sao với các sao khác hay với Mệnh và cung. Còn hành khí của sao có thịnh lên hay giảm xuống thì căn cứ vào tương quan giữa hành sao với các sao khác, hành sao với và hành cung, hành sao và hành Mệnh. Khi hành khí của sao thịnh lên thì ảnh hưỡng tốt xấu của sao được phát huy mạnh mẽ hơn, nhưng bản chất xấu tốt của sao vẫn giữ nguyên vẹn. Khi hành khí của sao bị suy giảm thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao sẽ bị suy yếu đi, nhưng tính chất xấu tốt của sao vẫn không thể thay đổi. Tóm lại đắc hãm của sao nói về tính chất của sao, còn hành khí của sao thịnh hay suy nói về cường độ ảnh hưỡng mạnh hay yếu.
Cát tinh sáng sủa thì thường mang tính chất tốt. Càng sáng thì thông thường càng có nhiều tính chất tốt. Cát tinh hãm địa thì mang tính chất xấu. Xấu nhưng không quá xấu vì là cát tinh, là sao chủ yếu mang đến điều tốt lành.
Hung tinh thường mang ý nghiã xấu hung hãn, gây tai họa. Hung tinh đắc địa thì tuy có mang tính chất tốt nhưng không trọn vẹn như cát tinh vì cũng còn có tính chất xấu đi kèm. Hung tinh hãm địa thì ý nghiã xấu càng trở nên mãnh liệt.
Sao an theo năm (theo Can, Chi) thì có tác dụng lâu dài bền bỉ. Sao an theo tháng thì tác dụng cũng ngắn hơn, còn sao an theo giờ thì phát huy nhanh chóng tạm thời.
Khi luận giải, phải lấy hành bản Mệnh làm gốc để luận đoán.
Có bốn nguyên tắc được sắp xếp theo thứ tự quan trọng cần để ý.
NGUYÊN TẮC THỨ NHẤT: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, xét tương quan giữa hành sao và hành Mệnh. Hành Mệnh là hành của năm, nghiã là lấy hành khí đang cực thịnh của năm làm chủ. Năm Mộc thì khi ấy Mộc phải vượng không thể yếu được. Xét sự sinh khắc giữa hai hành thì căn cứ vào câu phú sau:
Đồng sinh thì Vượng (cùng một hành khi gặp nhau thì Vượng, cả hai hành đều mạnh lên, hưng thịnh lên).
Sinh ngã thì Tướng (gặp hành khắc sinh ra ta (ngã) thì ta Tướng, ta tốt lên nhiều phần).
Ngã sinh thì Hưu (ta sinh cho hành khắc thì không thành, không tăng, không hưng thịnh lên mà lại giảm, bị suy yếu, hao tổn, ta không được lợi gì, vô dụng).
Ngã khắc thì Tù (ta khắc hành khác thì ta tù, nghiã là bị giam cầm, bó tay không hoạt động).
Khắc ngã thì Tử (ta gặp hành khắc ta thì ta chết).
Vận dụng qui luật sinh khắc này vào sự sinh khắc giữa hành sao và hành Mệnh ta có:

Hành sao sinh hành Mệnh: hành sao bị hao tổn, bị giảm (Hưu) nên ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị yếu đi. Mệnh được hưng vượng lên (Tướng) chứng tỏ Mệnh được sao phu sinh, nghiã là sao làm lợi cho Mệnh cho dù là cát tinh hay hưng tinh. Nếu là cát tinh sáng sủa thì đưa đến lợi ích trọn vẹn cho Mệnh. Nếu là cát tinh lạc hãm thì do sao có tính chất xấu nên Mệnh tuy cũng hưỡng lợi ích nhưng không toàn vẹn. Nếu là hung tinh sáng sủa thì các tính chất tốt xấu của nó cũng khiến bản Mệnh hưng thịnh. Nếu là hung tinh lạc hãm thì cũng ít bị nguy hại hơn vì hành sao bị hao tổn nên phát huy yếu ảnh hưỡng xấu của nó, trong khi bản Mệnh lại được hưng thịnh. Cho dù gặp sao xấu hay tốt, bản Mệnh vẫn vững vàng hưng thịnh lên vì bản Mệnh được sinh nhập (Tướng). Do đó người ta thường nói hành sao sinh hành Mệnh thì tốt. Người có hành sao sinh hành Mệnh là người được sao trợ giúp, sao không thể tác họa mạnh đến bản Mệnh.
Hành sao đồng hành với hành Mệnh: cả hai đều được hưng vượng lên (Vượng). Mọi ảnh hưỡng tốt xấu của sao lên Mệnh đều hưỡng trọn vẹn. Cát tinh hay hung tinh vẫn phát huy mạnh mẽ hơn ảnh hưỡng của chúng. Tuy nhiên bản Mệnh vẫn được on có vì hành khí của bản Mệnh được hưng thịnh lên, nghiã là sao đó thuộc về mình, mình hoàn toàn chủ động, Mệnh mang những đặc tính của sao. Do đó hành sao đồng hành với bản Mệnh thì tốt nhất, Mệnh chỉ huy được sao một cách trọn vẹn.
Hành Mệnh sinh hành sao: hành khí của sao hưng thịnh lên (Tướng), trong khi đó bản Mệnh bị hao tổn (Hưu). Hành khí của sao hưng thịnh lên nhưng không có lợi ích gì cho bản Mệnh vì bản Mệnh bị suy tổn. Cho dù cát tinh sáng sủa đi chăng nữa cũng không đem lại lợi ích cho Mệnh mà còn làm cho Mệnh bị hao tổn khi sao phát huy tính chất của nó. Hung tinh lạc hãm khi phát huy tính chất của nó thì còn gây bất lợi cho Mệnh nhiều hơn do các tính chất xấu của nó. Do đó Mệnh không chỉ huy được sao, bị hao tổn do các ảnh hưỡng xấu tốt của sao gây ra.
Hành sao khắc hành Mệnh: hành khí của sao vẫn giữ nguyên, nhưng bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù). Bản Mệnh bị hao tổn, thiệt hại rất nhiều (Tủ), bị chết, có nghiã là gây nhiều điều bất lợi đến cho bản Mệnh. Cho dù cát tinh miếu vượng thì mọi tính chất tốt đẹp của sao cũng làm cho Mệnh bị mệt mõi, tuy là cát nhưng lại không đem điều gì tốt lành đến Mệnh. Tuy nhiên vì là cát tinh nên điều tai hại mang đến cũng đở lo. Còn nếu là hung tinh thì thật là bất lợi cho Mệnh. Nếu là hung tinh đắc địa thì các tính chất tốt xấu lẫn lộn của nó cũng làm bản Mệnh bị nguy hại. Nếu là hung tinh hãm địa thì tính chất xấu của nó càng làm bản Mệnh càng thêm bị nguy hại. Hung tinh lạc hãm khắc hành bản Mệnh dễ mang lại tai họa cho Mệnh nhất. Do đó hành sao khắc hành Mệnh thì xấu nhất vì sao hoàn toàn chủ động gây bất lợi cho bản Mệnh, cho dù là cát tinh.
Hành Mệnh khắc hành sao: hành sao bị tổn hại suy yếu, bị chết (Tủ) nên cường độ ảnh hưỡng xấu tốt của sao bị giảm rất nhiều trong khi Bản Mệnh bị giam cầm bó tay không hoạt động được (Tù), nghiã là Mệnh không chỉ huy sao, không coi sao đó là thuộc về mình. Nếu là cát tinh sáng sủa thì cũng không mang đến điều lợi cho Mệnh là bao. Nếu là cát tinh hãm địa thì Mệnh cũng ít chịu ảnh hưỡng tính chất xấu của sao. Nếu là hung tinh đắc địa thì tính chất đắc của hung tinh bị suy giảm nhiều nên phát huy tác dụng rất yếu, thành ra Mệnh cũng hưỡng ít tính chất xấu tốt lẫn lộn của sao. Còn nếu là hung tinh lạc hãm thì tính chất xấu của hung tinh bị yếu đi nhiều do đó Mệnh rất ít bị ảnh hưỡng hơn. Do đó hành Mệnh khắc thắng hành sao (khắc xuất) thì ảnh hưỡng xấu tốt của sao lên Mệnh không còn là bao do hành sao bị suy yếu rất nhiều trong khi hành Mệnh bị giam cầm không hoạt động được.
Vi dụ:
Vũ Khúc là tài tinh, hành Kim.
Vũ Khúc sáng sủa. Mệnh Kim và Thuỷ thì tiền bạc tốt, mệnh Hỏa thì không hưởng là bao, Mệnh Mộc thì tuy có hưởng tiền bạc nhưng lại khiến cho Mệnh bị mệt mỏi vì tiền bạc, Mệnh Thổ thì tiền bạc chỉ đem tai hại đến bản Mệnh.
Không Kiếp hành Hỏa.
Không Kiếp đắc địa, chủ bạo phát bạo tàn. Mệnh Hỏa bạo phát bạo tàn. Mệnh Thổ phát ít đi nhưng cũng ít suy hơn vì bản Mệnh được hưng thịnh lên. Mệnh Mộc thì phát mạnh nhưng không ích gì cho Mệnh, bạo tàn. Mệnh Kim thì việc phát đem tai họa đến cho Mệnh. Mệnh Thuỷ thì phát ít hơn so với các Mệnh khắc nhưng tai hại đem đến cho Mệnh cũng không có là bao.
Không Kiếp hãm địa, chủ hung họa. Mệnh Hỏa ít bị nguy hại. Mệnh Thổ ít bị nguy hại nhất. Mệnh Mộc thì bị nguy hại. Mệnh Kim bị hung họa nhiều nhất. Mệnh Thuỷ thì ít bị nguy hại nhất.
NGUYÊN TẮC THỨ HAI: xét tương quan giữa hành Mệnh và hành cung để xét đoán Mệnh thịnh hay suy. Mệnh thịnh thì tốt, điều xấu có xãy ra cũng dễ thoát khỏi. Mệnh suy thì xấu, điều xấu xãy ra khó thoát khỏi tai ương họa hại.
Hành cung sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh nên tốt nhất (Tướng).
Hành cung hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên nên tốt (Vượng).
Hành cung khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nên xấu nhất (Tử).
Mệnh khắc hành cung: hành bản Mệnh tuy khắc tháng nhưng bản Mệnh không được lợi ích gì cả, bị giam cầm không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành cung: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán nên xấu (Hưu).
Cần chú ý hành Mệnh ta nên đi sau phân biệt là Âm hay Dương. Ví dụ Dương Mộc là hành Mộc đang thịnh, nếu sinh xuất cho cung thì cũng đở xấu hơn Âm Mộc. Hơn nữa, hành cung cũng có Âm Dương. Nếu Mộc Mệnh sinh xuất cho cung Ngọ Dương Hỏa thì Mệnh bị tổn hại nhiều hơn là sinh xuất cho Âm Hỏa.
NGUYÊN TẮC THỨ BA: xét tương quan giữa hành của tam hợp cục của cung an Mệnh (THCM) với hành bản Mệnh. Phải lấy hành bản Mệnh làm gốc.
THCM sinh hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh (Tướng) nên tốt nhất.
THCM hòa hành Mệnh: hành bản Mệnh hưng thịnh lên (Vượng) nên tốt.
THCM khắc hành Mệnh: hành bản Mệnh bị suy tổn nhiều, bị chết (Tủ) nên xấu nhất.
Mệnh khắc hành THCM: hành bản Mệnh tuy khắc thắng nhưng chẳng được lợi ích gì cả vì Mệnh bị bó tay, không hoạt động được (Tù).
Mệnh sinh hành THCM: hành bản Mệnh bị tiết khí hao tán (Hưu) nên xấu.
Ví dụ:
Mạng Thuỷ, Mệnh cư Tí có Phá Quân Thuỷ thì hay hơn Mệnh cư Ngọ vì tam hợp Thân Tí Thìn thuộc Thuỷ, còn tam hợp Dần Ngọ Tuất thuộc Hỏa.
Thất Sát Kim miếu tại Dần Thân, Mạng Kim tốt hơn mạng Mộc vì nguyên tắc thứ nhất quan trọng hơn nguyên tắc thứ ba. Mạng Kim thì hành sao đồng hành với Mệnh, nhưng THCM khắc bản Mệnh. Mạnh Mộc thì hành sao khắc Mệnh nhưng được THCM sinh bản Mệnh cũng đở phần nào.
Không Kiếp miếu địa tại Tỵ Hợị Tại Tỵ thì tốt hơn tại Hợi tuy cung miếu địa nhu nhau vì hành cung đồng hành với hành sao. Nếu Mệnh là Thổ hay Hỏa thì hưỡng mạnh nhất nghiã là phát rất nhanh và mạnh, lên nhanh xuống nhanh. Mệnh Kim thì sự phát trợ nên vô dụng vì Hỏa khắc Kim nên bản mệnh bị hao tổn. Hành Mộc thì cũng phát mạnh mẽ nhưng khó tránh sự thăng trầm tai họa vì Mệnh bị tiết khí. Hành Thuỷ thì hưỡng sự phát ít nhưng phá ít đi vì Thuỷ khắc Hỏa.
Thất Sát miếu địa tại Dần bị Tuần, Kim Mệnh, người Dương Nam. Do bị Tuần áp đảo mạnh mẽ đến 80% sau 30 tuổi, sao Kim lại kỵ Tuần nên các ý nghiã tốt của Thất Sát bị đão ý nghiã. Do Mạng Kim đồng hành với hành sao nên người mạng Kim sẻ hưỡng trọn vẹn tính chất xấu của Thất Sát bị Tuần. Nếu là Hỏa Mệnh thì Hỏa Khắc Kim, thì ý nghiã xấu của Thất Sát bị Tuần trợ nên ít đi.
NGUYÊN TẮC THỨ TƯ: xét tương quan giữa hành cung với hành sao. Nguyên tắc này tương đối không quan trọng, chỉ mạng ý nghiã gia giảm chút đỉnh.
Các sao đắc hãm không phụ thuộc vào ngũ hành của cung mà phụ thuộc vào vị trí của nó trên thiên bàn và sự phối chiếu hay đồng cung với sao khác. Do đó cần xem xét sự tương quan sinh khắc giữa hành sao và hành cung để coi sức phát huy ảnh hưỡng của sao như thể nào. Hành của sao phải thịnh thì ảnh hưỡng tốt hay xấu mới phát huy trọn vẹn. Luôn luôn lấy hành cung làm gốc để luận đoán vì hành cung là dat hay địa thể mà sao lâm vào. Cho dù hành sao có như thế nào cũng không thể làm suy yếu hành cung hay nói khắc đi hành cung là nói hành khí nơi nó vượng nhất, như Dần Mão thuộc Mộc thì cung Dần và Mão là nơi Mộc vượng. Sao Mộc ở đó thì hành khí không bị thay đổi. Khi Mộc Vượng thì Hỏa Tướng, như vậy hành khí sao Hỏa được hưng thịnh. Mộc vượng thì Thuỷ Hưu, sao Thuỷ bị suy yếu ở sinh xuất cho cung. Mộc vượng thì Kim Tử, sao Kim trợ nên vô dụng vì thế Mộc quá thịnh nên Kim không thể khắc nổi, chứng tỏ hành Kim không được mạnh. Mộc vượng thì Thổ Tủ. Sao Thổ không thể hưng thịnh vì bị hành Mộc đang thịnh khắc mạnh. Như vậy:
Hành cung sinh hành sao: hành sao được hưng thịnh (Tướng).
Hành cung đồng hành với sao: hành sao không thay đổi (Vượng).
Hành sao sinh hành cung: hành sao bị hao tổn, tiết khí nên yếu đi (Hưu).
Hành sao khắc hành cung: hành sao tuy khắc thắng nhưng không có lợi gì vì bị giam cầm không hoạt động được (Tử).
Hành cung khắc hành sao: hành sao bị thiệt hại nhiều nhất (Tủ).
Cần chú ý là Dần Mão tuy thuộc Mộc nhưng có khác biệt. Dần là Dương Mộc, Mão là Âm Mộc. Dương chủ thịnh, Âm chủ suy. Dương Mộc là Mộc đang phát triển cực thịnh, còn Âm Mộc là Mộc đã bước vào giai đoạn suy yếu. Như vậy sao Thổ cư cung Dần bị khắc mạnh hơn sao Thổ cư Mão.
Ví dụ:
Phá Quân là hao tinh, hãm tại Dần Thân. Tại Dần thì Phá Quân Thuỷ sinh hành cung là Mộc, tại Thân thì Phá Quân Thuỷ được hành cung sinh. Như vậy tại Thân Phá Quân giữ nguyên vẹn ảnh hưỡng hãm địa của nó, còn tại Dần thì bản chất hao tán có bị yếu đi vì sao đó sinh xuất cho cung nên hành khí bị hao tổn.
Tử Phủ miếu tại Dần Thân. Tại Dần thì hành cung khắc hành sao đưa đến hành khí của sao bị hao tổn. Tại Thân thì hành sao sinh hành cung nên hành sao bị tiết khí. Như vậy tại Dần, tính chất miếu địa của Tử Phủ phát huy yếu đi, sao bị không chế khả năng hoạt động, còn tại Thân thì hành sao bị suy tổn làm suy yếu khả năng hoạt động.
Phá Quân miếu địa tại Tí Ngọ. Tại Tí thì hành cung đồng hành với hành sao, tính chất miếu địa của sao hoàn toàn không thay đổi do hành khí của sao vẫn nguyên vẹn. Tại Ngọ thì hành sao sinh hành cung, tính chất miếu địa không phát huy trọn vẹn ảnh hưỡng vì hành sao bị hao tổn.
Phá Quân đắc tại Thìn Tuất, hành cung khắc hành sao, tính chất của sao bị suy giảm do hành sao bị suy yếu.
Vũ Phá đồng cung tại Tỵ Hợi và hãm địa. Tại Tỵ thì Vũ Khúc bị hành cung khắc, Phá Quân thì khắc hành cung, do đó hành của Vũ bị suy đi, còn tại Hợi thì Vũ sinh xuất cho cung, Phá Quân đồng hành. Do Vũ Khúc Kim sinh cho Phá Quân Thuỷ nên hành khí của Phá Quân tại Hợi mạnh hơn Phá Quân tại Tỵ. Ví dụ người Kim mệnh thì hưỡng mạnh sao Kim là Vũ Khúc. Nếu Mệnh cư Hợi thì sẻ bị hao tán tiền bạc bởi vì Vũ khuc là tài tinh, Phá Quân là hao tinh. Kim sanh Thuỷ đưa đến bản chất hao tán của Phá Quân càng tăng thêm. Phá Quân có hành khí mạnh thì sẻ hao nhiều hơn.
Thất Sát miếu tại Dần Thân. Tại Dần và Thân thì hành khí của Thất Sát đều nguyên vẹn. Mệnh Thổ cư Dần thì bị hành cung khắc, đồng thời hành Mệnh lại sinh xuất hành sao, Mệnh bị tiết khí. Như vậy thì Mệnh Thổ tuy vẫn hưỡng tính chất của Thất Sát nhưng không có lợi cho bản Mệnh, và Thất Sát ở đây lại càng thịnh vượng. Tại Thân thì Mệnh Thổ lại càng hao tán do sinh xuất hành cung và hành sao. Do hành khí của Thất Sát được hưng thịnh lên nên tính chất của Thất Sát ở đây phát huy mạnh mẽ hơn nhưng không đem lại ích lợi cho bản Mệnh, làm bản Mệnh tổn hại dễ bị lâm nguy khi vào hạn xấụ Trường hợp Mạng Mộc thì do Kim khắc Mộc, nếu Mệnh cư cung Dần thì ảnh hưỡng của Thất Sát vẫn nguyên vẹn nhưng đưa đến bất lợi cho Mệnh.
Trong tử vi còn có một sự hòa hợp hay đối kháng giữa các sao về tính chất, khác hẳn với sự sinh khắc về ngũ hành. Ví dụ:
Văn tinh thì nên gặp Văn tinh, gặp Võ tinh thì không có lợi. Điều này cũng đúng vì con người nếu thuận một tính, hoặc thuần hậu ôn nhu, hoặc mạnh bạo cương quyết thìdễ thành công hơn người tính tình nữa nạc nữa mỡ. Bởi thể nên các bộ sao Văn tinh như Cơ Nguyệt Đồng Lương thì cần có các sao Văn tinh hổ trợ cho nó như Xương Khúc, Khoa. Bộ Sát Phá Liêm Tham thì cần các sao cứng cỏi mạnh bạo hổ trợ như Lục Sát Tinh đắc địa. Bộ Tử Phủ Vũ Tướng rất kỵ gặp Không Kiếp vì Không Kiếp là sao hung tinh đứng đầu phụ tinh, chủ nóng nãy làm liều, đi với Tử Phủ Vũ Tướng thì chỉ gây ra điều bất lành vì tính của Tử Phủ là thuần hậu ôn nhu. Điểm cần chú ý là sự đối kháng về tính chất thì quan trọng hơn sự sinh khắc về ngũ hành. Không Kiếp hành Hỏa đương nhiên sẻ tương sinh với Tử Phủ hành Thổ, nhưng khi đứng cùng với Tử Phủ lại làm xấu bộ Tử Phủ. Phá Quân sáng sủa nắm được Không Kiếp là do tính chất của nó là hung, đi với sao hung thì có lợi. Phá Quân hành Thuỷ khắc được hành Hỏa của Không Kiếp khiến Không Kiếp bị thu phục. Thất Sát võ tinh mà đi với Xương Khúc văn tinh, hay đi với Đào Hồng thì chẳng ra gì. Ngược lại Nhật Nguyệt gặp Đào Hồng Hỉ Xương Khúc thì lại thêm tốt. Hơn nữa Hóa Khoa là đệ nhất giải thần vì chế hóa được các sao hành Hỏa như Không Kiếp Hỏa Linh, Kình Đà(hành Kim đới Hỏa). Tính tình của con người cũng thay đổi theo đại hạn. Mệnh Sát Phá Liêm Tham mà đại hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì tính tình trở nên mềm yếu, hay thay đổi, thiếu cương quyết thì làm sao mà phát mạnh được. Nếu đại hạn gặp sao Lục Sát Tinh đắc địa thì vì gặp sao cùng phe nên phát mạnh bạo là điều đương nhiên.

TÓM LẠI: Sách số nào cũng chỉ rằng: khi xem một cung thì phải xem phối hợp: cung chính, hai cung tam hợp, cung xung chiếu và cung nhị hợp, tất cả là 5 cung cùng một lúc để giải đoán.
Có quan điểm còn đánh giá thứ tự ưu tiên hoặc xếp đặt ra giá trị tỷ lệ cho cung chính là quan trọng nhất, thứ nhì là cung xung chiếu, thứ ba mới đến hai cung tam chiếu với cung chính và sau hết là cung nhị hợp. Sự đánh giá này nhằm phân định được các ảnh hưởng nào là trực tiếp và ảnh hưởng nào là gián tiếp để giúp cho việc giải đoán được cụ thể và đầy đủ hơn.
Riêng theo cụ Thiên Lương thì căn bản chính yếu của một cung chỉ có một cung chính và hai cung tam hợp. Cung nhị hợp (tương sinh) chỉ phụ thêm bổ túc cho cung chính. Còn cung xung chiếu (tương khắc) tuyệt đối chính là đối phương.
MỜI QUÝ VỊ TẠM NGHỈ, XEM “Màn tập bóng chày của hai cậu bé tuổi teen gây sốt trên trang chia sẻ video trực tuyến Youtube (xem clip)”.
Bước 5: XEM ĐẠI VẬN VÀ TIỂU VẬN:
I/- ĐẠI VẬN :
Nói chung, khi giải đóan Đại Vận, nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :
- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
* Ghi chú :
Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh
Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :
1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.
Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.
Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.
2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.
Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.
3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.
Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)
4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.
Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.
5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .
Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
______________________________________
II- TIỂU VẬN
Bàn về Tiểu-Vận (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.
Trên mỗi Lá số, ngoài tên ĐỊA CHI của từng Cung số. còn ghi ĐỊA CHI 12 Cung Tiểu Vận (Tý, Sửu, Dần, Mão ….)
Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì Tiểu-Vận tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy tắc đã được các sách đã nêu ra) :
- Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn
- Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
- Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
- Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra.
- Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)
Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng :
1- Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng.
Ví dụ : Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động. Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …
Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :
– Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.
– Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …
Nếu thấy các sao nhập Đại Hạnr & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của Tiểu-Hạn hay không.
Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.r
Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc ).
* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán. Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp….
Ví dụ : Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như vô vọng ?)
2- Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.
Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.
Ví dụ : Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây qúy bạn cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).
3/ Mệnh có CHÍNH TINH, Vận tốt tất PHÁT, Vận xấu tất HUNG.
MỜI ĐỌC THÊM VỀ ĐẠI, TIỂU HẠN:
I/- ĐẠI HẠN :
Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đóan hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.
Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :
- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)
* Ghi chú :
– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh
Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :
1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.
Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.
Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.
2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.
Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.
3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.
Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)
4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.
Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.
5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .
Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …
* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.
Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :
-Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
-Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
-Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
-Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
-Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
-Khác ( Nếu có)
Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.
Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.
Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.
2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.
Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.
3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)
4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.
Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.
5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..
6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp …
* Cách Lưu Đại hạn hàng năm:
Cung đã ghi đại hạn, gọi là cung gốc của đại hạn 10 năm. Muốn xem vận hạn tường tận hơn, phải lưu đại hạn hàng năm.
Muốn lưu đại hạn, phải xem số ghi ở cung gốc, rồi chuyển số ghi liên tiếp sang cung xung chiếu, đoạn:
· Dương nam, âm nữ lùi lại một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, tiến lên theo chiều thuận, mỗi cung một năm.
· Dương nữ, âm nam, tiến lên một cung, rồi trở lại cung xung chiếu, lùi xuống chiều nghịch, mỗi cung là một năm.
Thí dụ: A – Dương nam, Mộc tam cục, muốn xem Lưu đại hạn năm 27 tuổi, phải tính cẩn thận trên bản đồ 12 cung như sau đây:
Bắt đầu từ cung gốc của đại hạn từ 23 tuổi đến 32 tuổi, chuyển sang cung xung chiếu 24, lùi lại một cung là 25, trở lại cung xung chiếu là 26, tiến lên một cung theo chiều thuận là 26. Vậy lưu đại hạn năm 27 tuổi ở cung Hợi.
Thí dụ: B – Âm nam, Kim tứ cục, muốn xem lưu đại hạn năm 38 tuổi, phải tính cẩn thận trên bản đồ 12 cung như sau đây:
Bắt đầu từ cung gốc của đại hạn từ 34 tuổi đến 43 tuổi, chuyển sang cung xung chiếu là 35, tiến lên một cung là 36, trở lại cung xung chiếu là 35, tiến lên một cung là 36, trở lại cung xung chiếu là 37, lùi xuống một cung theo chiều nghịch là 38. Vậy lưu đại hạn năm 38 tuổi ở cung Dần.
Có tam sao thất bản.Nhưng nếu tính theo cách của em thì trong trường hợp anh DTTD sẽ đúng, còn theo cách của chị sẽ sai.Chị xem lá số của anh ấy ở page 2 chuyên mục này.Anh ấy lấy vợ năm 24 tuổi, theo cách tính trên của chị thì lưu đại hạn rơi đúng vào cung Mệnh- chẳng có dấu hiệu hôn nhân gì cả.
***
Đến đây, bản blog đã trình bầy xong phần cơ bản của công việc lập và dự đoán một Lá số tử vi. Tiếp theo, xin gửi đến Quý Vị phần PHỤ LỤC. Phần này sẽ cung cấp những dữ liệu làm căn cứ cho việc dự đoán được thuận lợi và nhanh chóng. Không đi vào lý thuyết phức tạp, mà đi thẳng vào cốt lõi của việc dự đoán, nên phần phụ lục này được coi như một thứ cẩm nang rất hữu ích đối với người muốn tiếp cận khoa Tử vi đẩu số.
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved