Home » » Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết?

Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết?

Written By kinhtehoc on Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011 | 22:46

Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết?

Nguyễn Nam
(Một góc nhìn về phụ nữ với văn chương – xã hội Việt Nam
đầu thế kỷ XX)
Nguyễn Nam(*)
Tự sát là một trong những “vấn nạn” của phụ nữ ở Việt Nam những năm cuối thập niên 1920.  Đáng chú ý là xã hội lại quy tội nguyên nhân của vấn nạn này cho tiểu thuyết.  Trong bản in năm 1932 của bản dịch quốc ngữ  truyện Tuyết hồng lệ sử có một bài tựa của nhà in Nam Ký, cho thấy công luận xã hội đã nối kết tiểu thuyết “ngôn tình” với “phong trào tự tử” trong quan hệ nhân quả như thế nào: “Gần đây trong nước ta nhân có phong trào tự tử của các cô ‘gái mới’, vài nhà ‘văn sĩ’ bèn thừa dịp làm án mấy bộ tiểu thuyết ngôn tình, qui tội cho các nhà viết tiểu thuyết ấy, cho rằng các cô gái chán đời phần nhiều là bởi nhiễm phải cái độc trong những tiểu thuyết kia.  Tuyết hồng lệ sử cũng bị liệt vào hạng sách bị kết án nói trên.”[1] Đọc xong đoạn trích ngắn này, người đọc hẳn sẽ băn khoăn: Cái gọi là “phong trào tự tử” ấy trên thực tế đã diễn ra chủ yếu ở đâu và như thế nào?  Những cô “gái mới” ấy là ai?  Nội dung cụ Tuyết hồng lệ sử ra sao mà nó bị kết tội đầu độc những cô gái tân thời khiến họ phải quyên sinh?  Ba thập niên đầu thế kỷ XX là một giai đoạn chuyển tiếp trong lịch sử văn học Việt Nam từ cận đại sang hiện đại.  Giai đoạn này đã chứng kiến không chỉ sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam qua giao thoa – tiếp xúc với văn chương thế giới (đặc biệt là Pháp và Trung Quốc), mà còn thấy được sự hình thành của một cộng đồng độc giả nữ đối với tiểu thuyết.  Sự tăng trưởng trong việc đọc tiểu thuyết của phụ nữ cũng lại gợi lên thêm nhiều câu hỏi nữa: Những bạn đọc nữ ấy là ai và học vấn của họ như thế nào? Họ đọc những loại tiểu thuyết gì? Việc đọc của họ có được theo dõi và hướng dẫn hay không? Ai chủ động việc ấy và có ý kiến như thế nào?  Trả lời tất cả những câu hỏi trên đây là góp phần phục hiện một góc nhìn về phụ nữ với văn chương và xã hội đầu thế kỷ XX.  Hồi ứng của bạn đọc nữ thời ấy đối với tiểu thuyết Việt Nam và nước ngoài (trực tiếp với nguyên tác và thông qua bản dịch tiếng Việt) có thể được tìm hiểu qua nhiều kênh thông tin khác nhau.  Trong điều kiện khiếm khuyết những điều tra thống kê cụ thể, bài viết sử dụng báo chí đương thời để kiểm nghiệm mối liên hệ giữa ảnh hưởng của tiểu thuyết ái tình (đặc biệt qua trường hợp Tuyết hồng lệ sử của Từ Chẩm Á) và việc phụ nữ tự sát.
Từ Chẩm Á 徐枕亞 (1889-1937) và văn phái Uyên hồ 鴛 蝴
Từ Chẩm Á người Thường Thục 常 熟 (tỉnh Giang Tô), tên gốc là Giác 覺, viết với nhiều bút danh, như Từ Từ 徐徐, My Tử 眉子, Khấp Châu Sinh 泣 珠生, Đông Hải Tam Lang 東海三郎, Đông Hải Giao Nhân 東海鮫人, hay Thanh Lăng Nhất Điệp 青陵一蝶.  Năm 1914, sau khi tốt nghiệp trường Sư phạm Ngu Nam 虞南 ở Thường Thục, Từ Chẩm Á dạy tiểu học ngay tại quê nhà.  Từ năm 1909-1911, ông dạy trường tiểu học Hồng Tây 鴻西 ở Vô Tích 無錫 dưới chân núi Hồng 鴻山, tá túc gần nhà thư pháp gia nổi danh Thái Ấm Đình 蔡蔭庭, nhân đấy nhận làm gia sư cho gia đình này.  Nhà họ Thái có người con dâu goá tên Trần Bội Phân 陳佩芬, vốn giòng thư hương.  Nàng Bội Phân có cậu con trai 8 tuổi là Mộng Tăng 夢增, theo học với thầy Từ.  Chẩm Á và Bội Phân trước vì yêu tài, mến đức mà sau tình cảm càng trở nên nồng thắm, thường ngầm trao đổi thư tín, thi từ qua lại qua trung gian cậu bé Mộng Tăng.  Vì lễ giáo đương thời, vì danh tiết của nàng và cũng vì tương lai của Mộng Tăng, Chẩm Á và Bội Phân đã không thể theo gương chàng Tư Mã Tương Như và nàng Trác Văn Quân khi xưa mà cùng nhau bỏ trốn.  Trong hoàn cảnh nan giải ấy, để báo đáp tình yêu của chàng, Bội Phân nghĩ đến cách “tháp cành, ghép hoa” để Chẩm Á kết hôn với em chồng mình là Thái Nhị Châu 蔡蕊珠.  Dẫu thế, sau khi thành thân với Nhị Châu và lên Thượng Hải làm báo, Chẩm Á vẫn không quên được Bội Phân mà còn treo cả một bức ảnh lớn của nàng trong phòng làm việc ở thư cục.  Mối tình này được Từ viết lại thành tiểu thuyết Ngọc lê hồn 玉梨魂, đăng nhiều kỳ trên phụ san của Dân quyền báo 民權報.  Theo hồi ức của Trịnh Dật Mai 鄭逸梅, cùng đăng chung với Ngọc lê hồn là tiểu thuyết Nghiệt oan kính 孽冤鏡 của Ngô Song Nhiệt 吳雙熱 (1884-1934), chiếm lĩnh phần lớn phụ san: cả hai bộ tiểu thuyết này đều kết hợp biền văn với tản văn, tựa như cùng nhau tung hứng trên hý đài, nhân đấy mà được xưng tụng là uyên ương hồ điệp phái 鴛鴦蝴蝶派.[2]
Tiểu thuyết Ngọc lê hồn cùng với hậu thân của nó, Tuyết hồng lệ sử 雪鴻淚史, là hiện tượng đặc biệt trong lịch sử văn học Trung Quốc hiện đại.  Tuy chưa có thống kê đầy đủ, kể từ khi xuất bản thành sách năm 1912 cho đến nay, hai bộ tiểu thuyết này đã được tái bản đến vài chục lần, nâng tổng số bản in của nó trong khu vực Hoa ngữ ước tính tổng cộng lên đến hơn triệu bản, một số lượng tiêu thụ khổng lồ chưa từng có trong lịch sử văn học cận – hiện đại Trung Quốc.  Ngay sau khi ra đời, bộ tiểu thuyết này đã được “Thượng Hải dân hưng xã” biên diễn thành kịch nói, và được “Minh tinh ảnh phiến công ty” cải biên thành tác phẩm điện ảnh năm 1924.[3] Ngọc lê hồn kể chuyện chàng thanh niên trí thức tài hoa Hà Mộng Hà 何夢霞 do gia cảnh khó khăn nhận lời mời của bạn về dạy ở trường tiểu học Thạch Hồ 石湖.  Cũng nhân dịp này, Mộng Hà đồng ý dạy giúp cho cậu bé Bằng Lang 鹏郎, cháu nội của một người họ hàng xa.  Bằng Lang sớm mồ côi cha, ở với ông nội và người mẹ goá trẻ 27 tuổi là Lê Nương 梨娘.  Tình thầy-trò khăng khít giữa Mộng Hà và Bằng Lang khiến Lê Nương vô cùng cảm kích.  Một hôm, Lê Nương đang ngoạn cảnh trong vườn thì bắt gặp “Lê hoa hương trũng梨花香冢” (Mồ thơm hoa lê) do Mộng Hà vì thương hoa rụng mà đem chôn, đắp nên phần mộ.  Lê Nương trông mộ hoa mà thương phận mình, nhân đấy lại càng cảm thông Mộng Hà.  Thông qua trung gian bé Bằng Lang, Mộng Hà và Lê Nương trao đổi thư từ, rồi phát sinh yêu thương.  Không muốn vượt phạm lễ giáo “quả phụ thủ tiết”, Lê Nương bộc bạch ưu tư của nàng với Mộng Hà, ngỏ ý không muốn mối tình của hai người ảnh hưởng đến tương lai của chàng.  Để trả lời nàng, Mộng Hà thề sẽ không kết hôn với ai cho đến trọn đời.  Cả hai con người quyết liệt trong tình trường này đều ngã bệnh trước những quyết định của người mình yêu.  Thế nhưng sau đó Mộng Hà nhượng bộ, chiều theo ý Lê Nương mà kết hôn với Quân Thiến筠倩, em chồng của Lê Nương, một cô học sinh trường nữ học đã “được kết giao cùng các hiền nữ sĩ bốn phương, tầm mắt được mở rộng, học thuật nhân đó mà tấn tới.”[4] Mộng Hà miễn cưỡng kết hôn với Quân Thiến nhưng vẫn thầm yêu Lê Nương.  Tuy chấp nhận lời khuyên nhủ của chị dâu mà kết hôn với Mộng Hà, Quân Thiến hoàn toàn không biết gì về mối tình thầm vụng giữa hai người.  Để giải phóng Mộng Hà khỏi những mối dây ràng buộc với mình, Lê Nương gửi trả lại chàng tập “Hồng lâu ảnh sự thi 紅樓影事詩” chàng viết và trao nàng khi trước, cùng với một mớ tóc mây gói trong tấm khăn đầy ngấn nước mắt của nàng, làm dấu cho sự đoạn tình.   Mộng Hà cắn đầu ngón tay lấy máu viết thư phản đối quyết định của Lê Nương.  Nhận được bức huyết thư, Lê Nương quyết định phải chết để Mộng Hà quên hẳn nàng và dành tình cảm cho Quân Thiến.  Nhân khi Mộng Hà về thăm nhà, Lê Nương nằm liệt giường, và mặc cho Quân Thiến hết lòng chăm sóc, nàng từ chối thang thuốc mà chết.  Nhân đọc được bức di thư của Lê Nương mà Quân Thiến biết được mối tình của hai người.  Quân Thiến bị chấn động mạnh, ngã bệnh, rồi cũng chọn cái chết như chị dâu.   Theo như ước nguyện của Lê Nương, Mộng Hà sang Nhật lưu học để về phục vụ đất nước.  Khi khởi nghĩa Vũ Xương 武昌 nổ ra[5], Mộng Hà ném bút, tòng quân, xông pha chiến địa, rồi tử trận với tập “Tuyết hồng lệ thảo 雪鴻淚草” bao gồm thi từ xướng họa giữa chàng và Lê Nương luôn mang trong mình.  Chi tiết tập thi từ ấy sau được Từ Chẩm Á phát triển lên thành tiểu thuyết viết theo thể nhật ký mang tên Tuyết hồng lệ sử, đi sâu hơn vào những góc kín trong tâm tư Mộng Hà – Lê Nương, và cũng như Ngọc lê hồn, đã lấy đi vô vàn nước mắt của bạn đọc.
Những phát hiện và công bố của Thời Manh 時萌 liên quan đến thi từ, thư tín trao đổi giữa đôi tình nhân Từ Chẩm Á và Trần Bội Phân yết lộ rõ hơn khía cạnh “tự truyện” của Ngọc lê hồn, tái xác định nguyên mẫu các nhân vật của nó, cũng như mức độ tình cảm thâm sâu của Chẩm Á và Bội Phân.[6] Trong bài tựa Tuyết hồng lệ sử, Từ từng viết: “Khi tôi viết bộ sách này…thực sự trong tâm trí không hề có hai chữ ‘tiểu thuyết’, vậy nên hết lòng mong bạn đọc chớ lấy nhãn quan tiểu thuyết mà nhìn nhận lầm sách của tôi.”  Toàn bộ 93 trang tư liệu tìm được từ nhà họ Từ cho thấy những sự kiện thực trong mối tình Chẩm Á – Bội Phân đã đi vào Ngọc lê hồn như thế nào.  Ví như chuyện nhân vật nam Mộng Hà cắn ngón tay lấy máu viết huyết thư gửi góa phụ Lê nương có nguyên hình trong đời thực như nàng Bội Phân đã ghi lại: “Trưa hôm qua nhận được huyết thư mà tim gan em đau nhói.  Lúc này nhìn chữ mà lòng em đau đớn không thôi, chỉ muốn sớm chết đi cho xong…”  Những tư liệu này cũng cho thấy mức độ tình cảm thân cận, nồng thắm của Chẩm Á và Bội Phân trong đời thực đã đi xa hơn rất nhiều so với Mộng Hà và Lê nương, một quan hệ được miêu tả trong truyện là “phát hồ tình nhi chỉ hồ lễ nghĩa 發乎情而止乎 禮義” (nảy sinh từ tình cảm, nhưng dừng lại trong vòng lễ nghĩa).  Để đến được với nhau, cửa sau phòng riêng của Chẩm Á và Bội Phân đêm đêm thường để ngỏ.  Những cuộc hẹn hò như thế được ghi lại khá nhiều trong thi từ trao đổi giữa hai người.  Khác với Mộng Hà và Lê nương trong truyện chỉ hai lần lén lút hò hẹn, nhưng ngoài việc tuôn nước mắt, họ cũng chẳng dám chạm đến tay nhau, Chẩm Á và Bội Phân trên thực tế đã ngầm gặp nhiều lần trong đêm, và tình thân của họ hẳn đã đi xa hơn rất nhiều so với hai nhân vật tiểu thuyết rất nhiều, như được ghi lại trong mấy vần thơ dưới đây,

Nguyên vănPhiên âmDịch nghĩa
深夜相逢陽氣和Thâm dạ tương phùng dương khí hòaĐêm khuya gặp gỡ giữa khí dương hòa hợp,
誰知巫峽夢中多Thùy tri Vu Giáp mộng trung đaAi hay Vu Giáp trong mộng đã bao phen.[7]
若能同剪西窗燭Nhược năng đồng tiễn tây song chúcVí được cùng tỉa bấc đèn bên cửa sổ mé tây,[8]
再托陽臺撲飛蛾Tái thác Dương đài bộc phi ngaLại xin thác làm thân ngài chết ở Dương đài.[9]

và:

Nguyên vănPhiên âmDịch nghĩa
相敬相愛兩情真Tương kính, tương ái lưỡng tình chânKính trọng, yêu thương nhau: đôi chân tình
攜手頻頭笑語親Huề thủ, tần đầu, tiếu ngữ thânCầm tay, kề đầu, nói cười thân mật.
一雙暗渡誰知覺Nhất song ám độ thùy tri giácMột đôi lén lút ai hay biết,
傷心不是蓮枝人Thương tâm bất thị liên chi nhân.Đau lòng chẳng phải kẻ phân ly. [10]

Hiển nhiên, những phát hiện trên đây cho thấy Từ Chẩm Á đã không vượt ra ngoài những hạn định đạo đức của thời đại trong tác phẩm của ông.  Ông tiểu thuyết hóa mối tình của mình, nhưng kìm nó lại trong vòng lễ nghĩa.  Mặt khác, Ngọc lê hồn đã yết lộ hình ảnh nhân vật lý tưởng mà Từ hướng đến nhưng không thực hiện được trong đời thực của mình.  Đó là một Mộng Hà sống chết với tình riêng nhưng vẫn nặng tình chung yêu nước.
Khởi sự từ sau vận động Ngũ Tứ, tác phẩm của Từ Chẩm Á bị liệt vào loại văn chương uyên ương hồ điệp với hàm ý tiêu cực,[11] bị xem là mắc chứng “vô bệnh thân ngâm 無病呻 吟” (không bệnh mà rên), và bị xếp vào hạng du hí tiêu khiển, đơn thuần “mua vui, giải trí,” sướt mướt nhãn lệ, tị thế 眼淚鼻涕 đầm đìa nước mắt, nước mũi. [12] Trên thực tế, Ngọc lê hồn của Từ Chẩm Á vượt ngoài cái khung bi tình mà những bộ tiểu thuyết sau này học theo, bởi nó đã đề xuất được vấn đề xã hội cần phải quan tâm giải quyết như Chu Tác Nhân 周作人 (1885-1967) từng thừa nhận:
Sách Ngọc lê hồn lưu hành gần đây, văn chương tuy phát ngán (…) nhưng sự việc ghi chép trong ấy cũng có thể xem là một vấn đề.  (…) Còn như việc “có người quả phụ thấy kẻ độc thân mà muốn lấy” thì tuyệt đối không thể chấp nhận được.  Loại đạo đức này thực có thể gọi là thứ hiếm có.  Trung Quốc có một số người có thái độ lạ kỳ đối với loại hiện thực này.  Họ tiếc thương những kẻ bất hạnh trong Ngọc lê hồn nhưng lại không xem xã hội hiện tồn tạo nên nỗi bất hạnh này là sai trái.  Phát ra ở tình, dừng nơi lễ nghĩa, cuối cùng thì chết – ấy cũng rất đủ để làm niềm vinh quang xã hội của họ, cung cấp cho họ tài liệu để mà ngâm vịnh, ta thán.  Đây gọi là thứ thưởng ngoạn thống khổ phi nhân tình.  Những kẻ làm tiểu thuyết khổ tình, ai tình, ai ai cũng có loại thái độ này, vậy mà họ lại không biết nguyên ý của người viết Ngọc lê hồn là như thế nào hay sao?[13]
Quả thực, bi kịch luyến ái giữa goá phụ trẻ và người tài tử đa tình đã phản ánh sự khốc hại của luân lý gia đình của xã hội phong kiến đối với phụ nữ, đặc biệt là quả phụ.  Bị trói buộc trong lễ giáo nghiêm nhặt đến mức phi nhân tình ấy, những góa phụ trẻ như Bạch Lê Ảnh không chỉ đau lòng tự dằn vặt, mà còn đưa cả người thân của mình (như Quân Thiến) vào vòng khổ lụy, để rồi cuối cùng chỉ biết tìm sự cứu chuộc trong cái chết.[14] Tuy nhiên, do khối bi tình tay ba giữa Mộng Hà, Lê Ảnh và Quân Thiến quá thảm đạm đôi khi đã khiến cho vấn đề xã hội mà Chu Tác Nhân chỉ ra bị mờ đi trong nước mắt.  Nối theo Từ Chẩm Á, những nhà văn về sau đi sâu khai thác bi tình đẫm lệ khiến khía cạnh phê phán nội tại của nguyên ủy ngày càng mờ nhạt.  Hậu quả là văn phái uyên hồ bị lên án là đại biểu cho thế lực phong kiến với ý thức thẩm mỹ đơn thuần là tiêu khiển, du hý.  Trong một thời gian dài, giới nghiên cứu phê bình miệt thị, xem đó là văn học “nghịch lưu” thông tục cần phải phê phán, phủ định, thậm chí vứt bỏ như phế phẩm.  Tất nhiên, cũng có những nhà phê bình công tâm (như Lỗ Tấn, Mao Thuẫn) nghiêm túc nhận định một cách khách quan phương diện “thú vị” của dòng văn học này trong bối cảnh thời đại của nó. [15] Phải đến những năm 1980, cùng với những biến đổi chính trị – văn hóa – xã hội ở Trung Quốc, học giới mới khởi sự có một tác phẩm nghiên cứu văn phái này một cách toàn diện và hệ thống.  Sau nhiều năm khảo cứu, Phạm Bá Quần 范伯 群 nhận định rằng uyên ương hồ điệp là một lưu phái tiểu thuyết thông tục thừa tập truyền thống tiểu thuyết cổ đại Trung Quốc xuất hiện trong quá trình hưng kiến những đô thị lớn trong khoảng cuối Thanh – đầu Dân quốc.  Thông qua việc nghiên cứu văn phái này từ nhiều góc nhìn, tầng bậc khác nhau, có thể thấy được những biến đổi xã hội – văn hoá đa dạng của xã hội Trung Quốc giữa thời quá độ, với những những quá trình tương tạp giao và đối kháng của dân tục trong khi kinh trải Âu phong Mỹ vũ (gió Âu, mưa Mỹ), cũng như sự bột hưng của một nền văn học mới.  Phạm Bá Quần tự nhận để có được những phát kiến, kiến giải mới đối với lưu phái này thật không dễ, bởi lẽ tựa như người phụ nữ bó chân, nay tháo cởi vải bó để bước đi với đôi chân trần tự nhiên của mình, người nghiên cứu sao tránh khỏi những bước chao đảo, nghiêng lệch không vững trên con đường mới trước mắt.[16] Ngoài bộ Uyên ương hồ điệp phái nghiên cứu tư liệu 鸳鸯蝴蝶派研究资料của Ngụy Thiệu Xương 魏紹昌 (1922-1998) do Thượng Hải văn nghệ xuất bản xã in lần đầu năm 1962, các tập Uyên ương hồ điệp phái văn học tư liệu 鴛鴦蝴蝶派文學資料 và Ngã khán uyên ương hồ điệp phái 我看鴛鴦蝴蝶派 đã góp thêm nhiều tư liệu quan trọng làm cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo sau.[17]
Đáng chú ý là Từ Chẩm Á và văn phái uyên hồ đã thu hút sự chú ý của một thế hệ nghiên cứu trẻ đầu thế kỷ XXI.[18] Với nhãn quan mới, họ xem các nhà văn thuộc văn phái này là những người tiên phong (avant-garde) bị lãng quên.”[19] Triệu Hiếu Tuyên 趙孝萱chỉ ra tính phức tạp của văn phái uyên hồ, khởi sự từ định nghĩa, ấn phẩm (tạp chí, sách in), văn thể (ví như tản văn, tùy bút, nhật ký, thi từ, tiểu thuyết), ngữ ngôn (ví như biền văn, bạch thoại theo lối khẩu ngữ, hay bạch thoại chịu ảnh hưởng Âu Tây), cho đến nội dung đề tài mở rộng (ngôn tình, khoa huyễn, trinh thám, lịch sử, hoạt kê, hay võ hiệp).[20] Riêng đối với Ngọc lê hồn, các nghiên cứu cũng đồng thời chỉ ra những đặc điểm kế thừa và sáng tân của nó.  Kế thừa văn học truyền thống, hòa phối tiểu thuyết cũ và mới và tạo ra đột phá văn chương, đây là bộ “kỳ tác” trường thiên tiểu thuyết biền văn thứ ba trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc nhưng lại sử dụng thể nhật ký mô phỏng Trà hoa nữ với nhân vật kể chuyện xưng “tôi.” [21] Với nhân vật cách mạng Mộng Hà, nhân vật phụ nữ “tân học” Quân Thiến, Ngọc lê hồn đã phản ánh xã hội Trung Quốc trong giai đoạn chuyển hóa với những xung đột giữa hai phái tân-cựu, nhân đó chỉ ra những tư tưởng ái quốc, cách mạng trong Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử.[22] Các nghiên cứu này cũng đặt văn phái uyên hồ chung với văn học Ngũ Tứ vì cả hai đều là phương thức biểu ý của tính hiện đại, chỉ khác là văn học Ngũ Tứ tập trung vào trí thức, quyết liệt giải quyết xung đột tân-cựu, trong khi văn phái uyên hồ lại hướng về thị trường, thế tục, đi theo con đường tiệm tiến cải lương xã hội.[23] Truyện như nhóm lên vài đóm lửa nhỏ vừa kịp phát sáng nhu cầu tự do hôn nhân – luyến ái thì đã vội tắt ngúm trước áp lực của đạo đức truyền thống.[24] Mở rộng ra ngoài phạm vi văn học, các nghiên cứu cũng chú ý đến ảnh hưởng của Ngọc lê hồn nói riêng, và của văn phái uyên hồ nói chung đối với điện ảnh và truyền thông Trung Quốc buổi sơ khai.[25]
Như E. Perry Link, Jr. đã chỉ ra, xét trong bối cảnh quốc tế, tiểu thuyết uyên hồ có những khía cạnh lịch sử và đặc điểm văn chương tương đồng, tương cận với tiểu thuyết bình dân đô thị ở những nước diễn ra cách mạng công nghiệp.  Trên toàn thế giới, sự ra đời của tiểu thuyết giải trí phong cách hiện đại (modern-style entertainment fiction) luôn đi kèm với chủ nghĩa công nghiệp như nó đã xảy trong những buổi đầu của nước Anh thế kỷ XVIII, rồi lan trải sang Tây Âu và châu Mỹ.  Trong nhiều trường hợp, tiến trình này diễn ra thông qua vay mượn: vượt qua những đường biên quốc tế, truyện được in lại hay dịch sang bản ngữ.  Ở Đông Á, Nhật là nước đầu tiên trải nghiệm quá trình này.  Trong hai thập niên 1870 và 1880, các bản dịch và phỏng tác tác phẩm của các nhà văn đại chúng phương Tây như Charles Dickens, H. Rider Haggard và Jules Verne được xuất bản ở Osaka và Tokyo.  Cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất (1894–1895) kết thúc với Điều ước Shimonoseki (Hạ Quan điều ước 下関条約, Shimonoseki Jōyaku, hay Mã Quan điều ước馬關條約) ký kết năm 1895 buộc Trung Hoa phải công nhận Triều Tiên độc lập, nhượng bán đảo Liêu Đông, quần đảo Đài Loan và Bành Hồ cho Nhật.  Thêm vào đó, Trung Hoa phải bồi thường chiến phí và ký điều ước thương mại với Nhật, cho phép nước này sử dụng một số cảng và sông ngòi vào mục đích thương mại.  Điều ước này đã dẫn đến sự tăng trưởng dân số và sự ra đời của một trung tâm đô thị công-thương Thượng Hải với sự hình thành tầng lớp tiểu thị dân bao gồm những người buôn bán nhỏ, thư lại, học sinh, các bà nội trợ, và những cư dân đô thị có chút học vấn.  Cũng chính thành phố đô thị hóa đầu tiên này của Trung Hoa đã sản xuất ra hàng loạt tiểu thuyết giải trí (phần lớn thông qua bản dịch Nhật ngữ).  Đồng thời kế thừa truyền thống tiểu thuyết thông tục bản địa sẵn có, quy phạm Trung Hoa trong lĩnh vực tiểu thuyết giải trí theo sát lược đồ có sẵn của Nhật Bản.  Cũng như ở châu Âu, châu Mỹ và Nhật Bản, những loại chính của tiểu thuyết giải trí ở Trung Hoa bao gồm: (1) chuyện tình, (2) chuyện phiêu lưu của anh hùng nghĩa hiệp, (3) chuyện thu hút sự chú ý của công chúng, scandal, và (4) chuyện trinh thám.  Tất nhiên những loại chuyện này đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, thế nhưng tiểu thuyết giải trí hiện đại được sáng tác, xuất bản, phát hành và duyệt đọc theo lối mới, khác hẳn với những gì đã có trong quá khứ.  Cùng với sự phát triển của công nghệ in ấn hiện đại khiến giá thành của sách giảm xuống đáng kể, tỷ lệ biết chữ của cư dân đô thị lại tăng cao nhiều lần so với trước đây, người đọc giờ đây mua sách về nhà đọc trong một không gian riêng tư với khuynh hướng hướng nội, thoát ly khỏi môi trường ngày càng phức tạp bên ngoài.  Link nhận định, “Chức năng của tiểu thuyết uyên hồ như một niềm an ủi trong hoàn cảnh này là một khía cạnh tách biệt nó khỏi những tác phẩm có trước.”[26]
Một trong những nỗ lực nhằm khẳng định và đề cao đóng góp của văn phái uyên hồ là khảo sát nó trong tương quan văn học khu vực Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản.  Đáng chú ý là nghiên cứu của Vương Hướng Viễn 王 向遠 chỉ ra những nét tương đồng giữa văn phái uyên hồ Trung Quốc và Ken’yūsha 硯友社 (Nghiên hữu xã) Nhật Bản.  Năm 1885, một nhóm sinh viên rất trẻ của Đại học Tokyo, đứng đầu là Ozaki Kōyō 尾崎紅葉 (Vĩ Kỳ Hồng Diệp, 1867-1903), cùng với Yamada Bimyō 山田美妙 (Sơn Điền Mĩ Diệu, 1868-1910), Ishibashi Shian 石橋 思案 (Thạch Kiều Tư An, 1867-1927),  và Maruoka Kyuka丸岡九華 (Hoàn Cương Cửu Hoa, 1865-1927), thành lập Nghiên hữu xã; sau nhóm có thêm sự tham gia của một thân hữu khác, như  Kawakami Bizan 川上眉山 (Xuyên Thượng Mi Sơn, 1869-1908), Iwaya Sazanami 巌谷小 波 (Nham Cốc Tiểu Ba, 1870-1933).  Ngay sau khi ra đời, văn xã này liền xuất bản tạp chí văn chương đầu tiên ở Nhật thời kỳ hiện đại, mang tên Garakuta bunko 我楽多文庫 (Ngã lạc đa văn khố) đăng tải tiểu thuyết, thi ca, tiểu luận phản ánh phong cách, lý tưởng của những tác gia gesaku戯作 (hí tác) thế kỷ XVIII-XIX.[27] Thông qua khảo sát, Vương Hướng Viễn chỉ ra rằng văn phái uyên hồ và Nghiên hữu xã là hai lưu phái có tính chất tương thông, song song phát triển trong lịch sử văn học Trung – Nhật hiện đại: cả hai đều hình thành sau tiểu thuyết chính trị của chủ nghĩa khải mông, nhưng do chủ trương thuần văn học, đều phản đối và phủ định tiểu thuyết chính trị; cả hai đều ít nhiều chịu ảnh hưởng văn học nước ngoài nhưng về căn bản gắn bó với không khí phục cổ và chủ nghĩa quốc tuý phản kháng Âu hóa đương thời; cả hai đều mang dấu ấn của văn hóa thương nghiệp đô thị, công bố tiểu thuyết trên mặt báo, tạp chí (như tập san Thứ bảy – Lễ bái lục 禮拜六và Garakuta bunko), coi trọng hồi ứng của bạn đọc và theo đó mà điều chỉnh sáng tác với ý thức thị trường.  Xét về mặt sáng tác, yếu tố cơ bản trong tác phẩm của uyên hồ và Nghiên hữu xã là “ai 哀” và “ái 愛” (hay “tình 情”), mục đích sáng tác cơ bản là “du hí tiêu khiển”, và phương pháp sáng tác cơ bản là chủ nghĩa tả thực.  Tuy nhiên thái độ của học giới Trung Quốc và Nhật Bản đối với hai hiện tượng văn học tương tự này lại rất khác biệt.  Đánh giá cao thái độ khách quan trong việc bình giá Nghiên hữu xã của học giả Nhật Bản, Vương cho rằng không nên chỉ đứng trên lập trường của một giai đoạn hay một lưu phái tư tưởng nào đó của văn học hiện đại Trung Quốc mà đánh giá phái uyên hồ; trái lại, phải xem xét văn phái này trong chỉnh thể lịch sử phát triển của văn học Trung Quốc, để xác lập địa vị của nó với những thành-bại và được-mất.[28]
Tiểu thuyết Từ Chẩm Á ở Việt Nam
Tiểu thuyết của Từ Chẩm Á được du nhập và dịch ra quốc ngữ ở Việt Nam khá sớm, trong thời kỳ văn quốc ngữ còn đang chập chững trau giồi, và chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của Hán văn.  Thoạt đầu, tiểu thuyết của ông có lẽ chỉ được lưu hành trong phạm vi hẹp của trí thức Nho học Việt Nam, những người trực tiếp hân thưởng tiểu thuyết của Từ qua nguyên tác chữ Hán.  Phải đợi đến năm 1919 mới có bản dịch quốc ngữ đầu tiên cho một bộ tiểu thuyết đề tên Từ Chẩm Á.  Trong bài tựa cho bộ tiểu thuyết Đa tình hận 多情恨 (?) đề năm 1918, Phan Mạnh Danh[29] viết: “Đa tình hận là một bộ tiểu-thuyết của Từ-Chẩm-Á.  Truyện có Lê-Tố-Trinh, một cô gái-mới nước Tầu, yêu một người bạn-giai là Mẫn-Minh-Đạo; vì Minh-Đạo không lấy nàng nên nàng giận mà tự-tử.”[30] Người dịch cũng luận ra khả năng cảnh tỉnh mê tình của Đa tình hận:
Ở đời con giai con gái, phần nhiều nhầm về một chữ tình, nào là trộm gương dòm ngọc, nào là bẻ liễu vin hoa, gần ngày cái án phong lưu thường thường vẫn có.  Sách này riêng vì kẻ dụng tình ấy làm gương, để khỏi sa nơi bể khổ, mà người làm sách cũng hiểu được tình lý ấy, cho nên muốn giẹp sóng cuồng.  Trong sách này tả những giai gái tình si, dụng tình lắm mối, và gồm đủ (…) mọi loại tình, thành ra một bộ tình sử nhỏ, thực là có thể đánh thức những người si-nam oán-nữ đang trong giấc mộng say-mê.[31]
Do hiện thời vẫn chưa tìm được nguyên tác Hán văn của Đa tình hận, nên thực khó khẳng định tác giả của sách có thực là Từ Chẩm Á hay không.[32] Hiển nhiên, đây là một bộ tiểu thuyết ngôn tình, tập trung miêu tả những trái ngang, buồn vui, sầu hận trong tình trường, với một kết cục bi thương.  Xét về phương diện đạo đức và ảnh hưởng xã hội, loại tiểu thuyết này uyên hồ đứng chênh vênh trên phân giới giữa tích cực và tiêu cực.  Những người cổ vũ cho tiểu thuyết ngôn tình đều cố gắng trình bày mặt sáng của nó.  Họ lấy mối bi tình trong tiểu thuyết làm tấm gương răn đe, nhằm đánh thức những mảnh hồn đang mê đắm ngụp lặn trong biển tình như Phan Mạnh Danh đề xuất.  Thế nhưng cũng có không ít người đọc học theo tiểu thuyết, trốn đời mà mê mải sống chết với những nhân vật trong truyện.  Đó chính là góc tối, là khía cạnh “tiêu cực” thường bị phê phán của loại tiểu thuyết này.  Hai cách nhìn gần như đối lập ấy (một ủng hộ, một lên án) đã trở nên phổ biến ở Trung Quốc và sẽ tiếp tục đồng hiện trong những năm 1920 và 1930 ở Việt Nam, mỗi khi công chúng đối mặt và phân tích ảnh hưởng của những bộ tiểu thuyết ngôn tình.
Dịch Từ Chẩm Á đã trở thành cơ hội để các dịch giả Việt Nam trình bày “phản biện xã hội”, bày tỏ quan điểm của họ đối với các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề phụ nữ và nữ quyền.  Điều này được thể hiện rất rõ qua những ý kiến của Nhượng Tống trong bản dịch tiếng Việt Ngọc lê hồn của ông.  Khác với lời bộc bạch của nhân vật kể chuyện xưng “tôi” trong Ngọc lê hồn cho rằng bộ tiểu thuyết này được soạn chỉ để tỏ rõ mối “chí tình” tri kỷ – tri âm giữa Mộng Hà và Lê Nương, Nhượng Tống dịch tác phẩm này với niềm đồng cảm, với một ý thức phê phán xã hội mạnh mẽ đối với xã hội “hắc ám” và chế độ gia đình chuyên chế ở châu Á, “Tôi sở dĩ dịch chuyện này là vì tôi cho rằng lấy cái xã hội hắc ám, cái gia đình chuyên chế ở các nước Á Đông, thì có thể đẻ ra được những hạng người đáng tức, đáng giận, đáng thương, đáng xót như Mộng Hà, như Lê Ảnh đó thôi.”[33]
Cũng như Phan Mạnh Danh, Nhượng Tống yêu cầu người đọc xem xét tác phẩm như một chỉnh thể, lĩnh hội hàm ý tác phẩm văn chương qua tổng phổ của nó, chứ không nên nhầm lẫn, sa đà vào tiểu tiết mà phê bình tác phẩm bằng một cái nhìn cục hạn.  Không phải ngẫu nhiên mà Nhượng Tống chọn lấy một câu trong De l’Esprit des lois (Về tinh thần của luật lệ, 1748) của Montesquieu để đề từ trên trang bìa của bản dịch Ngọc lê hồn:
Approuver ou condamner le livre entier, mais non pas quelques phrases. Si l’on veut chercher le dessein de l’auteur, on ne le peut bien découvrir que dans le dessein de l’ouvrage.
Khen hay chê cả bộ chứ đừng khen chê mấy câu. Nếu muốn biết rõ bản tâm kẻ viết thế nào, phải tìm trong ý sách mới được. [34]

Nhượng Tống theo mạch tiểu thuyết, phân tích tình tiết truyện để bày tỏ chính kiến qua những cước chú – bình luận nhiều suy tư của mình trong bản dịch.  Những bình chú này một mặt thể hiện trách nhiệm xã hội của người dịch đối với bạn đọc, mặt khác cũng cho thấy ưu tư của dịch giả đối với những khả năng tiếp nhận khác nhau của độc giả đối với một tác phẩm khá nhiều chiều, đa phương, như Ngọc lê hồn.  Bình luận tiểu thuyết ngay trong bản dịch theo cách này chính là một nỗ lực của người dịch nhằm kiến tạo những bài học đạo đức, hay “phản biện xã hội” trên cơ sở văn liệu của tác phẩm để dẫn dắt người đọc theo chủ định của mình.  Trước việc chàng thanh niên Mộng Hà yếu đuối nhỏ lệ trên mồ hoa lê, Nhượng Tống bất bình truy cứu nguyên ủy của hiện tượng ủy mị đắm mình trong mộng, thoát ly hiện thực này.  Ông chỉ ra chuyển biến xã hội – thời đại và hệ lụy của lối sống cùng với cách tư duy nọ, từ đấy lên tiếng cảnh tỉnh nam nữ thanh niên:
Bọn nhà nho Đông phương toàn là hạng rất thông minh.  Chỉ vì cái giáo dục hủ bại nô lệ cổ nhân, thành ra cái thông minh ấy đem dùng cả vào chỗ vô dụng.  Mối không tưởng chỉ mơ màng những tình, những cảnh, những cảm, những sầu, những gió, những [tr]ăng, những hoa, những cỏ rồi thành ra hạng người sống bằng mộng, trí não xa hẳn với sự thực tế ở đời (…) Mộng Hà này cũng là một người đủ đại biểu cho hạng hủ nho ấy.  Cái thì giờ lúc tuổi xanh, càng gặp cảnh khó khăn lại càng phải bền gan phấn đấu, nào thiếu gì việc làm ích nước lợi nhà, (…) để học tập, đúc rèn cho tấm than hữu dụng, nói tóm lại là tùy cảnh ngộ đều có thể tìm được một con đường quang mà đi. (…)  Hạng người như thế tức là hạng người xưa gọi là bọn “danh sĩ”, song nay thì tôi xin gọi là bọn “Chết rồi”?  Bọn “Chết rồi” ấy ngày xưa thường chiếm được địa vị ở xã hội Á đông, cho nên xã hội Á đông mới có một phen “Chết dở”?  Mong sao các anh em, chị em thanh niên toàn là hạng thông minh cả, đừng có nhầm cái thông minh như hạng Mộng Hà này.[35]
Nhượng Tống thậm chí còn đi xa hơn, xem việc chôn hoa, khóc hoa của Mộng Hà chỉ là tiểu xảo nhằm thu hút sự chú ý của nàng góa phụ trẻ Lê Nương: “Phàm kẻ quyến oanh rủ yến, tất phải tìm cách làm cho người con gái chú ý đến mình, nhất là chú ý đến mình là kẻ lắm tình nhiều cảm. Mộng Hà chôn hoa, chính cũng cùng một tâm lý, ấy nào phải thương gì hoa.”[36] Lại nhân việc Từ Chẩm Á dùng tư tưởng “bạc mệnh” để lý giải hoàn cảnh truân chuyên của Lê Nương, Nhượng Tống phản bác lối suy nghĩ ấy, chỉ ra căn rễ của những khổ đau của phụ nữ, cổ vũ họ đấu tranh chống lại những áp chế xã hội,
Cái bạc m[ệ]nh của chị em, cứ ý tôi thì không phải là trời ghen, mà chính là xã hội áp chế. (…) Tiện đây chỉ mong sao cho phàm các người bạc m[ệ]nh, đừng phàn nàn đổ tội cho trời, mà nên hăng hái phấn đấu với hàng nghìn cái chế độ hủ bại để tự mở lấy sinh lộ mới được.[37]
Ở một trường hợp khác, Nhượng Tống đồng tình với Từ khi lên án “bả tình” lãng mạn độc hại.  So sánh bả độc tình yêu với chuyện giống đười ươi say khướt đến bị bắt vì muốn thử mấy vò rượu do con người đặt bẫy, Nhượng Tống chủ trương thanh niên phải khắc kỷ, để không bị dục tình thống lĩnh,
Con người ta trong lúc thanh niên, nếu không có công phu khắc kỷ (maitrise en soi) để đè nén dục tình, thì rượu chè, cờ bạc, trai gái vẫn biết là dở đấy, nhưng cũng “nếm thử”…khi đã nếm thử rồi thì khó lòng mà gỡ ra được.  Cái mê lúc ấy cũng chẳng khác gì cái mê của giống đười ươi say rượu.  Lê nương này cũng thế.  Anh em chị em há lại không nên liệu đó mà giữ mình sao![38]
Trong quan hệ luyến ái, “nhục dục” được đặt đối lập với “chí tình”.  Từ Chẩm Á cho rằng tình yêu giữa Mộng Hà và Lê Nương “là bởi chí tình chứ không phải bởi nhục dục”.  Nhượng Tống không hoàn toàn đồng ý với luận định này.  Theo ông, nhục dục là yếu tố không thể tách biệt khỏi ái tình.  Đối với phụ nữ, “công phu khắc kỷ”cốt yếu là ý thức cao độ, tỉnh táo ngay trong men say tình yêu, nhận chân luyến ái đích thực, trao – nhận phần nhục tình hợp thời trong tình yêu chân chính:
Thiên hạ bao nhiêu những hạng con gái hư thân đều là chết về một câu này cả!  Trong nhục dục thường khi không có ái tình, chứ trong ái tình bao giờ cũng có nhục dục.  Phàm trai gái yêu nhau là thế cả.  Đó là một lẽ thuộc về sinh lý, họa huần mới có kẻ không thế mà thôi.  Những bọn ngây thơ thường không biết, thường hay tán dương ái tình cao thượng, nhân đó coi thường sự trao tấm ái tình cho kẻ khác, cho là rút về lúc nào cũng không hại gì.  Có biết đâu lửa dục mê người, trước cao thượng rồi sau tục tằn, đến lúc hối thì đã muộn.  Chao ôi! Bốn chữ “tinh thần luyến ái” không phải là không hay, song hay ở lý tưởng mà thôi, chứ sự thực thì chính là cái bả dại cho các chị em khuê các.  Ai có đời thì lo…[39]
Những ý kiến trên đây của Nhượng Tống đã hiển thị những phê phán xã hội nội hàm trong Ngọc lê hồn, được đọc ra thông qua sự hồi đáp của người đọc – người dịch.  Dịch giả Nhượng Tống không đơn thuần diễn giải Ngọc lê hồn; ông đối thoại với tác phẩm và với bạn đọc bản địa từ một lập trường phê phán xã hội khác, không hoàn toàn đồng nhất với những gì ông đã đọc ra được từ nơi tác phẩm.  Phê bình xã hội của Nhượng Tống đã mang theo làn gió mới của chủ nghĩa nữ quyền và hướng đến bạn đọc nữ Việt Nam.
Để tìm hiểu việc du nhập và ảnh hưởng của văn phái uyên hồ (qua đại biểu của nó là Từ Chẩm Á) ở Việt Nam trước hết cần xác lập được một danh sách các bộ tiểu thuyết, truyện ngắn xuất bản dưới tên tác gia này, được dịch sang tiếng Việt, đặc biệt là trong khoảng từ 1923-1931.   Danh sách này không những cho thấy Từ Chẩm Á đã được giới thiệu như thế nào ở Việt Nam, mà còn chỉ ra những khía cạnh khác của đời sống văn học trong nước trong thập niên thứ hai của thế kỷ XX.  Trong bản danh sách hiện có, ngoài hai tựa sách Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử được phiên âm Hán-Việt mà không dịch, ở các trường hợp còn lại tựa đề đều được dịch sang tiếng Việt.  Việc phiên dịch này một mặt giúp người đọc hiểu rõ hơn tựa sách, nhưng ở mặt khác nó cũng tạo ra không ít khó khăn trong việc truy nguyên, nhất là khi người dịch không cung cấp tựa gốc kèm theo.  Quả là không quá khó để xác định tựa gốc của Chồng tôi, Vợ tôi, hay “Gương tự do” vốn là Dư chi phu, Dư chi thê, “Tự do giám”, nhưng không phải tất cả đều dễ dàng như thế.  Khi chưa có điều kiện tiếp cận với toàn bộ các bản dịch được nêu, người đọc không thể xác quyết nguyên tác của tất cả các bản dịch tiếng Việt.  Ngọc lê hồn đã được dịch bởi 2 dịch giả khác nhau (Trúc Khê và Nhượng Tống), in tổng cộng 3 lần trong vòng 3 năm (1928-1930).  Tương tự, Dư chi phu có hai bản dịch khác nhau của Nguyễn Đôn Phục và Nguyễn Đỗ Mục công bố trong cùng một năm (1927).  Trong khi chờ đợi khảo sát tường tận, bản danh sách đành phải chất nghi đối với vấn đề nguyên tác của một số bản dịch.
Việc truy tìm nguyên tác của các bản dịch tuy khó khăn nhưng nó cũng giúp thanh lọc những tác phẩm của các tác giả khác, mà do vô tình hay cố ý đã được gắn nhầm với tên Từ Chẩm Á, như trong một số trường hợp sau đây.  Quyển Bể tình nổi sóng in rõ tác giả là “Từ Trẩm Á,” và Nhan Bảo xác định nguyên tác của nó là Tình hải phong ba 情海風波.  Thế nhưng khảo sát sơ bộ cho thấy có ít nhất ba tác giả khác nhau cho cùng một tựa sách Tình hải phong ba xuất bản ở Thượng Hải trong nửa đầu thập niên 20 của thế kỷ trước, và đáng chú ý là Từ Chẩm Á không có trong số này.[40] Sách Song hiệp phá gian雙俠破奸 (Hai chàng nghĩa hiệp) in chung với Dư chi phu (Chồng tôi) dưới tên Từ Chẩm Á, nhưng đây chính thực là Song hiệp phá gian ký 雙俠破奸記 (còn gọi là Tam mệnh kỳ án 三命奇案), tiểu thuyết trinh thám của Trang Bệnh Hài莊病骸 (tức Trang Vũ Mai 莊禹梅, 1885-1970) do Dân lập đồ thư quán xuất bản lần đầu ở Thượng Hải năm 1919.  Tập Phù dung nương 芙蓉娘 (Bóng hiệp hồn hoa) thực ra là tiểu thuyết của Ngô Khởi Duyên 吳綺緣 (1899-1948), mà Từ chỉ là người bình hiệu.[41] Tiểu thuyết Vân Lan lệ sử 芸蘭淚史 (Giọt lệ phòng văn) là tác phẩm của Dụ Huyết Luân喻血輪 (1892-1967)[42], nhưng không rõ vì lẽ gì mà dịch giả Lâm Kiều đã không ghi tên tác giả cùng với tựa gốc, và lại càng khó hiểu hơn khi sau này bộ thư mục sách Đông dương của Thư viện quốc gia Pháp lại xếp tiểu thuyết này dưới tên Chẩm Á.  Kết quả khảo sát trên đây trình hiện thêm một số tiểu thuyết gia Trung Quốc, như Trang Bệnh Hài, Ngô Khởi Duyên, và Dụ Huyết Luân, đã được dịch sang tiếng Việt nhưng lại bị phủ lấp bởi tên tuổi của tị tổ văn phái uyên hồ Từ Chẩm Á.
Tiểu thuyết biền văn tràn ngập thi từ của Chẩm Á là bữa tiệc cao sang cho khách văn chương có khả năng đọc trực tiếp nguyên tác, nhưng là thử thách lớn với văn tài người dịch trong việc chuyển tải cả phần hồn (tinh thần, ý tưởng) và phần xác (hình thức, nghệ thuật ngôn từ) của tác phẩm sang một ngôn ngữ khác.  Chính vì thế mà trong lời quảng cáo cho hai bộ sách Vợ tôi (Dư chi thê) và bộ Chồng tôi (Dư chi phu), nhà xuất bản Tân-Dân Thư-Quán đã nhấn mạnh đây là “hai bộ tiểu thuyết hay vô cùng, lạ vô cùng, của nhà tiểu-thuyết trứ-danh Từ-Trẩm-Á.  Văn Từ-Trẩm-Á cần phải tay dịch khá.  Vậy xin nói để các bạn đọc tiểu-thuyết biết cho rằng Vợ tôi chính Nguyễn-Đỗ-Mục dịch, mà rồi đến Chồng tôi có lẽ cũng Nguyễn-Đỗ-Mục dịch.  Dám quyết rằng các nhà đọc tiểu-thuyết nước ta, ai cũng lấy cái tin Vợ tôi và Chồng tôi sắp ra đời làm một tin muốn nghe trong thế-giới tiểu-thuyết vậy.”[43] Tuy nhiên, do chịu ảnh hưởng của những nhà văn học cách mạng Trung Hoa, dịch giả Việt Nam cũng có lúc đã mạnh mẽ lên án lối văn tiểu thuyết của Từ Chẩm Á,
Lối văn ấy nào niêm, nào luật, nào đối đáp, điển tích nhiều, tinh thái ít, thường có cái tệ “chặt chân cho vừa giầy”.  Các nhà văn học cách mạng ở Tầu ngày nay như Trần Độc Tú, Hồ Thích Chi [?] đều hết sức công kích lối văn này cho là một thứ văn bất tiến hóa, chỉ nên coi là một cái dấu vết của lối văn chương cổ điển (classicisme) ở Á đông mà thôi, không còn giá trị đáng sinh tồn ở đời này nữa.  Song khốn vì một nỗi cuốn này là một cuốn viết pha rất nhiều văn tứ lục, mà một điều trong ba điều cần cho kẻ dịch là phải “tín”: tôi dịch cuốn này tự nhiên là phải dịch “đúng” cả đến thể văn; chứ thực không phải có ý gì “nhăn mặt cầu xinh” để mua cười cùng kẻ biết.[44]
Tất cả những người dịch tiểu thuyết Chẩm Á đều xuất thân từ gia đình danh giáo Nho học, và trong số họ, nhiều người đã có thành tựu trên đường khoa cử.  Cũng như Phan Mạnh Danh (1866-1942) là con quan Thị độc, thi Hương đã vào đến kỳ đệ tam, Nguyễn Đỗ Mục (1866-1949) xuất thân là ấm sinh, đỗ tú tài khoa Kỷ Dậu (1909), từng thi Hội nhưng không trúng[45]; Nguyễn Đôn Phục (1878-1954) là con quan tri phủ, từng thi Hương rồi bỏ ngang vì “chủ-nghĩa phản-đối văn-chương khoa-cử”[46], nhưng sau cũng đỗ tú tài[47]; Đoàn Tư Thuật (1886-1928) là con quan Bố chính, học giỏi chữ tốt, sở trường về văn quốc âm[48]; Nguyễn Tử Siêu (1887-1965) đã qua tam trường trước khi chuyển sang thi cử quốc văn.[49] Những dịch giả sinh vào nửa sau thế kỷ XIX trên đây là người đương thời với Từ Chẩm Á, trưởng thành trong những hoàn cảnh lịch sử, xã hội tương cận với nhà tiểu thuyết uyên hồ này, và cũng như Chẩm Á, họ đều có những đóng góp nhất định trong lĩnh vực báo chí.  Một số người dịch khác trẻ hơn, như Trúc Khê Ngô Văn Triện (1901-1947),[50] Nhượng Tống (1904-1949),[51] Nguyễn Khắc Hanh (?-?),[52] đều ít nhiều có khả năng tham khảo thêm sách báo Pháp văn, có tinh thần dấn thân cách mạng, và từng bị giam cầm trong nhà tù thực dân Pháp.  Xét về mặt phiên dịch văn chương, họ thuộc về lớp dịch giả của làn sóng phiên dịch tiểu thuyết Trung Quốc đợt 2 lan rộng chủ yếu ở Hà Nội từ sau khi chế độ khoa cử Hán văn bị bãi bỏ hoàn toàn trong cả nước (1919).  Viết về phong trào dịch tiểu thuyết Trung Hoa sang tiếng Việt ở đầu thế kỷ XX, Thúc Ngọc Trần Văn Giáp nhận xét:
Từ ngày có chữ Quốc ngữ, thật là một vật báu cho ta (…)  Các cụ Nho ở Nam Kỳ còn sót lại hồi ấy, tự cho mình là không thích hợp với phong trào thái tây, mà kể ra cũng trái mùa thật.  Hoặc vì sinh kế, hoặc vì buồn không có việc, đem các tiểu thuyết Tàu dịch ra Quốc ngữ; các nhà xuất bản lợi dụng đem in ra để trục lợi.  Rồi từ đó ở Nam Kỳ lan ra đến Bắc, các nhà hàng sách mua truyện về cho thuê (…)  Hồi đó Quốc ngữ gọi là phổ thông nên các thanh niên mê thích tiểu thuyết Tàu lắm, các thanh niên hồi đó mê thích truyện Tàu không khác gì các thanh niên hiện thời mê thích Cinéma (…)  Đến hồi bãi bỏ khoa cử ở Bắc Kỳ thì trào lưu truyện Nam Kỳ cũng theo đó mà kém dần đi.  Các văn sĩ Hán học ở Bắc lúc bấy giờ vô sự cũng lại soay ra dịch truyện Tàu, phần thì bán cho các nhà nhật trình in vào phụ trương.  Từ khi xuất hiện các truyện dịch ở Bắc thì phong trào cho thuê truyện Nam kỳ kém hẳn vì giọng văn Bắc thích hợp với người Bắc hơn. [53]
Thông tin từ đoạn trích này đã lược phác nên mấy nét chính về tình hình phiên dịch tiểu thuyết Trung Quốc qua hai giai đoạn khác nhau ở hai miền Nam-Bắc đầu thế kỷ XX.  Cụ thể hơn, giai đoạn đầu diễn ra ở Nam kỳ trong hai thập niên đầu của thế kỷ với những dịch giả Nam kỳ như Trần Phong Sắc, Nguyễn Liên Phong, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Khương, Nguyễn Ân Linh, Hồ Văn Trung, Trần Văn Me, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Công Kiêu.  Giai đoạn sau khởi sự từ năm 1919 với sự tham gia của các “văn sĩ Hán học” Bắc kỳ: bên cạnh những bộ tiểu thuyết chương hồi cổ điển như Tam quốc, Thủy hử, Tây du, họ còn dịch tiểu thuyết võ hiệp và tiểu thuyết ngôn tình thời thượng ở Trung Quốc bấy giờ.  Tuy nhiên, động cơ và mục đích dịch tiểu thuyết Từ Chẩm Á của các dịch giả thời ấy có lẽ có phần phức tạp hơn nhận định tổng quát của Thúc Ngọc Trần Văn Giáp.  Đơn cử trường hợp Phan Mạnh Danh.  Đào Sỹ Nhã cho rằng ông dịch Đa tình hận vì nó “nói về cái họa tự do trong nữ giới nước Tàu.”[54] Lại xét ngay trường hợp Từ Chẩm Á để hiểu thêm về thái độ của xã hội đối với “tự do” của phụ nữ.  Vừa khi đăng xong bản dịch Tuyết hồng lệ sử vào tháng 6 năm 1924, đến tháng 9 cùng năm, tạp chí Nam phong lại công bố tiếp một truyện ngắn khác của Từ Chẩm Á nhan đề “Gương tự do” (Tự do giám 自由鑑).[55] Truyện kể những bước đường đời của nàng Phương Tuệ Lan 方慧蘭 con nhà khá giả nhưng sớm mồ côi cha, sống với người mẹ học thức và em gái là Tuệ Quỳnh 慧瓊.  Nhân mẹ được mời làm hiệu trưởng trường nữ học Chính Nghị 正誼, cả hai chị em đều nhập học ở đấy.  Tuệ Lan tuy thông minh, nhưng “tuổi hậu còn non, tơ tình dễ vướng, mắt xanh dễ đã phân biệt được kẻ dở, người hay,”[56] vì thế mà mê muội tin lời kẻ gian giảo Chương Vũ Thiến 章雨倩; mặt khác, cũng như mẹ, Lan “tiêm nhiễm cái cách văn minh mới, vẫn cho bốn chữ ‘hôn nhân tự do’ là cái sinh mệnh thứ hai của người con gái, không có ngăn cấm gì cả,”[57] nên lầm lạc trao thân cho Vũ Thiến, để rồi tủi hận mà chết khi nhận ra chân tướng của kẻ lừa tình.  Chẩm Á kết thúc câu chuyện với lời bình phẩm và kêu gọi: “Hỡi! Đồng bào nữ giới ta ơi!  Nên coi cái gương nàng Tuệ Lan đó, chớ ham cái hư danh phóng túng tự do, mà mắc phải cái họa danh nhơ chết uổng.”[58] Có thể diễn giải việc đăng tải “Gương tự do” tiếp theo sau Tuyết hồng lệ sử trên Nam phong theo nhiều cách khác nhau.  Đó có thể là do sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc đối với Từ Chẩm Á mà Nam phong cung cấp thêm một văn phẩm nữa của ông để thỏa lòng độc giả.  Đó cũng có thể là nỗ lực của tạp chí để góp phần “định hướng” công chúng, bên cạnh những “phản hồi” đạo lý từ phía bạn đọc sau khi Tuyết hồng lệ sử kết thúc (xem phần “Dịch Từ Chẩm Á – Trường hợp Tuyết hồng lệ sử dưới đây).  Dẫu sao các dịch giả, hoặc là các văn sĩ Hán học có chính kiến, xuất thân danh gia, hay là những thanh niên giàu lý tưởng, thụ hưởng cả tinh thần Hán-Pháp dịch Từ Chẩm Á sang tiếng Việt không hẳn chỉ vì động cơ thương mại, hay vì vô công, túng quẫn.  Xung đột cũ – mới của các trào lưu tư tưởng, đạo đức Đông – Tây có mặt trong tiểu thuyết của ông cũng rất gần với những vấn đề của xã hội Việt Nam đương thời.  Nói cách khác, những người dịch Chẩm Á có thể đã cảm thông với những vấn đề xã hội được đề cập trong tác phẩm của ông đồng thời với cảm thụ văn chương tài hoa của họ Từ, vì thế họ đã ra sức chuyển tải những điều tâm đắc, tạo ra hiệu ứng xã hội và khoái cảm thẩm mỹ đối với người đọc. Tám năm sau khi bản dịch quốc ngữ Tuyết hồng lệ sử ra mắt bạn đọc trên tạp chí Nam phong, năm 1932, trong bài “Lược-khảo về sự tiến-hóa cuả quốc-văn trong lối viết tiểu-thuyết,” Trúc Hà có nhận định về bản dịch và bản thân bộ tiểu thuyết ấy như sau:
Kể trong các tiểu-thuyết dịch của Tàu, quyển Tuyết-hồng lệ-sử của ông Đoàn Tư-Thuật là đặc sắc lắm.  (…) [Q]uyển Tuyết-hồng đã trải qua nhiều lần công-kích bởi là một thứ ngôn-tình tiểu-thuyết.  (…) Tuy đắm đuối trong biển tình, nhưng vẫn giữ tấm lòng sương-tuyết (…) thì dẫu chẳng là cái gương tốt cho đời cũng không đến là cái thói xấu.  Huống-chi, khối tình người ta vẫn có nhiều vẻ ly-kỳ u-uẩn, không thể vạch một đường thẳng buộc ai nấy cùng bước theo một lối.  Quyển Tuyết-hồng sở dĩ bị công-kích là bởi lời văn hay, khiến cho người xem đọc dễ say-sưa mê-mẩn, mà về sau các nhà dịch truyện tàu xem chừng ảnh hưởng ở đấy rất nhiều.[59]
Danh sách tiểu thuyết, truyện ngắn dịch đề tên Từ Chẩm Á
(dịch và in trong khoảng 1923-1931)[60]


Số TT
Năm xuất bản

Tựa gốc

Tựa dịch

Người dịch

Nhà xuất bản/tạp chí/báo
11919(?)Đa tình hậnPhan Mạnh Danh(?)
21923-1924Tuyết hồng lệ sử 雪鴻淚史Tuyết hồng lệ sửM.K./Đoàn HiệpNam Phong, 77-84
31924“Tự do giám 自由鑑”“Gương tự do”Đông Châu
Nam Phong, 87
41925Phiến phiến đào hoa 片片桃花 (?)Hoa đào trước gió, 268 trg.Nguyễn Khắc HanhHà Nội: Bùi Xuân Học
51927Dư chi phu 余之夫Chồng tôi, 193 trg.Nguyễn Đỗ MụcHà Nội: Tân Dân
61927
Dư chi phu 余之夫 / Song hiệp phá gian 雙俠破奸
Chồng tôi / Hai chàng nghĩa hiệp, 327 trg.Nguyễn Đỗ Mục, Nghiêm Xuân LãmHà Nội: Tân Dân
71927-1928Dư chi phu 余之夫Chồng tôiTùng Vân Nguyễn Đôn PhụcNam Phong, 119-130
81927Dư chi thê 余之妻Vợ tôi, 186 trg.Nguyễn Đỗ MụcHà Nội: Tân Dân
91927
Vân Lan lệ sử 芸蘭淚史
Giọt lệ phòng văn, 84 trg.Lâm KiềuHà Nội: Hưng Phú Đường
101927Tình hải phong ba 情海風波Bể tình nổi sóng – Trung hoa luân lý tiểu thuyết,44 trg.Nguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
111928Phù dung nương 芙蓉娘Bóng hiệp hồn hoa – Hiếu liệt tiểu thuyết, 90 trg.Nguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
121928
Ngọc lê hồn 玉梨魂
Dưới hoa,128 trg.Nhượng TốngHà Nội: Vạn Quyển / Long Quang
131928(?)
Giấc mộng nàng Lê, 105 trg.
Trúc KhêHà Nội: Nhật Nam
141928Tuyết hồng lệ sử 雪鴻淚史Tuyết hồng lệ sử, 36 trg.M.N. Đoàn Tư ThuậtHà Nội: Đồng Văn / Long Quang
151928Tình hải phong ba 情海風波
Bể tình nổi sóng – Trung hoa luân lý tiểu thuyết, 42 trg.
Nguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
161929
(?)
Hoa hoa mộng (?)Nhân duyên mộngNguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
171929
(?)
Kính hồn hiệp (?) Người trong gương[61]Nguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
181929Tình hải phong ba 情海風波
Bể tình nổi sóng – Trung hoa luân lý tiểu thuyết, 49 trg.[62]
Nguyễn Tử SiêuHà Nội: Nhật Nam
191929Lê Quân lệ sử 梨筠淚史 (?)
Giấc mộng nàng Lê : ái tình, hiệp tình tiểu thuyết, 104 trg.
Trúc KhêHà Nội: Nhật Nam
201930Ngọc lê hồn 玉梨魂Ngọc lê hồn, 218 trg.Trúc Khê Ngô Văn TriệnHà Nội: Tân Dân
211930Tuyết hồng lệ sử 雪鴻淚史Tuyết hồng lệ sử, 101 trg.M.N. Đoàn Tư ThuậtHà Nội: Nam Ký
221930Vân Lan lệ sử 芸蘭淚史
Giọt lệ phòng văn, 71 trg.
Lâm KiềuHà Nội: Đông Tây
231931(?)“Đống xương vô định”Mai Khê
Phụ nữ thời đàm, 29/7-2/8/1931


Dịch Từ Chẩm Á – Trường hợp Tuyết hồng lệ sử
Ngay khi khởi sự đăng trên Nam phong, do tính chất ngôn tình “nhạy cảm” của nó, Tuyết hồng lệ sử đã phải có những che chắn cùng với lời mào đầu cẩn trọng để giúp nó chào đời thuận lợi.  Dẫu rằng trong lần in thành sách và các lần tái bản về sau, tên dịch giả đều được ghi rõ là M. N. (Mai Nhạc) Đoàn Tư Thuật, ở bản dịch đăng thành nhiều kỳ trên Nam phong người dịch là được ghi nhận là khuyết danh.  Đoàn Hiệp trong “Lời chua riêng của người sao-lục” cho biết:
Bỉ-nhân có lục được một quyển văn dịch Tuyết-hồng lệ-sử mà không đề tên ai dịch cả, trên đầu có chua nhỏ mấy câu rằng: “Quyển này nguyên-văn của Từ Trẩm Á, văn cũng hay, tình cũng sâu, nhưng dịch-giả có chút ý kiến riêng không muốn công-lãm chi, nên dịch để những đồng-hiếu quân-tử xem chơi thì hơn, v.v.”  Bỉ-nhân duyệt khắp bản sao-lục ấy, xét cái thể-tài văn quốc-ngữ, nhiều chỗ hoạt-bát, mới mẻ lắm, vậy sao-lục để cống duyệt-giả.  Còn văn hay hay dở đã có công-luận.”[63]
Người soạn “Lời chua” ý thức rất rõ vai trò của người đọc, đặc biệt là với những người “giá trị” như Đức Khổng tử, trong việc kiến tạo ý nghĩa của tác phẩm.  Kinh Thi, Kinh Xuân thu nhờ Khổng tử san định, phẩm bình mà người đọc nhìn ra những tấm gương khuyến-giới.  Mặt khác, đối với một tác phẩm văn học, bên cạnh những giá trị đạo đức cần được nhận chân thông qua chủ thể người đọc, giá trị văn chương là khía cạnh thẩm mỹ không thể xem nhẹ:
Đức Khổng-tử san kinh Thi mà không san bỏ thơ Trịnh Vệ, sửa kinh Xuân-thu mà không tước bỏ sự soán thí, nghĩa là sự hay thì khuyên cho người ta, sự dở thì răn cho người ta, thứ nhất là một điều quan-hệ về việc đạo-nghĩa, thứ hai là quan-hệ về việc văn-chương, thế là một sự bất-hủ truyền lại.  Bất cứ truyện hay, truyện dở, người phải, người trá, đã trải qua tay một người giá-trị phẩm-đề vào thì cũng đủ là một cái văn có giá-trị và cái truyện có giá trị.  Truyện Tuyết-hồng lệ-sử là một truyện rất mới, cách nay mới độ 15 năm, là một sự nên xem.  Nhân-vật truyện ấy lại là một người học-giới mới buổi này, lại càng nên xem lắm.  Tuy rằng đối với bản-phận người trong truyện chưa chắc đã hợp với đạo-lý, nhưng mà văn hay, tình vui, người rất gần, truyện rất mới, thấy câu văn hay thì ta khen, thấy điều trái đạo-nghĩa thời ta răn, nên cũng là cái tiểu-thuyết có giá-trị.
Chỉ cho đến khi bản dịch được công bố trọn vẹn, Đoàn Mai Nhạc mới soạn “Bài tựa truyện Tuyết-hồng lệ-sử,” ra mặt là dịch giả của bản lược dịch này.  Qua bài tựa, có thể thấy sự cảm thông được người dịch ưu ái dành cho Mộng Hà; niềm thương xót đối với Lê Nương, Quân Thiến, tuy có nhưng vẫn dựa trên cơ sở nam quyền:
Rượu ngon gần gái, bệnh Tín-lăng là bệnh anh-hùng[64]; hoa rụng tiếc xuân, sầu Đỗ Mục là sầu phong-nhã.[65] Đời bạc-mệnh hại lây người tri-kỷ, Mộng-Hà sao khéo vô duyên?  Truyện ai-tình thưởng chén rượu đa-sầu, Mai-Nhạc thật là sinh-sự. (…)  Vậy nên: có chôn thì trước hết hãy chôn ngay người luân-lạc, hơi đâu chôn cánh hoa tàn; có thương thì trước hết hãy thương lấy kẻ râu mày, rồi sẽ thương người son phấn.  (…)  Tuy rằng: Gặp người tri-kỷ, đố ai ngoảnh mặt làm thinh; trong cuộc chung-tình, khôn thể cầm lòng cho đậu.  Nhưng mà tài-tử hỡi!  văn hay, chữ tốt còn vô-số chốn phong-lưu; giai -nhân kìa! thề quế, cung trăng, xin hãy rửa lòng phiền-não.  Xem khắp truyện này một lượt, vì tài-tình thương bác Mộng-Hà; thắp hương ra viếng hái hoa, xin sám hối cùng người bạc-mệnh.[66]
Tiếp theo Đoàn Mai Nhạc, ý kiến của Minh-phượng Nguyễn Như-Cương trong bài “Bàn về truyện Tuyết-Hồng lệ-sử” là một trong những hồi đáp sớm nhất của người đọc đối với bộ tiểu thuyết này.  Xót xa với tấn thảm kịch tay ba Lê Nương – Mộng Hà – Quân Thiến, Nguyễn Như Cương đứng trên lập trường đạo đức mà lên án lối sống của họ, những con người lẽ ra không nên vực sống dậy trên những trang sách văn chương:
Ta thật ghê thay cho chữ si-tình và người si-phụ.  Xưa nay không gì khó hơn sự chết, lại không gì khó hơn chết mà mình tự chết, thế mà yêu-kiều mặt phấn, buổi xuân xanh liễu-yếu đào thơ nỡ đem mòn-mọi má hồng, chút phận bạc hoa tàn nguyệt khuyết; cha già chẳng đoái, con trẻ không thương, thì há chả phải si-tình và si-phụ ru?
Hà há không biết Ảnh là vị-vong-nhân hay sao, mà còn dạy con toan gạ mẹ; khóc hoa chôn hoa, luận văn đàm kiếm, khêu tình những sự chi chi, khiến người sắt đá cũng si vì tình? (…) [P]hương-chi nhà sương vừa buổi xuân xanh, cầm lòng sao dễ, sử-nữ đương tuần hoa nở, bấm chí tự-do…Vậy bảo Hà giết hai người cũng phải, bảo hai người giết Hà cũng phải, mà bảo Hà tự giết Hà cũng phải nữa.
Đọc sách mà cay mắt, nghe nói lại thương-tâm; nhưng thương-tâm vốn thật thương-tâm, so vào bút pháp mười phân lỗi mười (…) Ấy câu chuyện có thế mà Từ-quân không xét lý, chỉ tự-tình, làm ra bộ Tuyết-Hồng (…) khiến người đọc đến nát ruột tan gan (…) tưởng-tượng đến người trong truyện như một bức truyền-thần trước mắt.  Than ôi!  Lê-Ảnh chết rồi, Quân-Thiến chết rồi, Mộng-Hà cũng chết rồi, Trẩm-Á còn làm sống lại nữa mà chi?[67]
Hai tiểu thuyết tiêu biểu của Từ Chẩm Á được dịch sang tiếng Việt theo trình tự nghịch đảo: Tuyết hồng lệ sử ra mắt bạn đọc Ngọc lê hồn.  Nguyên nhân chính có lẽ là do việc du nhập ít nhiều mang tính ngẫu nhiên các tác phẩm của tiểu thuyết gia này vào Việt Nam ở đầu thế kỷ XX.  Sau khi Tuyết hồng lệ sử đã đăng xong trên Nam phong, Mai Khê viết bài “Bổ truyện Tuyết-hồng lệ-sử“, cho biết nhân đọc các bài tựa trong quyển Tuyết hồng lệ sử mới biết là bộ tiểu thuyết nhật ký này được viết tiếp theo sau Ngọc lê hồn, và nhờ tham khảo thêm Ngọc lê hồn mà hiểu được số phận chung cuộc của Mộng Hà,

Xem hết các bài tựa mới biết khi trước Từ-Trẩm-Á đã làm một quyển Ngọc-Lê-Hồn, sau soạn quyển nhật-ký này, đặt tên là Tuyết-hồng Lệ-sử, thì quyển Ngọc-lê-hồn như một các khu-xác, mà quyển Tuyết-hồng ví như một cái linh-hồn.  Bỉ-nhân duyệt qua quyển Tuyết-hồng lệ-sử, nhưng tiếc rằng chỉ đến khi Mộng-Hà đi du-học là hết, vậy phải tham-sát đến cả quyển Ngọc-lê-hồn thì mới biết truyện sau như thế này, vậy nên phụ-dịch cho đủ.  Đoạn văn này là của Từ Trẩm Á chép vì cớ sao mà có quyển nhật-ký ấy.[68]
Phần dịch bổ sung thêm từ chương 29 của Ngọc lê hồn được xếp thành một trong hai bài tựa của Từ Chẩm Á cho bản dịch tiếng Việt của Tuyết hồng lệ sử.  Giải pháp văn bản này khác hẳn với phương án ban đầu, dự định dịch thêm một phần trong Ngọc lê hồn để cấu thành chương XV cho Tuyết hồng lệ sử kết thúc ở chương XIV trên Nam phong: ” Đến đây là hết nhật-ký của Mộng-Hà (Còn chương thứ 15 dịch bổ thêm ở quyển Ngọc-lê-hồn về việc khi Mộng-Hà chết, và dịch các bài tựa và lời phê-bình của Từ Trẩm Á, và phụ những lời bình phẩm của người sao-dịch).”[69] Chương 29 của Ngọc lê hồn nhắc chuyện một người họ Hoàng, trong khởi nghĩa Vũ Xương, tình cờ chứng kiến một người dáng vẻ như du học sinh sức yếu “trói gà không chặt”, khi ấy dù đã bị trúng nhiều phát đạn, máu nhuộm đầy mình, vẫn giương súng bắn hạ ba quân địch, rồi mới ngã xuống hấp hối.  Sau khi quân địch rút lui, Hoàng vội chạy đến gần thăm hỏi.  Người ấy bảo: “Ông nói giọng phương Nam, hẳn là người Giang Tô có phải?  Tôi cũng là người miền Nam, cùng là người đồng hương với ông.  Nay tôi đã bị trọng thương, không có hy vọng sống sót.  Bên mình tôi còn lại một vật này; sau khi tôi chết, xin ông hãy giữ cho.”  Hoàng lục túi người ấy, thấy một tập sách nhỏ, bèn cất lấy.  Người tử sĩ ấy là Mộng Hà, và tập sách nọ chính là “Tuyết hồng lệ thảo”.[70] Bài “Tựa 1″ đã chuyển thuật câu chuyện cái chết của Mộng Hà qua lời người họ Hoàng như sau,
Tôi nhân khi đó du lịch có qua một cánh đồng vắng, thấy một người con trai độ 30 tuổi, nằm sóng sượt vẫy tay gọi tôi đến gần, tôi vội vàng chạy lại hỏi rằng: ‘Nghe tiếng thày hình như người Ngô, có phải không?  Có muốn dặn câu gì xin cứ nói.’  Nhìn gần thì thấy đạn bắn suốt đùi, máu chảy lai láng, thổn thển bảo tôi rằng: ‘Tôi bây giờ trên trời dưới bể núi Bắc sông Nam, vì quyết chí về việc nước để đền lòng người tri kỷ không dám tiếc gì đời, may được gặp ông đây, xin ông móc túi áo tôi lấy quyển nhật ký này, để truyền bá cho người thứ hai được biết, thì tôi cảm tạ lắm.’  Nói xong thì tắt nghỉ.[71]
Chuyển thuật trên đây lộ rõ nhiều yếu tố tự sự không có trong nguyên tác, giả như tuổi đời của người con trai, ý nguyện “quyết chí về việc nước để đền lòng người tri kỷ,” hay yêu cầu truyền bá “quyển nhật ký” cho “người thứ hai được biết.”  Chuyển thuật này đã đặt cái chết của Mộng Hà, vốn là một câu chuyện hư-cấu (fiction) vào văn cảnh phi-hư-cấu (non-fiction) của một bài tựa (ký tên Từ Chẩm Á), dùng chất liệu của tiểu thuyết hư-cấu để tạo nên văn bản phi-hư-cấu.  Bài “Tựa 1″ không dừng ở đó mà tiếp tục khiến người đọc phân vân, đứng bấp bênh trên lằn ranh giữa thực và ảo của mối tình và cuộc đời của 3 nhân vật Mộng Hà 夢霞, Lê Ảnh 梨影, và Quân Thiến 筠 倩 bằng cách đọc ra hàm nghĩa trong tên gọi của họ,
Mộng Hà có phải người thật hay là giấc chiêm bao, Lê Ảnh có phải người thật hay là cái bóng hoa, Quân Thiến có phải là tên thật hay là tên mượn, thì chưa dám biết, nhưng sau khi quyển Lệ sử ra đời, xin duyệt giả đừng nhận lầm là chuyện tình thì phải.[72]
Lời nhắn “đừng nhận lầm là chuyện tình” trong bài “Tựa 1″ chính là lược giải lời Từ Chẩm Á trong bài “Tự tự 自序” (Bài tựa tự viết) của ông.  Trong bài tựa cho Tuyết hồng lệ sử, Chẩm Á viết,
Cái “tình” mà tôi nói đến thực là chuyện mà các nhà tiểu thuyết gia cao hứng, nhiệt liệt thời nay bỏ qua, không buồn đả động đến.  Đây có thể chứng minh lòng tôi cô độc, mà sách tôi viết vậy nên không muốn bị gọi là tiểu thuyết.  Tôi viết sách này là có ý riêng, bụng dạ hoàn toàn chưa từng nghĩ đến hai chữ “tiểu thuyết,” mong ước sâu xa xin người đọc chớ lấy nhãn quang tiểu thuyết mà hiểu lầm sách của tôi.[73]
Việc “có ý riêng” (ý biệt hữu tại 意別有在) của Chẩm Á ở đây là gì?  Nhân viết bài tựa cho Tuyết hồng lệ sử của em mình, Từ Thiên Khiếu 徐天嘯 (1886-1941) cho rằng tiểu thuyết ngôn tình là tả chân tình chủng 情種 (nòi tình), “Nói chung tình chủng 情種có chân tướng của tình chủng; tình chủng có đặc tính của tình chủng.  Chân tướng này, đặc tính này chỉ riêng tình chủng mới có thể biết, duy có tình chủng mới có thể tự biết.”[74] Theo đó, chỉ có người thuộc nòi tình, tự thân trải nghiệm mới có thể nắm được chân tướng, đặc tính của giống đa tình, mới có thể viết được ngôn tình tiểu thuyết theo đúng nghĩa của nó.  Trong bài tựa tự viết, Chẩm Á dự đoán sau khi Tuyết hồng lệ sử ra đời, những người yêu mến ông sẽ bảo rằng đây là bức ảnh tả chân của Chẩm Á (Thử Chẩm Á chi tả chân ảnh phiến 此枕亞寫真影片).  Niềm riêng của Chẩm Á ở đây hẳn là tự truyện ái tình của ông đã được mã hóa thành Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử. Thế nhưng, do hoàn cảnh khách quan, bài “Tựa 1″ hư cấu không biết được điều ấy.  Vả lại, khi khuyến cáo Lệ sử không phải là “chuyện tình,” bài “Tựa 1″ rõ ràng đã muốn dẫn dắt bạn đọc theo một hướng khác.  Năm 1932, nhân tái bản Tuyết hồng lệ sử, Nam Ký thư quán có lời mở đầu “Cùng độc giả”, dùng bài “Tựa 1″ nhằm phản bác những ý kiến phê phán tập sách này,
Bảo rằng đọc Tuyết hồng lệ sử có ích lợi gì, chúng tôi chưa dám bảo; nhưng nói đọc Tuyết hồng lệ sử có hại thì chúng tôi quyết không nói được: cứ xem ở bài tựa của tác giả, thấy Tuyết hồng lệ sử nguyên là một tập văn nhật ký của một vị thanh niên “Vì quyết chí về việc nước để đền lòng tri kỷ.”[75]
Ý tưởng “quyết chí về việc nước để đền lòng tri kỷ” có xuất xứ lá thư của Tần Thạch Si 秦石痴 ghi lại lời bạn mình là Mộng Hà sau khi Lê Nương quá vãng: “Tôi nén đau, ôm hận mà đến đây [du học ở Đông Kinh], là vì theo lời của người ấy thuở trước, tạm hoãn cái chết trong chốc lát mong có được cơ hội để báo ơn đất nước, tức hẳn cũng là để báo đền người tri kỷ dưới suối vàng.”[76] Hình ảnh đôi tình nhân Mộng Hà – Lê Nương cân bằng được tình riêng cá nhân với tình chung đất nước chính là tiêu điểm mà bài “Tựa” hư cấu cố gắng hướng độc giả đến, nhằm chống đỡ lại những phê bình xã hội đối với Lệ sử.  Cũng đáng chú ý là ý nghĩa chính trị của việc Mộng Hà tham gia khởi nghĩa Vũ Xương nhằm lật đổ Thanh triều, kiến lập thời đại Dân Quốc đã bị “trung tính hóa” thành chuyện chàng gia nhập vào “trận chinh cách ở tỉnh Mỗ,” cùng với “những bọn thanh-niên tráng-sĩ nước Trung-Hoa đem thân đền ơn nước ở chốn sa tràng” ở bài “Tựa 1″[77], hay thậm chí chỉ vì “giặc giã nổi lên,” mà Mộng Hà tòng quân, theo chân “chí-sĩ danh-nhân đều bỏ nghề văn-chương mà [x]ô nhau đi đánh giặc” như trong bản dịch của Trúc Khê.[78] Hiển nhiên, vấn đề nữ quyền nhức nhối mưu cầu hạnh phúc cho người phụ nữ trong Lệ sử cuối cùng đã bị bỏ rơi hoàn toàn ở đây.
Tuyết hồng lệ sử có ảnh hưởng nhất định đối với văn học hiện đại Việt Nam.  Một số tiểu thuyết Việt Nam hoặc mô phỏng cách đặt tựa, hay dựa theo văn phong, văn thể của Lệ sử như Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm (1924), Minh Châu lệ sử của Tam Lang (1930).[79] Do Tố Tâm được hoàn tất năm 1922, Hoàng Ngọc Phách có thể đã không chịu ảnh hưởng từ bản dịch Tuyết hồng lệ sử của Đoàn Tư Thuật trên Nam phong khi viết Tố Tâm, nhưng trước đó rất có thể ông đã đọc và chịu ảnh hưởng của Từ Chẩm Á trực tiếp qua nguyên tác Trung văn.[80] Qua ngòi bút dịch thuật tài hoa của các dịch giả, tiểu thuyết Từ Chẩm Á đã chinh phục tình cảm của người đọc Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ.
Phụ nữ với báo chí, văn chương, và thị trường tiểu thuyết
Việc thành lập trường nữ học đầu tiên ở Hà Nội năm 1908 sau đó lan rộng đến Huế và Saigon đã góp phần cho sự hình thành một giai đoạn mới trong sự phát triển đời sống trí thức của phụ nữ Việt Nam.  Tuy số lượng nữ sinh còn rất khiêm tốn so với nam sinh (xem Thống kê 1 và 2 dưới đây),[81] phụ nữ đã có điều kiện chính thức bước vào học hiệu, thụ hưởng giáo dục, trở thành bộ phận của phong trào nữ quyền đòi hỏi bình đẳng nam-nữ đang lan tỏa rộng khắp trên thế giới thời hiện đại.  Bước phát triển này đã tạo điều kiện để phụ nữ lần đầu tiên được tham gia vào các ngành nghề xã hội như giáo dục, y tế, và đặc biệt là trong một lĩnh vực hết sức mới mẻ thời bấy giờ – báo chí với tư cách là người đọc, người viết.


Giai đoạn 1918-1921
Số lượng học sinh
Nam sinhNữ sinhTổng số
Annam (Trung kỳ)31,24076032,000
Cochinchine (Nam kỳ)62,7309,22071,950
Tonkin (Bắc kỳ)47,2002,70049,900
Thống kê 1: Giáo dục Pháp – bản xứ, giai đoạn 1918-1921
Giai đoạn 1930-1931
(Tính đến tháng 1/1931)
Số lượng học sinh trường phổ thông cơ sở
Nam sinhNữ sinhTổng số
Annam (Trung kỳ)9,40475010,154
Cochinchine (Nam kỳ)72,03220,01292,044
Tonkin (Bắc kỳ)44,6672,58747,254
Thống kê 2: Giáo dục Pháp – bản xứ cấp phổ thông cơ sở, 1930-1931

Ngay từ năm 1913, trên những số đầu của Đông dương tạp chí đã có mục “Lời đàn bà”, với những bài viết về các vấn đề phụ nữ của các nhà báo nam ký bút hiệu nữ, như Nguyễn Văn Vĩnh (ký tên Đào Thị Loan) hay Nguyễn Văn Bổng (dưới tên Nguyễn Thị Bổng).  Tiếp theo Đông dương tạp chí, hầu như tất cả các tờ báo xuất bản trong mấy thập niên đầu thế kỷ XX đều có một mục riêng dành cho phụ nữ.  Phải đến năm 1918 mới có một tờ báo riêng định hướng xã hội cho phụ nữ: Nữ giới chung.[82] Tờ tuần báo này đã mở đầu cho một loạt những tuần báo khác chọn phụ nữ làm đối tượng độc giả như Phụ nữ tân văn (1929-1934) và Phụ nữ thời đàm (1930-1934).
Sự ra đời của tuần báo Nữ giới chung năm 1918 không chỉ là sự kiện văn hóa quan yếu đầu thế kỷ 20, mà còn là một cột mốc trọng đại trong lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam hiện đại.  Báo ra đời nhân chủ trương thay đổi chính sách văn hóa của Toàn quyền Albert Sarraut (1872-1962), đặc biệt trên phương diện báo chí.  Nhận thức rõ về thế lực của phương tiện truyền thông đại chúng dựa trên công nghệ in ấn hiện đại này, Sarraut tăng cường sử dụng báo chí vào mục đích tuyên truyền nhằm chống lại ảnh hưởng của Đức đang ngấm ngầm lan toả trong xã hội Việt Nam qua những ấn phẩm nhập từ Trung quốc, chống lại những tư trào của các nhà cải cách Trung quốc như Khang Hữu Vi康有為(1858-1927) và Lương Khải Siêu梁啟超 (1873-1929), đồng thời tách rời trí thức bản địa khỏi ảnh hưởng Trung hoa và gầy dựng tâm lý sùng Pháp qua việc truyền bá văn minh Tây Âu.[83] Không chỉ nhắm vào đối tượng trí thức, Sarraut còn chú mục đến phụ nữ như một lực lượng xã hội giàu tiềm lực nhưng còn ít được quan tâm.  “Mấy lời kính tỏ” đăng trang trọng trên trang nhất của báo nói rõ: “Nay nhơn quan Toàn-quyền Sarraut đang sốt sắng về sự nữ-học, cho phép bổn-báo chủ-nhơn là ông Blaquière lập ra tờ nữ-báo này, đặng giúp ích trong cuộc phổ-thông một đôi chút.”
Năm 1917, thông qua quen biết với người con rể của bà Sương Nguyệt Anh, ban biên tập báo mời bà đứng làm Chủ bút.  Do đã ngoài 50 tuổi, bà không lên Saigon để trực tiếp tham gia làm báo: “Người cũng sẵn có lòng nhiệt thành về sự báo, nhưng vì già cả, và trở nhiều việc, chỉ ở nhà viết bài gởi lên mỗi tuần mà thôi.”  Trong “Lời tựa đầu,” báo nêu rõ “cái chủ-nghĩa (cái nghĩa của mình chăm chủ) cần nhứt là đề-xướng (đứng xướng lên) việc nữ-học (sự học của đờn bà con gái), chớ chẳng dám can-thiệp (gính giấp, đả động) đến cả chánh-trị (cai trị) cũng chẳng dám tranh đua với bực tài trai.”  Trên cơ sở này, báo xác lập mục đích chính là “muốn đem một tấm lòng ngay, giúp trong bạn gái, gây cái nền tứ-đức (Một là nghề nghiệp, hai là ăn nói, ba là giáng điều, bốn là nết na) một đôi chút.”  Với định hướng này, báo định ra bốn “tánh chất riêng” cho mình.  Một là Vun trồng gốc Luân lý (đạo làm người ở với cha mẹ, anh em, họ hàng, và nước nhà) thông qua việc tồng thuật các khuôn mẫu phụ nữ Âu Á xưa nay.  Hai là Trau giồi lẽ biết thường qua việc lược thuật học thuật xưa nay, trình bày hiện trạng diễn biến trong và ngoài nước sao cho phù hợp với trình độ của phụ nữ.  Ba là Gây dựng cuộc công-thương bằng cách diễn giải các khoa chuyên môn thiết dụng, chỉ rõ tình hình cạnh tranh trên thương trường, khuyến khích phát triển lợi thế thủ công nghiệp, cổ vũ hàng hóa trong nước sản xuất, và bảo vệ không để lợi quyền rơi vào tay người nước ngoài.  Bốn là Liên lạc mối cảm tình (lòng biết thương xót nhau) bằng cách chỉ rõ nghĩa chủng tộc, Bắc-Trung-Nam đồng tâm hiệp lực đề cùng tiến bộ.  Báo định ra 8 mục thường kỳ là Xã-thuyết, Học-nghệ, Gia-chánh, Văn-uyển, Tạp-trở, Thời-đàm, Truyện-ký, và Tiểu-thuyết.  Đáng chú ý là các mục liên quan đến văn chương đều nhằm xây dựng nền tảng tinh thần, đạo đức.  Mục Văn-uyển bao gồm từ, phú, thi, ca của các danh gia là nhằm “di dưỡng tánh tình,” “vẽ vời tư tưởng.”  Mục Truyện-ký nêu gương “mẹ hiền, dâu thảo, đức-hạnh tài-ba xưa nay.”  Mục Tiểu-thuyết đăng tải “những truyện có lý-thú của mấy nhà Đại-tiểu-thuyết-gia ký-thác làm người trong sách, mà tả cái chơn tướng thói đời lòng người,” ngụ ý khuyên răn, ngăn ngừa những “thói xấu trong xã-hội.”  Dù tuyên ngôn “không can thiệp đến cả chính trị,” việc báo nỗ lực cổ vũ phát triển đất nước, nâng cao dân trí (trước tiên là trong nữ giới), đoàn kết dân tộc, thống nhất ba miền đã là nỗ lực chính trị của Nữ giới chung trong điều kiện thuộc địa.
Với phương châm và tôn chỉ như trên, Sương Nguyệt Anh chủ trương thay vì lãng phí thời giờ với sáng tác văn chương, phụ nữ nên đặt tâm trí vào thực nghiệp để góp phần xây dựng quốc gia phú cường, nhằm theo kịp các nước đang phát triển ào ạt trong thời đại mới của khoa học và công nghệ.  Thực nghiệp không chỉ là con đường đưa phụ nữ Việt Nam lên ngang hàng với phụ nữ thế giới, mà còn dẫn họ đến bình quyền nam-nữ:
Nghĩa câu thơ vận phú, là thú giải phiền, cũng như cái vườn kiển [kiểng/cảnh], ngắm chơi vui mắt, chớ thiết-dụng, chắc không bằng đám rau.  Tuy vậy, nhưng con người ta ở trong chốn bụi hồng, lúc trăng trong, có năm ba tri-kỷ, thú thanh-cao còn chi bằng cái thú văn-chương.  Song nghĩ lại nước nhà đang buổi phôi-thai, trăm điều còn kém thua người cả trăm, mà mảng vui rượu sớm cờ trưa, câu thần nối thơ, tay tiên rót chén, dẫu tài trai cũng chưa khỏi tiếng thi-cuồng (điên thơ); sách họ Tào[84] há dễ nấu ra cơm, bút chàng Giang[85] khó bề may đặng áo.  Huống chi đờn bà, đôi vai gánh nặng nỗi nhà, mà muốn chen lên trên chốn văn-đàn (chỗ văn-chương) làm chị ông Lý-Thái-Bạch; ngâm trăng ngợi tuyết, cợt gió cười mây, thì sao cho tròn cái nghĩa vụ làm con, làm vợ, làm mẹ?
(…)  Ngày nay ngọn sóng Âu-trào, tràn qua Nam-hải, các khoa-học minh mông trời biển, công-nghệ thế ấy, học thuật thế kia, trông người mà gẩm đến ta, tình buồn cảnh buồn, mà không buồn, lại buồn đến cánh bông tàn, buồn vừng trăng khuyết, thiệt lý-tưởng cao mà lý-tưởng lạ vậy!
Kìa ta mở cặp mắt ngó ra hườn- [hoàn] hải, người Âu, Mỹ, làm thầy giáo cũng đờn bà, thầy thuốc cũng đờn bà, mà thầy kiện cũng đờn bà, trong tay sẵn có một nghề, không phải nương nhờ vào người nam-tử.  Ấy học người ta như thế, há phải như ta không bệnh mà rên?
Chị em ôi!  Cái chết đánh chết cái hay, dẫu văn như ả Tạ nàng Ban,[86] cũng chẳng qua một cái trò chơi của ông tạo-vật.  Nếu muốn có cái địa vị ngang ngang với người nam-tử, thì việc tề-gia nội-trợ, phải thuộc làm lòng, tình trong thế ngoài, ráng nên ghé mắt, tuy chưa được như người Âu, Mỹ, song cũng đừng phụ tiếng Lạc-Hồng (Lạc-Hồng là tổ nước ta).  Vậy chẳng những phước riêng trong gia-đình, vả lại cũng ích chung cả xã-hội nữa, ấy mới gọi mượn phước-trạch đua chí với văn chương, chi phải bắt chước cái giọng hàn-toan (chua cai [cay]) như nhà học-cứu? (thầy đồ).[87]
Để thi hành thực nghiệp, phụ nữ cần nâng cao tri thức, học vấn của mình thông qua việc đọc.  Sương Nguyệt Anh cho rằng do thế giới ngày nay đã mở rộng đón chào cả nam lẫn nữ vào một “phong hội” mới, phụ nữ cần phải trang bị cho mình kiến thức như nam giới.  Họ cũng cần phải tránh xa tiểu thuyết mà đầu tư thời gian cho việc đọc những bộ sách quốc ngữ có ích cho giáo dục gia đình và thực nghiệp xã hội:
Phàm người biết nghĩ, chẳng nói thì ai cũng biết rằng, sách dạy đờn-bà con gái đời xưa, trừ ngoài một khoa luân-lý, quyết nhiên không còn gì hiệp với thời-thế bây giờ.  Vì thế-giới xưa là thế-giới riêng của đờn ông, mà thế giới nay là thế-giới chung cả đờn bà; phong-hội đã mỗi ngày một mở mang thì học-thuật cũng mỗi ngày một thêm rộng, nếu cứ khu khu một cái chủ nghĩa làm con làm vợ, thì kiến thức ắt hẹp hòi, sao có cái địa-vị tương đương với người nam-tử được?  (…)  Là đời cạnh-tranh nầy, bất câu là gái hay trai, ai ai cũng phải có một cái kiến-thức thông thường đặng cho hoàn-toàn nhơn cách.
Trong ba xứ, như Bắc-kỳ, Trung-kỳ, đờn bà mà biết chữ quốc-ngữ, tuy chưa được bao nhiêu, chớ Nam-kỳ ta đây, mười phần cũng có đến bảy tám, mà không thấy một cuốn sách nào thuộc về giáo dục đờn bà cả.  Vậy có trách sao “Phản-đường,” “Thuyết-nhạc,” ai cũng thuộc lòng, “Gia-sự,” “Thủ-công” hỏi thì dốt đặc.[88]

Trong khi sách quốc ngữ còn chưa nhiều, phụ nữ nên tranh thủ đọc báo quốc ngữ vì “báo là một lò luyện-tâm đào-trí cho người, ta có xem thời mới có khôn.”  Ngoài việc cung cấp tri thức căn bản, báo chí khi ấy còn đóng vai trò hướng dẫn phụ nữ sinh hoạt hợp thời, cập nhật với thời sự – thời thế:
Ta hãy còn yếu đuối, báo là cái đại dược-phòng, ta muốn mạnh khỏe phải cần đến mới được.  (…)  Ta coi tờ báo có điều hay thời ta bắt chước, điều dở thời ta lánh xa.  Người xưa có câu: “khai quyển hữu-ích” nghĩa là không xem sách thời nó ngu dốt người đi, chớ nếu mở đến quyển sách xem lấy ít nhiều thời cũng là có ích rồi.  Thế thì tờ báo là một quyển sách theo phong-trào mà khích lệ lòng người khảo cứu giúp xã-hội, thời-thế thế nào thời đem bàn-bạc mà liệu cách duy trì cho vững-trải [chãi] nòi giống mình; nếu mà xem được tờ báo hay, tạp-chí khá mà xem, thì ích-lợi còn hơn là quyển sách chẳng hiệp thời.[89]
Trên thực tế, khi ấy đã có một số nhỏ phụ nữ học trường Pháp, học lên cao đẳng sư phạm, và thậm chí còn du học ở Pháp.  Tuy chỉ là thiểu số, những người phụ nữ học vấn này sẽ góp phần thay đổi quan niệm về việc đọc của phụ nữ, cũng như ảnh hưởng của tư tưởng trong sách báo ngoại nhập đối với họ nói riêng, và với phụ nữ trong nước nói chung.  Tác giả khuyết danh của một bài báo trên Phong hóa đã miêu tả một bức tranh có phần ảm đạm của thị trường tiểu thuyết ở Hà Nội vào đầu thập niên 1930.  Theo bài viết này, trong khoảng 10 năm trước đó, dạo qua các nhà sách, người ta có thể thấy nhan nhản những tiểu thuyết trứ tác hay dịch thuật như Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách, Mồ cô Phượng (1928) của Tùng Lâm Lê Cương Phụng, hay Một tụi chán đời (1927) của Nguyễn Văn Lịch; bên cạnh tiểu thuyết của tác giả trong nước còn có Truyện ba người ngự lâm pháo thủ (1926), cùng một số tiểu thuyết dịch của Từ Chẩm Á như Vợ tôi (1927), Chồng tôi (1927), và Tuyết hồng lệ sử (1928).  Tuy nhiên vào thời điểm của bài báo, khách mua sách “không thấy bày một quyển quốc văn nào.  Họa chăng là những sách giáo khoa (…) thì còn thấy có in mà thôi.”  Bài báo giải thích hiện tượng này bằng hai nguyên nhân.  Một là do “nhiều nhà trước thuật, dịch thuật ra đời quá”.  Các “văn sĩ non” ồ ạt tràn ngập thị thường sách đã khiến chất lượng các tác phẩm văn chương sút giảm trầm trọng và làm người đọc mất hứng thú.  Hai là do “Pháp học lan rất rộng, rất mau chóng.”  Một lớp độc giả có khả năng đọc trực tiếp tác phẩm qua nguyên tác Pháp văn đã hình thành, và với họ, “những tiểu thuyết, truyện ngắn của mình đem so với tiểu thuyết của Pháp văn thì có khác gì đem bài của học trò mà so sánh với các ông giáo.”  Hệ quả là các hiệu sách, các nhà buôn phải chiều theo yêu cầu của thị trường, “đua nhau buôn đủ các sách chữ Pháp” và tất nhiên phải treo bảng “bán giá bên Pháp.”[90] Một số phụ nữ trí thức tất nhiên có mặt trong số bạn đọc tiểu thuyết Pháp văn ấy và tác phẩm văn chương Pháp tất yếu đã ảnh hưởng đến tư tưởng của họ.  Dư luận xã hội sẽ luận giải ảnh hưởng này theo những hướng khác nhau.
Ảnh hưởng tiểu thuyết Pháp: Vụ án “Bạn và Vợ”
Năm 1927, báo chí 3 miền khiến độc giả chấn động bởi tin ngoại tình giữa một người phụ nữ và hai người đàn ông, cả ba đều là trí thức bậc cao đẳng.  Cặp vợ chồng trong vụ án này là cô Hoàng Thị Khiêm và ông Trần Văn Khang, cùng tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm Hà Nội.  Cô Khiêm ngoại tình với ông Vũ Tam Thám, bạn của chồng mình.  Cũng từng theo học Cao đẳng sư phạm, ông Thám nguyên là giáo sư trung học, sau chuyển sang làm tham biện ở một công sở, đã có vợ và 7 mặt con.[91] Cô Khiêm và ông Thám dan díu với nhau, cùng bỏ trốn nhưng bị ông Khang bắt được.[92] Vụ án ngoại tình này được đưa ra tòa vào tháng 4/1932, và nhanh chóng thu hút sự chú ý của dư luận.
Trong thời gian xử án, báo chí liên tiếp công bố thư từ và nhật ký của họ, và nhân đó công chúng có dịp biết thêm về những góc kín của ba nhân vật từng được đào tạo trong hệ thống giáo dục cao học Pháp ở Bắc kỳ thời ấy.  Theo nhật ký của cô Khiêm, hôn nhân của cô với ông Khang hoàn toàn không có tình yêu.  Vốn có bằng cao đẳng tiểu học, cô Khiêm trước đó dạy học ở Hà Tĩnh.  Mẹ mất sớm, cha tục huyền, cô Khiêm xin trở lại học ở trường Cao đẳng sư phạm học, và gặp ông Khang ở đấy.[93] Ở tuổi 22, có lúc cô đã từng nghĩ đến chuyện quyên sinh.  Cô Khiêm đa cảm ấy viết những dòng sau đây trong nhật ký,
Sáng ngày tôi đi học, nhưng là đi cho có vị chứ tôi buồn lắm có làm được gì đâu.  Đi đến tôi trông thấy Khang tôi lại buồn.  (…) Từ nay tôi không muốn trông thấy Khang nữa, tôi không muốn cho Khang hỏi han gì đến tôi nữa cả.  Tôi điên lắm rồi, đừng làm tôi nói ra nhiều câu chua chát điên cuồng mà khổ thân!  Khổ, tôi thương Khang quá, tự nhiên phải chịu cái vạ! (…) Chiều hôm nay tôi lại vơ vẩn trên con đường Tây hồ, Trúc Bạch.  (…) Tôi ngồi mắt nhìn phong cảnh mà trí vẫn nghĩ đi đâu, nghĩ có lúc nó đau quá hình như muốn kêu muốn khóc cho hả, nhưng nào khóc nào kêu có được…lúc bấy giờ chỉ muốn nhảy tòm ngay xuống hồ…như thế là hết đau đớn hết buồn hết tức (…)  Tôi xét ra thì nay tôi lại buồn hơn trước, vì tôi là người đa cảm, nay cái buồn cái chán đời từ xưa chưa nhẹ đi tý nào (thêm vào thì có phần) mà lại thêm cái buồn là gây nên mối buồn về sau này cho Khang![94]
Cô quý ông Khang vì ông là người “nghĩa hiệp, thực thà,” nhưng ông không phải là người giúp cô hoàn thành mộng tưởng “một mái nhà tranh và một quả tim” (Mon rêve: Une chaumière et un coeur).  Kết hôn với ông Khang, cô giao hẹn: “Tôi chỉ lấy cậu trong năm năm mà thôi, sau đấy hai ta sẽ phải cùng nhau chia rẽ.”[95] Trong khi những cung phụng vật chất của ông Khang không thỏa mãn được nhu cầu tình cảm của cô, ông Thám xuất hiện và xen vào giữa quan hệ vợ chồng của họ.  Bỏ trốn cùng nhân tình, cô Khiêm để lại một bức thư viết bằng tiếng Pháp xin ông Khang tha tội ngoại tình trước khi tìm sự giải thoát trong cái chết, nhưng trước tòa, cô lại tự biện hộ bằng tiếng Pháp “kể nhiều chuyện có ý đổ lỗi cho chồng nên mình mới bán rẻ chữ trinh.”[96] Trong thời gian xử án, ở tầng dưới tòa án “người đông như kiến cỏ, hàng ngót năm sáu nghìn người, thở không kịp, xô đẩy nhau để muốn được vào xem mặt những vai chủ động trong tấn kịch bạn, vợ này.”[97]
Ngay khi vụ việc được đưa ra ánh sáng năm 1927,  Nguyễn Hữu Kim soạn ngay vở kịch Bạn và vợ, công diễn lần đầu ở Hà Nội ngay trong năm ấy, và tiếp tục đưa lên sân khấu vào những năm 1929 and 1933 ở Hà Nội và Saigon.[98] Suốt trong thời gian phiên tòa, vở kịch trở thành đầu đề để công luận nhìn lại quá trình học hành của cô Khiêm để đoán định nguyên nhân phạm tội.[99] Tự do luyến ái bị lên án, và suy nghĩ không chín chắn khi xem văn chương Tây (đặc biệt là tiểu thuyết) bị xem là nguyên nhân suy đồi đạo đức của nữ sinh viên trong hệ thống giáo dục cao đẳng Pháp.  Một nhà báo ký tên Thương Biên lên án,
Trên con đường học mới, nó có những cái trở ngại lớn cho các chị em đang theo đuổi, là những tiểu thuyết Tây.  Một điều nên nghĩ vậy. (…)  Đọc tiểu thuyết Tây tức là xem những cuốn chuyện tuỳ theo sở thích của mình, của những nhà văn sĩ hay thi sĩ Pháp.  Vậy, cứ theo ngu ý, thì, đối với chị em ở cái trình độ như trên, cái sự đọc tiểu thuyết Tây, không nên coi là sự hay cho chị em cần phải có.  Sự hay cho hạng chị em ấy ngày nay, là hãy bằng lòng với những môn học chữ Tây bị bó buộc phải học.  (…)  Mà nói đến ngọn bút của những nhà tiểu thuyết Tây tả đến tình cảm con người ta, thì tôi phải phục là cái tài nó khéo tô vẽ, trạm trổ cho đến cực điểm (…) Nhưng cái tình cảm tả trong những thiên tiểu thuyết Tây như thế – hay có thể nói được trong các thiên tiểu thuyết Tây – nó có hợp với bản chất của chị em Nam Việt ở cái trình độ học thức trên đâu!  Đã không hợp với bản chất chị em, mà lại chủ trương, lấn áp, chi phối được cái mảnh hồn chị em, thì điều đó, chỉ có hại to, mà không có lợi nhỏ vậy.  Bị lôi kéo một cách khốn nạn như vậy, chị em rồi linh đinh hoài trong cái bể tiểu thuyết sóng gió lụt trời, mà trở nên những người mất hẳn tâm hồn riêng, những người “thọ cảm” (…)  Một lũ điên bởi cái tâm hồn đã nát bét, nát bét bởi những sự kích thích vô vị của ngọn bút đại tài nhà tiểu thuyết, hay một áng thi nhân![100]
Điểm qua chương trình giảng dạy văn chương Pháp với những nhà thơ, nhà văn bắt buộc phải đọc, như Lamartine, Alfred de Musset, Chateaubriand, và Victor Hugo – “những ngọn bút có thể cảm người ta một cách rất mãnh liệt”, tác giả yêu cầu các nữ sinh viên phải biết dùng “cái thước đo của nhà sư phạm liệu chiều mà hạn chế cái cảm giác cho nó khỏi vượt bừa qua cái vòng ‘sư phạm’.”  Vụ án “Bạn và vợ” là một ví dụ cho thấy phương thức tư duy kết tội văn chương – tiểu thuyết tình cảm lãng mạn (Pháp) như là nguồn gốc dẫn suy đồi đạo đức và băng hoại xã hội ở những bạn đọc nữ thiếu suy xét và không đủ bản lĩnh tri thức.  Cũng trong vụ án này, đã thấy quyết định tự sát tồn tại như một giải pháp để thoát ra khỏi hoàn cảnh bế tắc về tinh thần và tình cảm ở những phụ nữ “tân thời.”

Phụ nữ tự sát – Từ “Phong trào” đến “bệnh dịch”

Cho đến năm 1932, việc phụ nữ tự sát đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng khiến nhiều bậc thức giả phải quan tâm.   Phan Bội Châu viết bài “Nguyên nhân tự sát vì sao?” để công bố trong mục “Bức thư ở Huế” trên Phụ nữ thời đàm nhưng rất tiếc do kiểm duyệt, nay chỉ còn thấy được tựa bài đăng trên số báo ra ngày 18/6/1932.  Vào năm 1927, những vụ tự sát diễn ra nhiều như một “phong trào”, và đáng chú ý là phần đông họ đều được cứu sống.  Tuy không có con số thống kê đầy đủ về tất cả các trường hợp, một điều tra sơ bộ tập hợp 43 trường hợp phụ nữ tự sát đăng tải trên báo chí trong khoảng từ 1927 đến 1934 ở Hà Nội, Huế, và Saigon.[101] Kết quả này góp phần khẳng định tính xác thực của nhận xét sau đây viết vào tháng 7/1927,
Gần đây, nói về chị em chúng mình hình như cái phong trào tự sát đã nổi lên đùng đùng không mấy hôm là không nhận được tin tức, nào chị này đầm đầu xuống hồ Hoàn Kiếm, nào chị kia [gi]eo mình xuống hồ Tây, lại còn những cô tự tử bằng cách khác như uống thuốc phiện dấm thanh cũng không phải là ít.  Trong số những người muốn tự tử phần nhiều là các tiểu thư, ăn vận rất lượt là hoa mỹ, hình như con nhà tử tế cả, mà thường thường xuân xanh chỉ độ trong vòng mười tám đôi mươi có lẻ là cùng!  Có một điều lạ là tuy các cô muốn mượn [gi]òng nước hoặc chén dấm thanh mà rũ sạch nợ trần cho hả cơn hờn [gi]ận, cho khỏi phải đeo đẳng cái tấm thân cơ khổ ở cái đời tẻ ngắt buồn tênh, nhưng tuy người muốn thác [tr]ời nào có cho; thực các cô muốn chết mà chết cũng không thoát được vậy.[102]
Năm năm sau (1932), tạp chí Nam phong đăng song song nguyên văn tiếng Pháp với bản dịch tiếng Việt tiểu luận về tự tử  của tiểu thuyết gia Edmond Jaloux (1878-1949).  Lời giới thiệu in ở đầu hai bản song ngữ Pháp – Việt phân tích vắn tắt nguyên nhân căn bệnh tự tử ở Việt Nam,
Trong xã hội Việt Nam ta hiện nay, thường thấy nói có cái dịch tự tử.  Gái non trẫm mình xuống sông xuống hồ, trai trẻ uống thuốc độc bằng nha phiến với dấm thanh, những việc đó hằng thấy in trong mục thời sự các báo.  Một cái xã hội có nền nếp thì người ta không khi nào nghĩ đến quyên sinh.  Sở dĩ có kẻ chán đời đến không muốn sống nữa, là vì cái hoàn cảnh bực tức, khiến cho người ta đã không biết sống làm vui, thời sao có biết thiệt thòi làm thương.  Cái dịch tự tử trong xã hội ta, âu cũng là cái triệu chứng xã hội đương qua một hồi khủng hoảng về tinh thần vậy.[103]
Diễn giải phân tích trên đây, Phạm Thị Ngoạn đi ngược về 9 năm trước đó, tìm trong bài viết “Thanh niên có nên buồn không?”[104] của Phạm Quỳnh để hiểu xem cuộc khủng hoảng tinh thần ấy là gì.  Bà kết luận đó có thể là sự xung đột giữa một bên là trào lưu cá nhân và hoài bão tự do với một bên là gia đình truyền thống như một chướng ngại cho sự phát triển cá nhân, gây ra tâm lý “văn hóa mất rễ”, mất phương hướng trong hoàn cảnh “Âu hóa” gần như “đoạn tuyệt với Đông phương.”[105] Trong bài xã luận mang tên “Chúng tôi hiểu cái lẽ cô Tuyết-Hồng tự vận,” đăng trên Phụ nữ tân văn tháng 5/1931 tác giả khái quát hóa nguyên nhân chung của việc phụ nữ tự tử thông qua một trường hợp cụ thể.  Một tuần sau khi cưới, cô dâu trẻ 17 tuổi Đinh Thị Tuyết Hồng ở Hà Nội giao mình xuống hồ Trúc Bạch tự trầm vì bị kết tội thất tiết trước hôn nhân.  Tác giả bài xã luận tự tin khẳng định,
Mấy năm nay ở ngoài Bắc thường thấy con gái tự vận luôn, mà đám nào lại không phải là tự tình duyên trắc trở hay là gia đình nài ép mà ra.  Trước cô Hồng, sau cô Hồng cũng vậy hết. (…)  Các bực làm cha mẹ, làm chủ gia đình, đừng ép duyên, đừng thách cưới, đừng bắt buộc đè nén con cái thái quá, đừng lôi thôi sanh sự về việc hôn nhơn, thì tự nhiên là không có cô nà phải tự vận cả.  Chứng cớ là trong Nam, cái chế độ hôn nhơn đã bớt những thói tục xưa đi nhiều; người con gái không bị ép buộc quá, bởi vậy có ai nghe một người chị em chúng tôi đây tự vận về chuyện hôn nhơn bao giờ?[106]
Trên thực tế, ở miền Nam cũng có không ít vấn đề trong hôn nhân – gia đình, và một trong số đó chính là chuyện lấy lẽ, vợ lớn – vợ bé.[107] Chế độ đa thê cũng là nguyên nhân của nhiều thống khổ , ví như những vụ tự sát của cô Nguyễn Thanh Vân nhảy lầu khách sạn tự tử ở Saigon ngày 31/12/1931, hay cô Thị-Cái trẫm mình ở cầu Bình Lợi chỉ một tuần sau đó, vào ngày 6/1/1932.[108] Cũng như hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội, đến năm 1934, cầu Bình Lợi đã có tiếng là mồ chôn những người con gái bạc mệnh ở Saigon.[109] Bệnh   dịch tự sát đã lan vào đến cả trong Nam.  Đặc biệt trong giai đoạn khủng hoảng, suy thoái kinh tế, thất nghiệp trầm trọng đầu thập niên 1930, một số phụ nữ cũng đã cùng chồng tự sát.[110]
Dưới bút danh BOY, tác giả một bài báo có tựa là “Thuốc phiện dấm thanh…” đăng trên Phụ nữ thời đàm tháng 12/1932 đã lên tiếng phản bác cả phía bắt tội tính ảo mộng của một số chị em phụ nữ như là căn nguyên của việc tự sát, lẫn phía lập luận cho rằng những án tự sát nọ là điềm chứng của “phong hóa suy đồi” trong nữ giới.   Đầu tiên, tác giả cho rằng những vụ tự sát được tường thuật trên báo chí đương thời “không có gì là kỳ quặc”, vì ngoại trừ những con người bất thường, làm sao một người con gái bị gả bán lại có thể chịu đựng được cay đắng trong cuộc hôn nhân thiếu vắng tình thương yêu và sự bênh vực của chồng hay cha mẹ chồng.  Ở trường hợp này, cha mẹ đẻ cũng chẳng giúp gì cho vì nghĩ rằng con mình đã thuộc về nhà chồng, nên đành phó mặc.  Thế nên khi một người phụ nữ quyên sinh, người ấy đáng được xã hội thương xót hơn là bị kết tội hay lên án.  Mặt khác, cũng không nên xem chuyện phụ nữ tự sát như là điềm ứng cho phong hóa suy đồi.  Phong hóa không phải là bất biến, mà tiến triển theo thời, phụ thuộc vào những tiếp xúc lịch sử, xã hội, văn hóa, và nằm ngoài nguyện vọng hay mong muốn chủ quan thủ cựu của cá nhân hay một tập thể người nào đó.  Do vậy, không nên xem những gì đi ngược lại một số giá trị đạo đức Nho giáo quen thuộc là bại hoại.  Hơn nữa, chính do sự phát triển và phát hành rộng rãi của báo chí mà công chúng được thông tin nhanh chóng về các vụ việc phụ nữ tự sát xảy ra tại những thành phố lớn như Saigon và Hà Nội: “Trước khi có báo trương ra đời (…) cái bệnh tự sát không phải là không có ở nước nhà.  Khi ấy giả thử có (…) hai trăm cái án tự sát ra nữa, chúng ta cũng không biết, không hay.”  Tin tự sát đăng tải trên báo là nhằm thỏa mãn trí tò mò của bạn đọc, và báo chí đã thổi phồng những sự việc đau buồn này.  Qua lăng kính báo chí và lối đưa tin phóng đại, “một tin con con thế này cũng vang lừng như tiếng [s]ét, nên khi có một đám tự sát, nhân dân vẫn tưởng có tới dăm bẩy đám!”[111] Bài viết trên là một tiếng nói điềm tĩnh nhận định hiện tình phụ nữ tự sát giữa những dư luận trái chiều đối nghịch.  Đây cũng là một trong những trường hợp hiếm hoi chỉ ra được vai trò của báo chí trong việc định hướng, dẫn dắt công chúng trước một hiện tượng xã hội phức tạp như phụ nữ tự sát.
Đáng chú ý hơn là có nhiều trường hợp phụ nữ tự tử ở nơi công cộng, như hồ Gươm, hồ Trúc Bạch ở Hà Nội, cầu Bạch Hổ trên sông Hương ở Huế, hay cầu Bình Lợi trong Saigon.  Nằm ngay giữa trung tâm Hà Nội, hồ Gươm là địa điểm công cộng có khả năng trắc nghiệm, đánh động tâm lý, tình cảm, và quan điểm công chúng hiệu quả nhất.  Vì thế, không phải ngẫu nhiên mà chị em hai cô Chu Thị Tiêu (19 tuổi) và Chu Thị Căn (18 tuổi) quê tận làng Phù Lưu cất công đáp xe lửa từ Bắc Ninh ra Hà Nội trẫm mình cùng chết ở hồ Hoàn Kiếm vào độ thu năm 1931.[112] Quả nhiên, tự tử ở nơi công cộng dễ dàng đánh động sự quan tâm chú ý của công chúng, và  khơi dậy những quan điểm khác nhau đối với hiện tượng này.  Thế nên, cũng không lạ gì khi thấy các cô “ăn vận rất lượt là hoa mỹ” đi tìm cái chết và được cứu sống khỏi giòng nước oan nghiệt ở những địa điểm công cộng ấy.  Tự tử ở nơi công cộng đã trở thành đề tài cho tranh biếm họa thời bấy giờ.

- Ông cứ để mặc tôi đâm đầu xuống…
- Cô này mới ương giở quá!
- Lạy ông…ông cứ để tôi nhẩy xuống cho ướt rồi ông hãy cứu.
Cô con gái nhẩy xuống hồ tự tử bảo người phu xe mới vớt mình lên:
- Nhân tiện bác mò dùm hộ tôi chiếc giầy.
(Phong hóa tuần báo, 25/11/1932)

Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết?
Cùng với “phong trào”, “bệnh dịch” phụ nữ tự sát là sự ra đời của một loạt tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch nói phản ánh, phân tích, phê phán hiện tượng này.  Năm 1928, nhà văn trẻ Nguyễn Lan Khai, khi ấy mới vừa 22 tuổi, ra mắt tập tiểu thuyết đầu tay Nước Hồ Gươm, một tập “Bi tình tiểu thuyết” kể “truyện người thiếu phụ trẫm mình.”[113] Đọc Nước Hồ Gươm,người đọc không khỏi liên tưởng đến cảnh bạo hành trong gia đình tường thuật ở truyện ngắn “Nước đời lắm nỗi” của Phạm Duy Tốn (1883-1927).[114] Tương tự như Lương Duy Đạo trong truyện của Phạm Duy Tốn, cô Bích Hà trong Nước Hồ Gươm cũng tình cờ phải chứng kiến cảnh bạo hành của cha đối với mẹ.  Bạo lực bất thường của người cha hàng ngày chuẩn mực theo khuôn phép đạo đức Nho giáo đã dẫn đến cái chết oan ức của mẹ cô.  Sau khi vợ chết, ông cũng hối hận rồi mất.  Cảnh bạo hành gia đình ấy cũng đã sớm giết chết những mộng tưởng đẹp về cuộc sống trong tâm hồn cô thiếu nữ.  Lại cũng giống như Tuệ Lan trong “Gương tự do” của Từ Chẩm Á, Bích Hà ngây thơ nhận lầm chân tướng của “thầy sinh viên cao đẳng” Trịnh Thường, “người trắng trẻo đẹp trai, mà tâm tính thì rất giảo quyệt” mà lấy Trịnh làm chồng.  Bích Hà đã trả giá đắt cho cuộc hôn nhân ngộ nhận này: cô phải gánh chịu một loại bạo hành khác – bạo hành ngôn từ của chồng và gia đình chồng xúc phạm nặng nề đến tình cảm và lòng tự trọng của cô.  Không tìm được sự thông cảm của bất kỳ một ai trong gia đình, từ chồng đến bố-mẹ chồng, Bích Hà tìm đến “giải thoát cuối cùng,” tự trẫm mình ở hồ Hoàn Kiếm trong một “đêm mùa thu sương móc đầy trời, bóng trăng nhạt nhẽo.”  Quyển “ai tình tiểu thuyết” Quanh hồ Hoàn Kiếm của Tâm Việt (1929), tập Giọt lệ sông Hương (hay Minh Châu lệ sử) của Tam Lang Vũ Đình Chí (1930) đều phảng phất phong vị tiểu thuyết Từ Chẩm Á, thuật chuyện thanh niên nam-nữ do trắc trở trong tình yêu mà tự sát, hay u sầu đến chết.[115] Một loạt truyện ngắn, truyện vui như “Giấc mộng hồ Gươm”, “Một buổi xem xử án tự vẫn tại cung vua Diêm”, “Lệ Hồng quyên sinh,” “Trên sông Thương”, “Chưa chết được”, “Cái chết hiếu danh”,[116] lần lượt ra đời hoặc đồng cảm, hoặc cười nhạo, phản ánh và tạo ra ấn tượng nạn tự sát đang tiếp tục lan rộng trong phụ nữ trong khoảng 3, 4 năm đầu thập niên 1930.

Bià sách Nước hồ Gươm của Nguyễn Lan Khai (1928)
và phiến đoạn truyện ngắn “Cái chết hiếu danh” của Lưu Trọng Lư (Phụ nữ thời đàm, 28/1/1934)

Hiện tượng phụ nữ tự sát càng trở nên phổ biến khi nó được đưa lên thành đề tài sân khấu.  Lấy cảm hứng từ câu hỏi “Ai chết trước nhất tại hồ Hoàn Gươm?” trên báo Thực nghiệp (25/9/1930), nhà hát Quảng Lạc (Hà Nội) dựng vở diễn cùng tên để bày ra “đoạn mật sử của một nhà nền nếp kia tại Hà thành, mà có thể làm gương phản chiếu được cái cuộc đời mới mẻ ở đất Hà thành ngày nay.”[117] Ít năm sau, hội Ái hữu hỏa xa Vân Nam lại công diễn vở “Vì đâu cô…tự sát” trên sân khấu nhà hát tây Hà Nội ngày 31/10/1933, “mô tả một cái gia đình bất hạnh có một cô con gái tự sát.  Cô ấy lại là một gái mới đời nay, thông minh nhan sắc, là một con cưng của một bậc thượng lưu trong xã hội.”[118] Rõ ràng mẫu số chung của hai vở kịch này là sự rạn nứt của hạt nhân gia đình nơi tầng lớp thượng lưu xã hội, trong đó xuất hiện cô gái mới tân thời vừa là tác nhân, vừa là nạn nhân của những xung đột tân cựu, hay tha hóa đạo đức giữa buổi giao thời.  Bài xã luận ” Các vở kịch và cái nạn phụ nữ quyên sinh” đăng trên Phong hóa có thể vận vào cho cả tiểu thuyết.  Tiểu thuyết, kịch trường phân tích, phản ánh việc phụ nữ tự sát, nhưng bản thân các tác phẩm này cũng có thể là nguyên nhân khiến “nạn dịch” này càng thêm trầm kha,
Các vở kịch hiện thời có liên lạc tới sự quyên sinh của phụ nữ chăng?  Cái nạn phụ nữ quyên sinh có làm ý tưởng chủ yếu cho các vở kịch hiện thời chăng?  Cái đó không rõ.  Chỉ biết trong vòng mươi năm nay, đàn bà Annam tự tử cũng nhiều, mà các vở kịch dùng tới sự tự tử của đàn bà Annam viết ra cũng lắm.[119]

Kịch “Vì đâu cô…tự sát”, Ban kịch hội Ái hữu hỏa xa Vân Nam (Rạng đông, 28/10/1933)

Tiểu thuyết quốc ngữ thường bị kết tội đã khiến người đọc chán đời, trốn sống, như trong trường hợp cô bé học sinh 13 tuổi Lưu Thị Đàm ở Hải Phòng chẳng hiểu vì lý do gì bỗng nhiên bỏ nhà xin vào chùa tu; tìm trong ngăn bàn cô, người ta thấy “còn quyển tiểu thuyết sầu với cảm.  Sách vở giết người.”[120] Truyện ngắn “Cô Sâm mê chuyện” kể việc một cô thiếu nữ mê “chuyện hoang đường, sầu thảm”  đến độ quên ăn, quên ngủ, quên cả thời gian, sống trong không gian huyễn hoặc cùng với những nhân vật tiểu thuyết Tây Du, Phong Thần, hay Song Phượng Kỳ Duyên.  Tiểu thuyết bòn rút sinh lực, trí tuệ của cô đến sinh bệnh: ” Ái tình, dục tình theo tuổi cô mà dậy cả lên một loạt…Da dẻ hồng hào, thủa nhỏ, cô xinh đáo để đến bây giờ thì như tầu lá uá.”  Ký bằng một bút danh nữ “Tuyết Mai,” tác giả đặt những bộ tiểu thuyết cô Sâm mê đắm đối lập với các sách luân lý đạo đức, và cảnh tỉnh: “Tôi cũng biết [sách luân lý đạo đức] khí khó xem, nhưng nó có ích cho cô đó! cô Sâm! …Ô hay! Tôi lạ cho cô Sâm ốm!  Nhà in, họ còn in tiểu thuyết nữa, mà cô ốm đến bao giờ?”[121]
Bắt đầu từ năm 1932, mỗi khi đả phá ảnh hưởng tiêu cực của tiểu thuyết, người ta thường liệt ra vài tựa sách để minh họa.  Tiểu thuyết của Từ Chẩm Á và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách thường được nhắc đến thành một đôi, bị phê phán như một loại bệnh chứng của chủ nghĩa vị kỷ, thoát ly thực tế,
Lối lãng mạn thần bí trong văn thơ bị cái thiệt tế khó khăn đánh đổ; hai kẻ yêu nhau cần phải phấn đấu để sanh tồn, thì còn làm sao than thỉ nỉ non như bao nhiêu vai chủ động trong truyện!  Ái tình như trong tiểu thuyết của Từ Trẩm Á, hay trong các chuyện như Tố Tâm vẫn có thật mà chỉ có trong vài cặp nam nữ trung lưu, mắc những bịnh thần kinh, mà không tự biết là mắc, hay là không có công việc làm mà thôi.  (…) [C]húng tôi khuyên chị em coi cái lối ái tình lăng nhăng trong tuồng chớp bóng và tiểu thuyết là một thứ thuộc về bịnh chứng.  Người ta có quyền mưu sinh tồn, nhưng mà không được hại đến sự sanh tồn của đại đa số loài người, nếu chỉ biết đắm đuối trong dục tình để thỏa thích riêng cho mình thì là ăn hại xã hội, mà tự mình nô lệ cái khoái lạc thô bỉ.  Té ra thoát khỏi ách [N]ho giáo mà lại sa vào vòng nô lệ của cái ích kỷ chủ nghĩa hay sao?[122]
Cũng trong khoảng thời gian hai năm đầu thập niên 1930, trên Phụ nữ thời đàm xuất hiện một loạt bài lên án ảnh hưởng xấu của tiểu thuyết, và kết tội việc đọc tiểu thuyết là nguyên nhân dẫn đến chuyện phụ nữ tự sát.  Trong bài “Một cách chữa bệnh tiểu-thuyết” tác giả Thường Nga nhắc lại luận điệu phổ biến cho rằng tiểu thuyết là độc hại, là nguyên nhân dẫn đến những vụ án xã hội thương tâm, đồng thời đề xuất liệu pháp cho căn bệnh trầm kha mê tiểu thuyết của phụ nữ,
Tiểu thuyết có hại!  Cái đó hiển nhiên. (…)  Các ngài buộc tội tiểu thuyết: nào những án hồ Gươm, hồ Trúc Bạch, thủ phạm là tiểu thuyết, nào những án thuốc phiện dấm thanh, thủ phạm cũng là tiểu thuyết…nào những câu chuyện thương luân bại lý ở những hang cùng ngõ hẻm, thủ phạm cũng là tiểu thuyết.  (…)  Nếu ta đọc tiểu thuyết mà biết đặt mình lên trên tiểu thuyết mà phê bình tiểu thuyết, tôi dám chắc sẽ tránh được cái dở của tiểu thuyết và thâu thái được cái hay của tiểu thuyết.[123]
Như đã thấy ở hai cách nhìn đối lập đối với tiểu thuyết của Từ Chẩm Á ở Trung Hoa, hay trong việc phê phán cái hại của phụ nữ Việt Nam đọc tiểu thuyết Pháp, “phương thuốc” trị liệu trên đây tiếp tục nhấn mạnh vai trò quan trọng của chủ thể đọc.  Xã hội đã phải công nhận quyền đọc sách, báo (bao gồm tiểu thuyết) của phụ nữ, nhưng yêu cầu họ cần tỉnh táo trong khi thưởng ngoạn, cần đọc một cách phê phán và có ý thức.  Những bộ tiểu thuyết như Ngọc lê hồn, Tuyết hồng lệ sử, hay Tố Tâm tựa như đồng tiền hai mặt, tùy theo tay người xoay lật mà mặt phải, mặt trái trình hiện ra ánh sáng.  Không phải ai đọc những tiểu thuyết ấy cũng đều chán đời, tự tử.  Nói cách khác, Lệ sử hay Tố Tâm không phải là nguyên nhân trực tiếp khiến phụ nữ tự sát.  Khi chủ thể đọc mê muội với ái tình trong truyện, mơ mòng nhập thân vào nhân vật tiểu thuyết để sống giữa đời thực, bi kịch là tất yếu, không tránh được.  Đã không đủ tỉnh táo để tách bạch xấu – tốt khi đọc truyện, một chủ thể đọc như thế lại càng dễ dàng lầm lạc giữa hiện thực phức tạp của cuộc sống:
Các tiểu thư nhàn rỗi (…) cũng mắc nghiện tiểu-thuyết (…).  Các tiểu-thư xem đến đó rồi cũng oán giời [trời], trách đất bầy chi những cuộc bể dâu, (…) cũng than than, khóc khóc mà chia buồn, sẻ sầu với vai trong truyện.  (…)  Các “tiểu-độc-giả” còn để trí suy nghĩ mà hi-vọng một ngày kia cùng ý-trung-nhân đóng vai tuồng mà phô-diễn trên sân khâu xã-hội, để cùng nhau say tỉnh tỉnh say như vai trong truyện.  Xem quyển Tố Tâm mà tránh đừng có đem thân vào cõi tình trường (…) thì còn gì bằng.  Nhưng không, các cô, các cậu lại muốn làm Đạm-Thủy, Tố-Tâm ‘tái-sinh’ (…) nhưng khốn nỗi có được cái chính đính quang minh như Đạm-Thủy, Tố-Tâm đâu, lại giở thói dâm bôn (…) đến khi con ong đã tỏ đường đi lối về rồi, thì anh chán chị, chị chán anh.  (…) [C]ó khi vì nhân-tình bạc bẽo mà cậu đem tấm thân bẩy thước liều với sợi giây oan nghiệt, mợ đem cái thân liễu bồ phó thác cho giòng nước biếc (…)  Ôi! cái bi-kịch ấy hàng ngày vẫn thường xẩy ra ở đất “nghìn năm văn vật” không phải là hiếm vậy.  Duyên cớ đó bởi đâu?  Chẳng qua bởi xem tiểu-thuyết mà có ảnh-hưởng một phần to dư.[124]

Lời kết
Từ Chẩm Á cùng hai bộ tiểu thuyết tiêu biểu của ông, Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử, là một bước chuyển đáng chú ý trong văn học Trung Quốc hiện đại.  Do ảnh hưởng của những hoàn cảnh chính trị, lịch sử nhất định, trong một thời gian dài các vấn đề xã hội và những đóng góp nghệ thuật trong tiểu thuyết của ông đã không được giới phê bình công tâm luận định.  Cũng do những khía cạnh “nhạy cảm” của câu chuyện tình trong tiểu thuyết của Từ, trí thức Nho học (và một phần tân học) ở Việt Nam đã dịch tác phẩm của ông với ít nhiều thận trọng trong buổi đầu.  Các dịch giả Việt Nam đã cố gắng làm nổi bật khía cạnh yêu nước trong tiểu thuyết của Từ, giới thiệu Từ như một nhà phê bình xã hội.  Tuy nhiên, sau khi đã nhận được sự chấp nhận của bạn đọc, tiểu thuyết Chẩm Á được dịch thêm khá nhiều, thậm chí nhiều tác phẩm của các tác giả khác trong văn phái uyên hồ được dịch sang tiếng Việt dưới tên của ông.  Tiểu thuyết Chẩm Á đã ghi ảnh hưởng trên văn học Việt Nam hiện đại: không ít nhà văn Việt Nam đã kể chuyện, gợi vấn đề, mô phỏng văn phong theo lối Chẩm Á.  Giữa lúc văn quốc ngữ còn non trẻ, những người dịch Chẩm Á đã đưa văn tiếng Việt lên một trình độ tinh luyện hơn.  Việc dịch tiểu thuyết của ông góp phần hình thành dòng văn học giải trí, tiêu khiển trong nước, theo xu thế phát triển chung của văn học hiện đại thế giới, với sự hình thành của đô thị và tầng lớp tiểu thị dân (bao gồm một bộ phận phụ nữ ít nhiều có học).  Một cộng đồng bạn đọc nữ đã hình thành trong khoảng 3 thập niên đầu của thế kỷ 20: họ đọc và viết cả quốc ngữ lẫn Pháp văn.  Cùng với sự phát triển của báo chí và công nghệ in, người đọc – người viết nữ đã tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, và có diễn đàn riêng, khởi sự chính thức với báo Nữ giới chung.  Vấn đề phụ nữ nên và không nên đọc gì đến khi ấy đã không còn là đặc quyền của nam giới: phụ nữ đã có tiếng nói riêng cho việc đọc của mình.   Cùng với sự phát triển của báo chí là sự ra đời của kịch nói, cấp thời phản ánh những vấn đề “nóng” của xã hội, ví như chuyện phụ nữ tự tử.  Việc phụ nữ tự sát ở Việt Nam xảy ra do nhiều nguyên nhân xã hội phức tạp.[125] Trong những năm 1929-1930, các báo Việt Nam không chỉ đưa tin phụ nữ tự sát ở trong nước, mà còn cả ở các nước Đông Á lân cận, như Trung Quốc và Nhật Bản.[126] Báo chí, tiểu thuyết, kịch nói đã liên tục phản ánh hiện tượng này, và tất yếu có phần trách nhiệm trước việc phụ nữ tự sát lan rộng thành “phong trào” hay “bệnh dịch”.  Việc quy lỗi “bệnh dịch” này cho tiểu thuyết (Tuyết hồng lệ sử hay Tố Tâm) là một cách nhìn phiến diện, tập trung phản ứng đối với những lệch lạc của một bộ phận chủ thể đọc nữ, mà không thấy hết những tác động xã hội lên chủ thể ấy.

Bài viết được hoàn thành nhờ sự giúp đỡ chân tình và quý báu về mặt tư liệu của các thân hữu: Chu Tuyết Lan, Trần Hải Yến, Nguyễn Thị Phương Châm, Trần Thị Phương Hoa.  Nhân đây, xin được chân thành cảm ơn.

[1] Từ Chẩm Á.  Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, Hà Nội: Nam Ký thư quán, 1932.
[2] Trịnh Dật Mai鄭逸梅, “Ngã sở tri đạo đích Từ Chẩm Á 我所知道的徐枕亞” (Từ Chẩm Á như tôi biết), Đại thành 大成, số 154 (1/9/1986); dẫn từ Phạm Bá Quần 范伯群 (Chủ biên), Trung quốc cận hiện đại thông tục văn học sử 中國近現代通俗文學史, Nam Kinh: Giang Tô giáo dục xuất bản xã, 1999, t. 270.
[3] Xem E. Perry Link, Jr.  Mandarin Ducks and Butterflies – Popular Fiction in Early Twentieth-Century Chinese Cities (Uyên ương hồ điệp – Tiểu thuyết bình dân trong những đô thị Trung Quốc đầu thế kỷ XX), Berkeley: University of California Press, 1981, trg. 53; Lưu Dương Thể 劉揚体 (tuyển bình).  Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình 鴛鴦蝴蝶派作品選評, Thành Đô: Tứ Xuyên văn nghệ xuất bản xã 四川文藝出版社, 1987, trg. 621.
[4] Từ Chẩm Á.  Ngọc lê hồn trong Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình, sđd., chương 12, trg. 507.
[5] Khởi nghĩa Vũ Xương: Do bất mãn nhà Thanh quốc hữu hóa đường sắt để gán nợ cho các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ, những nhà tư sản, tiểu tư sản, binh sĩ giác ngộ và đông đảo quần chúng từ các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Đông, Tứ Xuyên tập hợp lại dưới sự lãnh đạo của Trung Quốc Đồng minh hội nhằm lật đổ triều đình Mãn Thanh, thành lập Trung Hoa dân quốc. Rạng sáng ngày 11/10/1911, quân khởi nghĩa chiếm được Vũ Xương. Thắng lợi này đã cổ vũ các tỉnh khác tuyên bố li khai với nhà Thanh.  Chính phủ lâm thời Trung Hoa dân quốc được thành lập, và Tôn Trung Sơn được bầu làm tổng thống (1/1/1912).
[6] Thời Manh, “Ngọc lê hồn chân tướng đại bạch 玉梨魂真相大白” (Công bố chân tướng Ngọc lê hồn), Tô Châu tạp chí, số 1/1997; dẫn từ Phạm Bá Quần, sđd., t. 271.
[7] Trong bài “Cao Đường phú 高 唐赋” Tống Ngọc đời Chiến quốc nhắc chuyện Sở Hoài vương 楚怀王 hội ngộ thần nữ Vu sơn.  Về sau nhân đấy dùng “Vu Giáp” để chỉ chuyện nam nữ lén lút gặp nhau.
[8] Lý Thương Ẩn đời Đường 李商隱 viết trong bải thơ “Dạ vũ ký bắc 夜雨寄北”: “Hà đương cộng tiễn tây song chúc – Khước thoại Ba sơn dạ vũ thời何當共剪西窗燭,卻話巴山夜雨時” (Khi nao lại được cùng tiả bấc bên cửa tây – Nhắc chuyện đêm mưa ở núi Ba).  Người sau dùng thành ngữ “tiễn tây song chúc” để chỉ vợ chồng xa cách trông mong hội ngộ.
[9] Cũng như thiêu thân, con ngài thường lao mình vào lửa mà chết như trong thành ngữ “phi nga bộc hỏa tự thiêu thân 飞 蛾扑火自烧身” (Con ngài bay ném mình vào lửa tự thiêu).  Bài tựa “Cao Đường phú” kể việc vua nước Sở du ngoạn và nghỉ đêm tại Cao Đường, mộng thấy thần nữ Vu Sơn đến mời rượu tiệc, hầu chăn gối.  Trước khi đi, thần nữ bảo rằng: “Thiếp ngày đêm ở tại Dương đài.”  Nhân đó, “Dương đài” dùng để chỉ nơi hội hoan của nam nữ.
[10] Sách Nữ hồng dư chí 女紅 餘志 chép truyện Tuân Phụng Thiến 荀奉倩 từ biệt vợ.  Do khi chia tay, người vợ cắt một cành sen trao tặng, “liên chi” (cành sen) trở thành một hình tượng của ly biệt.
[11] Theo như tên gọi, uyên ương hồ điệp nguyên thủy để mệnh danh cho các bộ tiểu thuyết ái tình nam-nữ.  Về sau, văn phái uyên hồ là tên gọi chung cho tiểu thuyết giải trí, tiêu khiển, bao nhiều loại tiểu thuyết khác nhau, như truyện võ hiệp, trinh thám, hoạt kê, lịch sử vv.  Được xếp vào lưu phái này có đến hơn 200 tác gia từ nhiều địa phương khác nhau (như Giang Tô, Chiết Giang, An Huy, Giang Tây) nhưng tập trung ở một số thành thị lớn (như Thượng Hải, Thiên Tân, và Bắc Kinh), ví như Từ Chẩm Á, Bao Thiên Tiếu 包天笑 (1876-1973), Hướng Khải Nhiên 向愷然 (1890-1957), Chu Sấu Quyên 周瘦 鵑 (1895-1968), Phạm Yên Kiều 范煙橋 (1894-1967), Trương Hận Thủy 張恨水 (1897-1967), Ngô Song Nhiệt 吳雙熱 (1884-1934), Ngô Nhược Mai 吳若梅, Trình Tiểu Thanh 程小青 (1893-1976), Tôn Ngọc Thanh 孫 玉聲 (1864-1940), Lý Hàm Thu李涵秋 (1873-1923), Hứa Khiếu Thiên 許嘯天 (1886-1946), Tần Sấu Âu秦瘦歐 (1908-1993).
[12] Xem Bình Khâm Á 平襟亞.  “Uyên ương hồ điệp phái mệnh danh đích cố sự 鴛鴦蝴蝶派命名的故事,” trong Ngụy Thiệu Xương 魏紹昌.  Uyên ương hồ điệp phái nghiên cứu tư liệu 鴛鴦蝴蝶派研究資料, Hương Cảng: Tam liên thư điếm, 1980, trg. 127-129.
[13] Chu Tác Nhân.  “Trung Quốc tiểu thuyết lý đích nam nữ vấn đề 中國小説裏的男女問題,” Mỗi châu bình luận 每周評論, 2/2/1919, dẫn theo Phạm Bá Quần.  Trung Quốc cận hiện đại thông tục văn học sử, sđd., tập 1, trg. 273-274.
[14] Tham khảo Trần Diễm Mai 陳 艷梅, Dương Phi Dược 楊飛躍.  “Ngọc lê hồn trung quả phụ Bạch Lê Ảnh đích luân lý quan 《玉梨魂》中寡婦白梨影的倫理觀,” An Huy văn học 安徽文學, 11/2007, trg. 4-5; Lý Hàng 李航.  “Thị giác cục hạn dữ tưởng tượng hoàn nguyên – Ngọc lê hồn trung Bạch Lê Ảnh hình tượng phân tích 視角局限與想象還原—《玉梨魂》中白梨影的形象分析,” Giai Mộc Tư đại học xã hội khoa học học báo 佳木斯大學社會科學學報, số 26:3 (6/2008), trg. 62-63.
[15] Xem Tống Thanh Tuyền 宋聲泉.  “Trùng cổ Tân thanh niên đồng nhân đối ‘uyên ương hồ điệp phái’ đích phê phán 重估《新青年》同人對‘鴛鴦蝴蝶派’的批判,” Trung Quốc hiện đại văn học nghiên cứu tùng san 中國現代文學研就究叢刊, 4/2009, trg. 33-43; Vương Cát Bằng 王吉鵬 và Vương Mẫn 王敏, “Lỗ Tấn dữ uyên ương hồ điệp phái văn học 魯迅與鴛鴦蝴蝶派文 學,” Tô Châu giáo dục học viện học báo 蘇州教育學院學報, số 25:2 (6/2008),  trg. 24-28; Trương Nghệ Phân 張藝芬.  “Thí luận văn học nghiên cứu hội đối ‘uyên ương hồ điệp phái ‘ đích công kích 試論文學研究會對‘鴛鴦蝴蝶派’的攻擊,” Tề Tề Cáp Nhĩ sư phạm cao đẳng chuyên khoa học hiệu học báo 齊齊哈爾師範高等專 科學校學報, số 98 (4/2007), trg. 44-46; Vương Mộc Thanh 王木青.  “Luận Mao Thuẫn đối uyên ương hồ điệp phái đích phê bình cập kỳ sách lược 論茅盾對鴛鴦蝴蝶派的批評及其 策略,” Văn nghệ lý luận dữ phê bình 文 藝理論與批評, 3/2007, trg. 100-102; Chu Nghiên朱妍.  “Cận thập niên uyên ương hồ điệp phái nghiên cứu thuật bình 近十年鴛鴦蝴蝶派研究述評,” Khâm Châu sư phạm cao đẳng chuyên khoa học hiệu học báo 欽州師範高等專科學校學報,” số 21:4 (8/2006), trg. 28-31, 42; Liêu Siêu Tuệ 廖超慧, “Đối uyên ương hồ điệp phái phê bình đích tư khảo 對 鴛鴦蝴蝶派批評的思考,” Giang Hán đại học học báo 江 漢大學學報, số 16:2 (4/1999), trg. 51-56.
[16] Phạm Bá Quần范伯群.  Dân quốc thông tục tiểu thuyết uyên ương hồ điệp phái 民囯通俗小説鴛鴦蝴蝶派, Bắc Kinh: Quốc văn thiên địa tạp chí xã 國文天地雜誌社, 1989, trg. 3-4.
[17] Xem Nhuế Hòa Sư 芮和師 và Phạm Bá Quần 范伯群.  Uyên ương hồ điệp phái văn học tư liệu鴛鴦蝴蝶派文學資料, Phúc Châu: Phúc Kiến nhân dân xuất bản xã 福建人民出版社, 1984; Ngụy Thiệu Xương魏紹昌.  Ngã khán uyên ương hồ điệp phái 我看鴛鴦蝴蝶派, Trung Hoa thư cục Hương Cảng hữu hạn công ty 中华书局香港有限公司, 1990.
[18] Một điều tra sơ bộ qua mạng CNKI Tri thức võng lạc phục vụ bình đài 知識網絡服務平 臺 cho thấy trong khoảng từ 1994 đến 2009 chỉ riêng ở Trung Quốc đại lục có hơn 700 tiểu luận tập trung khảo sát uyên ương hồ điệp phái công bố trên tạp chí của các trường đại học và cao đẳng.
[19] Lý Khâm Đồng 李欽彤.  “Bị di vong đích tiên phong – Trùng cổ uyên ương hồ điệp phái 被遺忘的先鋒——重估鴛鴦蝴蝶派,” Tây An điện tử khoa kỹ đại học học báo 西安電子科技大學學報 (bản khoa học xã hội), số 17:5 (9/2007), trg. 111-115.
[20] Triệu Hiếu Tuyên 趙孝萱.  Uyên ương hồ điệp phái tân luận 鴛鴦蝴蝶派新論, Phật Quang nhân văn xã hội học viện 佛光人文社會學院 (Đài Loan), 2002.
[21] Hai bộ trường thiên tiểu thuyết biền văn trước đó là Du tiên quật 游仙窟 của Trương Vụ 張鶩 đời Đường và Yên sơn ngoại sử của Trần Cầu 陳球 đời Thanh.  Xem Vương Quốc Vĩ 王國偉, “Đối biền văn tiểu thuyết kỳ tác Ngọc lê hồn đích văn hóa giải độc 對駢文小説奇作《玉 梨魂》的文化解讀,” Bồ Tùng Linh nghiên cứu 蒲松 龄研究, 1/2004, trg. 142-148.
[22] Xem Lý Thanh Quả 李青果.  “Tình cảm, cách mạng, quốc gia – Từ Chẩm Á Ngọc lê hồn, Tuyết hồng lệ sử cập kỳ chu biên 情感,革命,國家——徐枕亞《玉梨 魂》,《雪鴻淚史》及其周邊,” Thanh Hoa đại học học báo 清 華大學學報, số 23:6 (6/2008), trg. 79-87; Mã Kha 馬 珂.  “Ngọc lê hồn chủ nhân công nhân vật hình tượng phân tích 《玉梨魂》主人公人物形象分析,” Cung canh 躬耕, 3/2009, trg. 61-62.
[23] La Kim 羅金.  “Uyên ương hồ điệp phái: Lánh nhất chủng hiện đại tính 鴛鴦蝴蝶派:另一種現代性,” Việt hải phong 粵海風, 5/2002, trg. 28-31.
[24] Tham khảo Vi Khánh Lệ 韋慶 麗 và Trịnh Kiến Quân 鄭建軍.  “Tùng Ngọc lê hồn quản khuy 20 thế kỷ sơ tiểu thuyết đích sáng tác thực tiễn 從《玉梨魂》管窺20世紀初小説的創作 實踐,” Thương tang 滄桑, 5/2005, trg. 111-112; Trình Trí Trung 程致中.  “Lạc phách danh sĩ đích ai tình chi ca 落魄名士的哀情之歌,” Giang hải học khan 江海學刊, 1/1994, trg. 186-189; Trần Thế Cường 陳世強.  “Uyên hồ phái thủy cơ Từ Chẩm Á đích suyễn thác hôn luyến dữ ai tình văn học sinh nhai 鴛蝴派始基徐枕亞的舛錯婚戀與哀情文學生涯,” Nam kinh lý công đại học học báo 南京理工大學學報, số 18:1 (2/2005), trg.87-96; Cát Tuyết Mai 葛雪梅.  “Tùng huy hoàng đáo một lạc – Ngọc lê hồn tự sự mô thức biện tích 從輝煌到沒落—《玉梨魂》敍事模式辨析,” Diêm Thành công học viện học báo 鹽城工學院學報 (bản khoa học xã hội), 3/2007, trg. 43-46; Lưu Nạp 劉 納.  “Dân sơ văn học đích nhất cá kỳ ảnh: Biền văn đích hưng thịnh 民初文學的一個奇影:駢文的興盛,” Trịnh Châu đại học học báo 鄭州大學學報 (bản triết học – khoa học xã hội), 5/1996, trg. 18-25; Lưu Thiện Tiệp 劉善婕.  “Sạ noãn hoàn hàn: Tùng Ngọc lê hồn tích Dân sơ đại chúng văn hóa tâm lý 乍暖還寒:從《玉梨魂》析民初大衆文化心理,” Ngữ văn học san 語文學刊, 1/2007, trg. 95-97; Chu Giang Dũng 朱江勇, Bùi Thị Thúy Minh 裴氏翠明, “Đàm Ngọc lê hồn đích bi kịch ý thức 談《玉梨魂》的悲劇意識,” Tuy hóa sư chuyên học báo 綏化師專學報, số 24:1 (3/2004), trg. 78-79.
[25] Xem Thạch Thu Tiên 石秋仙.  “Thụ hiện đại ngôn tình tiểu thuyết ảnh hưởng đích tảo kỳ ái tình phiến 受現代言情小説影響的早期愛情片,” Sơn Đông thương nghiệp chức nghiệp kỹ thuật học viện học báo 山東商業職業技術學院學報, số 6:2 (4/2006), trg. 75-78; Lý Trung Hoa 李中華.  ”Luận uyên ương hồ điệp phái đối Trung Quốc điện ảnh sự nghiệp đích cống hiến 論鴛鴦蝴蝶派對中國電影事業的貢獻,” Điện ảnh bình giới 電影評介, số 18 (2006), trg. 54; Vương Hoành Xương 王宏昌.  “Truyền bá thị dã hạ đích uyên ương hồ điệp phái điện ảnh sáng tác 传播视野下的鸳鸯蝴蝶派电影创作, Điện ảnh bình giới, số 14 (2006), trg. 65-66.
[26] E. Perry Link, Jr.  Mandarin Ducks and Butterflies – Popular Fiction in Early Twentieth-Century Chinese Cities (Uyên ương hồ điệp – Tiểu thuyết bình dân trong những đô thị Trung Quốc đầu thế kỷ XX), Berkeley: University of California Press, 1981, trg. 8-10.
[27] Về Nghiên hữu xã, xem Joshua Mostow (biên tập).  The Columbia Companion to Modern East Asian Literature (Sách tham khảo của Đại học Columbia về văn học Đông Á hiện đại), New York: Columbia University Press, 2003, trg. 66-68; Donald Keene.  Dawn to the West: Japanese Literature of the Modern Area (Hé rạng phương tây: Văn học Nhật Bản thời hiện đại), New York: Columbia University Press, 1998, trg. 119-149.
[28] Vương Hướng Viễn.  “Trung Quốc đích uyên ương hồ điệp phái dữ Nhật Bản Nghiên hữu xã 中國的鴛鴦蝴蝶派與日本的硯友社,” Bắc kinh sư phạm đại học học báo (bản khoa học xã hội), số 131 (5/1995), trg. 74-80.
[29] Phan Mạnh Danh (1866-1942) vốn tên chữ là Trung, sau đổi thành Mạnh Danh, hiệu Thế Vọng, quê làng Phù Ủng, phủ Ân Thi, huyện Hưng Yên.  Ông là con trưởng của Thị độc Phan Trác Hoạt, cháu Hoàng giáp Phan Trứ (từng là tuần phủ Khánh Hòa).  Nổi tiếng thông minh từ thuở nhỏ, ông thi hương và được vào ngay kỳ đệ tam năm 17 tuổi.  Năm 1908, ông được cử làm giáo học trường đệ nhất cấp tỉnh Hưng Yên.  Ông là người tài hoa, xuất chúng trong lĩnh vực thi-họa.  Tác phẩm tiêu biểu: Phù giang thi tập, Phù giang văn tập, Bút hoa thi thảo, Cổ thi trích dịch, Tuồng Hoa tiên, Việt Nam danh nhân diễn ca, Điển cố.  Ông cũng là dịch giả tiểu thuyết Đa tình hận và Tình sử.  Theo Đào Sỹ Nhã, “Phan Mạnh Danh tiểu sử” trong Phan Mạnh Danh.  Bút hoa – Thơ tập cổ, Saigon: Phạm Văn Sơn, 1962, trg. 7-18.
[30] Phan Mạnh Danh.  Thi văn tập trích lục, Nam Định: Nguyễn Trung Khác, 1942, trg. 110.  Trong phần quảng cáo Đa tình hận ở bìa sau của sách có nhấn mạnh “Mới dịch lại khác hẳn bản dịch cũ và sắp tái bản.”  Mặt trong bìa sau sách Tình sử của Long-Tử-Do (Phan Mạnh Danh phiên dịch, Saigon: Phạm Văn Sơn, 1961) có in danh sách “Tác phẩm của Phan Mạnh Danh, 1866-1942,” trong đó Đa tình hận được giới thiệu là “Dịch nguyên tác của Từ Trẩm Á (1919).”  Hiện chưa tìm được bản dịch này; sách Thi văn tập trích lục có in lại một trang dịch tiếng Việt của Đa tình hận (trg. 149).
[31] Thi văn tập trích lục, sđd., trg. 113.
[32] Tiền Nhất Yên 錢一燕 có soạn bộ Đa tình hận – Trường thiên xã hội tả thực tiểu thuyết 多情恨: 長篇社會寫實小說 (Thượng Hải Đại minh thư cục上海大明書局 tái bản năm 1947).  Tuy nhiên, đây là một tác phẩm hậu kỳ, và những nhân vật trong truyện không giống như tả thuật của Phan Mạnh Danh.
[33] Từ Chẩm Á.  Ngọc lê hồn, Nhượng Tống dịch và phê bình, Hà Nội: Vạn quyển thư lâu, 1928, chú thích (1), trg. 42.
[34] Từ Chẩm Á.  Ngọc lê hồn, Nhượng Tống dịch và phê bình, sđd.
[35] Như trên, chú thích (5), trg. 8-9.
[36] Như trên, chú thích (3), trg. 22.
[37] Như trên, chú thích (2), trg. 22.
[38] Như trên, chú thích (1), trg. 36.
[39] Như trên, chú thích (2), trg. 41.
[40] Đó là Lương Phượng Lâu梁 鳳樓 (Thượng Hải: Hải tả thư cục 海左書局, 1925), Dụ Huyết Luân喻血輪 (Thượng Hải: Văn minh thư cục 文明書局, 1924), và Hồ Sấu Trúc胡瘦竹 (Thượng Hải: Tiểu thuyết ảnh hí xã 小說影戲社, 1925).
[41] Xem Ngô Khởi Duyên.  Phù dung nương, Từ Chẩm Á bình hiệu, Thanh Hoa thư cục 淸華書局, 1919.
[42] Năm 1918, Dụ Huyết Luân đồng thời xuất bản 3 bộ tiểu thuyết: Vân Lan lệ sử, Huệ Phương bí mật nhật ký 蕙芳秘密日記, và Lâm Đại Ngọc nhật ký 林黛玉日記.  Tiếp nối theo Vân Lan lệ sử, vợ ông là Dụ Ngọc Đạc 喻玉鐸 viết Vân Lan nhật ký 芸蘭日記 có phụ thêm những lời bình “mi phê 眉批” của ông trên đầu các trang sách (xem Dụ Ngọc Đạc喻玉鐸.  Vân Lan nhật ký 芸蘭日記 in trong Trung Quốc cận đại tiểu thuyết sử liệu vựng biên 中國近代小説史料 彙編, tập 10, Đài Bắc: Quảng văn thư cục 廣文書局, 1980).  Theo chân Từ Chẩm Á, Dụ Huyết Luân phát triển thể văn tiểu thuyết nhật ký, và hai tập Vân Lan lệ sử, Vân Lan nhật ký của vợ chồng ông không khỏi khiến người đọc liên tưởng đến Ngọc lê hồn và Tuyết hồng lệ sử.  Về Dụ Huyết Luân và văn nghiệp của ông, tham khảo Mi Tiệp眉 睫.  “Dụ Huyết Luân hòa tha đích Lâm Đại Ngọc nhật ký 喻血輪和他的林黛玉日記” trong Lãng sơn bút ký – Hiện đương đại văn đàn lược ảnh 朗山筆記 – 現當代文壇掠影, Tú uy tư tấn 秀威資訊, 2009, t. 21-28 (có thể tham khảo trực tuyến tại http://www.housebook.com.cn/200612/17.htm).
[43] Hà thành ngọ báo, 6/7/1927.
[44] Từ Chẩm Á.  Ngọc lê hồn, Nhượng Tống dịch và phê bình, sđd., chú thích (1), trg. 34.
[45] Nguyễn Đỗ Mục: tự là Trọng Hữu, người làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây).  Ông là con Hoàng giáp Nguyễn Đình Dương (từng nhậm chức Án sát Hưng Yên, Bố chánh Quảng Bình, Biện lí bộ Lại).  Sau năm 1908, ông cộng tác biên tập và trợ bút cho các báo Đông Dương tp chí, Trung Bc tân văn về các vấn đề giáo dục, dịch một số tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc trong thời kỳ xây dựng nền móng của văn học quốc ngữ.  Ông là thân phụ họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, một trong những danh họa hàng đầu của hội họa Việt Nam hiện đại.  Xem http://www.vietgle.vn/trithucviet/detail.aspx?key=Nguy%E1%BB%85n+%C4%90%E1%BB%97+M%E1%BB%A5c&type=A0
[46] Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục.  “Lời cảm-cựu về mấy ngày chơi Bắc-Ninh,” Nam phong, số 100 (10-11/1925), trg. 354.
[47] Nguyễn Đôn Phục: người làng Uy-Nô-Thượng, tổng Cầu.  Do thân phụ làm tri phủ Điện Bàn (Quảng Nam), nên ông được mẹ trông nom và dạy chữ Nôm từ bé.  Ông là một trong những cây bút chủ chốt của Nam Phong. Xem Phạm Thị Ngoạn.  Tìm hiểu Tạp-chí Nam-phong 1917-1934, nguyên tác Pháp văn, Phạm Trọng Nhân dịch, Yerres: Ý Việt, 1993, trg. 78; Vũ Ngọc Phan.  Nhà văn hiện đại (4 tập), Saigon: Thăng Long, 1959-1960, tập 1, trg. 79-89.
[48] Đoàn Tư Thuật: hiệu Mai Nhạc, người làng Tả Thanh-Oai (Hà Đông).  Theo Trúc Khê và Tiên Đàm, ông là người “tính tình phóng dật, tài tử phong lưu, hay rượu hay thơ, đã từ có hồi kết bạn thi tửu với nhà thơ Nguyễn Khắc Hiếu.”  Ngoài bản dịch Tuyết hồng lệ sử, ông còn lược dịch Tỳ bà ký 琵琶記 của Cao Minh 高明.  Xem Trúc Khê và Tiên Đàm.  Chu Mạnh Trinh, Hà Nội: Cộng Lực, 1942, trg. 53-56.
[49] Nguyễn Tử Siêu: Bút danh Nguyễn An Nhân, Liên Tâm lão nhân, Hoa Cương; nguyên quán xã Hương Ngải, huyện Thạch Thất, ngoại thành Hà Nội.  Thân sinh ông đỗ cử nhân, và anh ông trúng tú tài Hán học.  Ngoài những tác phẩm lịch sử – tiểu thuyết của ông như Tiếng sấm đêm đông, Hai bà đánh giặc, Vua bà Triệu, Vua Bố Cái, Đinh Tiên Hoàng, Việt Thanh chiến sử, Trần Nguyên chiến kỷ, ông còn soạn và dịch sách Đông y dưới bút danh Nguyễn An Nhân.  Xem Nguyễn Tử Siêu.  Tử Siêu y thoại, Hà Nội: Hội Y học dân tộc Hà Nội, 1990. 
[50] Ngô Văn Triện: bút danh Trúc Khê, Cẩm Khê, Kim Thượng, Đỗ Giang, Khâm Trai, Ngô Sơn, Hạo Nhiên Đình; người thôn Thị Cấm, tổng Phương Canh, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay là xã Xuân Phương, quận Từ Liêm, Hà Nội).  Ông học chữ Hán với một ông đồ trong thôn từ năm lên 6.  Năm 11 tuổi, ông chuyển sang học chữ quốc ngữ ở trường Pháp – Việt, và tự học tiếng Pháp. Ông viết báo, tham gia “Nam Đồng thư xã”, và bị bắt sau khi khởi nghĩa Yên Bái thất bại.  Sau khi ra tù, ông mở Trúc Khê thư cục, cộng tác với các nhà xuất bản, viết bài cho các báo Khuyến học, Văn học tạp chí, Phổ thông bán nguyệt san, Thực nghiệp dân báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Nước Nam, Ích Hữu, Tao Đàn, Tri Tân, Đông Tây… Ông là tác gia tiểu thuyết, biên khảo, và dịch giả của nhiều công trình đặc sắc.
[51] Nhượng Tống: tên thật là Hoàng Phạm Trân, còn gọi là Hoàng Nhượng Tống; nhà văn, nhà báo, và dịch giả.  Ông người làng Đô Hoàng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Thân sinh là ông Hoàng Hồ, đỗ Tú tài dưới triều Nguyễn, nặng tinh thần chống Pháp và có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động chính trị của Nhượng Tống sau này. Sinh trưởng trong một gia đình Nho học, Nhượng Tống được học chữ Hán ngay từ nhỏ, sau tự học thêm quốc ngữ và tiếng Pháp. Dù học lực uyên bác, ông không đỗ đạt một văn bằng nào cả.  Ông cộng tác với các báo Khai hóa, Thực nghiệp dân báo, Hồn cách mạng, Hà Nội tân văn.  Cuối năm 1925, ông tham gia thành lập ra Nam Đồng thư xã chuyên xuất bản “tân thư” cổ vũ tinh thần yêu nước, cách mạng.  Năm 1929, ông bị bắt và bị đày ra Côn Đảo, đến năm 1936 mới được thả.  Tham khảo: http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C6%B0%E1%BB%A3ng_T%E1%BB%91ng
[52] Nguyễn Khắc Hanh: Ông cộng tác với nhiều báo thời bấy giờ, như Nông công thương, Đông tây, Hà thành ngọ báo và là dịch giả Hán văn (thơ chữ Hán Nguyễn Du, Kim Vân Kiều truyện) và Pháp văn.  Tham khảo:
http://tintuc.xalo.vn/00-1077099345/ngon_but_trong_suong.html
http://www.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoi/tintucsukien/2006/10/89424.cand
http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=49341
[53] Trần Văn Giáp.  “Lược khảo tiểu thuyết Tàu,” Thanh nghị, số 11 (4/1942), trg. 14.
[54] Đào Sỹ Nhã, “Phan Mạnh Danh tiểu sử,” sđd., trg. 13.
[55] Từ Chẩm Á. “Tự do giám” trong Chẩm Á lãng mặc 枕亞浪墨, Thượng Hải: Tiểu thuyết tùng báo xã 小説叢報社, 1915, trg. 5-12.
[56] Từ Chẩm Á.  “Gương tự do”, Đông Châu dịch, Nam phong, số 87 (9/1924), trg. 255.
[57] Như trên, trg. 256.
[58] Như trên, trg. 260.
[59] Trúc Hà.  ” Lược-khảo về sự tiến-hóa cuả quốc-văn trong lối viết tiểu-thuyết,” Nam phong, số 175 (8/1932), trg. 122.
[60] Bản danh sách này thiết lập qua tham khảo Biliothèque Nationale – Département des Entrées, Département des Imprimés. Catalogue du Fonds Indochinois de la Bibiothèque Nationale, Vol. 1: Livres Vietnamiens imprimés en quốc ngữ, 1922-1954, do Christianne Rageau biên soạn, Paris: Bibliothèque Nationale, 1979; Yan Bao.  “The Influence of Chinese Fiction on Vietnamese Literature,” trong Claudine Salmon (chủ biên).  Literary Migrations: Traditional Chinese Fiction in Asia (17th-20th Centuries), Beijing: International Culture Publishing Corporation, 1987, trg. 286-316 (có thể tham khảo thêm bản Trung văn của sách, Trung Quốc truyền thống tiểu thuyết tại Á Châu 中國傳統小説在亞洲, nhóm Nhan Bảo 顏保 dịch, Bắc Kinh: Quốc tế văn hóa xuất bản công ty, 1989, trg. 208-236; và bản dịch Việt ngữ của Trần Hải Yến, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở châu Á (từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX), Hà Nội: Khoa học xã hội, 2004, trg. 221-268); và thư mục trực tuyến của Thư viện quốc gia Hà Nội, http://118.70.243.232/opac/.
[61] Hai bộ Nhân duyên mộng Người trong gương được giới thiệu trong phần quảng cáo của Nhật Nam thư quán, in ở trang trong tập Dưới hoa (cuốn V, 1929).
[62] Báo Trung Bắc tân văn bình luận: “Chuyện cũng khá hay.” (14-15/10/1929)
[63] Nam phong, số 77 (11/1923), trg. 421.
[64] Tín Lăng quân 信陵君 tức Ngụy Vô Kỵ 魏无忌 (?-243 TCN), công tử nước Ngụy thời Chiến Quốc.  Ông là một nhà chính trị và quân sự lỗi lạc, nhưng cuối đời do bị gièm pha mà bị phế truất, sa vào tửu sắc mà chết.
[65] Đỗ Mục 杜牧 (803-853): thi nhân đời Đường, tự Mục Chi 牧之, hiệu Phàn Xuyên cư sĩ 樊川居士.  Ông được gọi là Tiểu Đỗ để phân biệt với Đỗ Phủ.  Trong bài “Kim cốc viên 金谷園” (Vườn Kim cốc), ông viết:

Nguyên vănPhiên âmBản dịch thơ của Trần Trọng San
繁華事散逐香塵Phồn hoa sự tán trục hương trầnPhồn hoa tan tác bụi trần
流水無情草自春Lưu thủy vô tình thảo tự xuânVô tình nước chảy cỏ xuân tươi màu
日暮東風怨啼鳥Nhật mộ đông phong oán đề điểuGió đông ai oán chim sầu
落花猶似墮樓人Lạc hoa do tự trụy lâu nhânHoa rơi giống kẻ rơi lầu ngày xưa

“Kẻ rơi lầu” ở đây chỉ người thiếp Lục Châu绿珠của Thạch Sùng石 崇 đời Tấn.  Nàng nhảy lầu tự sát để tỏ lòng trung ái với họ Thạch.  Tương tự, ông tỏ lòng sầu trong bài “Thán hoa 嘆花” (Than tiếc hoa):

Nguyên vănPhiên âmBản dịch thơ của Trúc Khê
自是尋春去較遲Tự thị tầm xuân khứ hiệu trìLỡ bước tìm xuân ngán nỗi mình
不須惆悵怨芳時Bất tu trù trướng oán phương thìDễ mà chuộc lại những ngày xanh
狂風落盡深紅色Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắcCuồng phong bứt hết hồng tươi thắm
綠葉成蔭子滿枝Lục diệp thành âm tử mãn chi.Lá đã um cây, quả trĩu cành.

[66] Đoàn Mai Nhạc. “Bài tựa truyện Tuyết-hồng lệ-sử,” Nam phong, số 88, trg. 356-357.
[67] Minh-phượng Nguyễn Như-Cương. “Bàn về truyện Tuyết-Hồng lệ sử,” Nam phong, số 99 (9/1925), trg. 283.
[68] Nam phong, số 86 (8/1924), trg. 170.
[69] Nam phong số 84 (6/1924), trg. 526.
[70] Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình, sđd., trg. 608.  Trúc Khê lược dịch câu chuyện ấy như sau: “Có người bạn tôi là Hoàng Mỗ kể chuyện với tôi rằng: Khi giặc đã lui rồi, anh ấy đi qua chỗ chiến trường thấy một người [r]a dáng học trò bị tên bắn nằm lăn ra đấy, trông thấy anh ta nhận biết là người đồng hạt, bèn đưa gửi anh ta một gói gì không biết để đem về đưa cho nhà, rồi nằm trơ mà chết. Rồi sau có người khiêm liệm mai táng ở đấy.  Anh ta lại lấy được một quyển sách ở túi áo chàng đem về.” (Từ Trẩm Á.  Ngọc lê hồn, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, Hà Nội: Tân Dân thư quán, 1930, trg. 205).
[71] Mai Khê. “Bổ truyện Tuyết hồng lệ sử,” Nam phong, số 86 (8/1924), trg. 170.
[72] Như trên, trg. 171.
[73] Từ Chẩm Á.  Tuyết hồng lệ sử, Hô Hòa Hạo Đặc thị 呼和浩特市: Nội Mông Cổ Nhân dân xuất bản xã 内蒙古人民出版社, 2000.
[74] Như trên, trg. 1.
[75] Từ Trẩm Á.  Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, Hà Nội: Nam Ký thư quán, 1932.
[76] Uyên ương hồ điệp phái tác phẩm tuyển bình, sđd., trg. 606.
[77] Từ Trẩm Á.  Tuyết hồng lệ sử, M. N. Đoàn Tư Thuật dịch, sđd.
[78] Từ Trẩm Á.  Ngọc lê hồn, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, sđd., trg. 205.
[79] Trọng Khiêm.  Kim Anh lệ sử, Hanoi: Đông-kinh ấn-quán, 1924; Tam Lang.  Giọt lệ sông Hương – Minh Châu lệ sử, Hanoi: Tân-dân thư-quán, 1930.
[80] John C. Schafer và Thế Uyên.  “The Novel Emerges in Cochinchina,” Journal of Asian Studies, số 52:4 (11/1993), trg. 869.
[81] Theo Annuaire statistique de L’Indochine (Niên giám thống kê Đông Dương), tập 1, 1913-1922, Hanoi: Imprimerie d’Extreme-Orient, 1927, trg. 52; và Annuaire statistique de L’Indochine (Niên giám thống kê Đông Dương), tập 3, 1930-1931, Hanoi: Imprimerie d’Extreme-Orient, 1932, trg. 63.
[82] Tựa báo có thể đã dựa theo tên tác phẩm Nữ giới chung 女界鍾 (1903) của Kim Thiên Cách 金天翮 (1873-1947).
[83] Tham khảo Huỳnh Văn Tòng.  Lịch sử báo chí Việt-Nam - Từ khởi thủy đến 1930, Saigon: Trí Đăng, 1973, “Chính sách của Albert Sarraut và báo chí theo chủ thuyết của A. Sarraut,” tr. 82-88.
[84] Không chỉ là nhà quân sự và chính trị trứ danh, Tào Tháo 曹操 (155-220) còn là thi nhân nổi tiếng.  Tào Phi 曹丕 (187-226), con trai trưởng của Tào Tháo và cũng là hoàng đế nước Ngụy thời Tam Quốc, có nhiều thành tựu văn học trong lĩnh vực thi, phú và phê bình.  Em ông, Tào Thực 曹植 (192-232), từng được xưng tụng là “thi thánh 詩聖” trước Đỗ Phủ.
[85] Giang Yêm 江淹 (444-505) nổi danh về phương diện từ phú thời Nam triều.
[86] Ban Chiêu班昭 (45-116) và Tạ Đạo Uẩn 謝道韞 (khoảng 376) là hai nữ tác gia nổi tiếng Trung Quốc cổ đại.
[87] S.N.A. “Đờn bà không nên chuyên về văn thơ”, Nữ giới chung, số 8 (29/3/1918).
[88] S. Nguyệt-Anh, “Bàn về sách dạy đờn-bà con gái”, Nữ giới chung, số 9 (5/4/1918).
[89] Nguyễn Thị Hồng, “Phải cần gì bây giờ?”, Nữ giới chung, số 20 (28/6/1918).
[90] “Cũng bàn về quốc văn”, Phong hóa tuần báo, 4/11/1932.
[91] T.A. “Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm”, Phụ nữ thời đàm, 22/4/1932.
[92] Vân Đình Tứ.  “Tin bợm mất bò – Một ông giáo sư dỗ vợ một người bạn rồi kéo nhau đi,” Phụ nữ thời đàm, 2/3/1932.
[93] T.A. “Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm”, Phụ nữ thời đàm, 20/4/1932.
[94] “Quanh cái án bạn và vợ: Mấy trang nhật ký của nữ sĩ Mỹ-Khuê Hoàng-Thị-Khiêm”, Phụ nữ thời đàm, 23/4/1932.
[95] T.A. “Cái án bạn và vợ hay là chương trình năm năm của nữ sĩ Hoàng-Thị-Khiêm”, Phụ nữ thời đàm, 22/4/1932.
[96] “Cái án bạn và vợ: Vũ-Tam-Thám Hoàng-Thị-Khiêm,” Phụ nữ thời đàm, 4-5/4/1932.
[97] Như trên
[98] Xem Hà thành ngọ báo, 31/5/1927 và 12/9/1929; cũng xem Phụ nữ tân văn, 24/8/1933, trg. 6-8.
[99] Xem các tranh biếm họa trên Phụ nữ thời đàm ngày 29/4 và 5/5/1932.
[100] Thương Biên.  “Một việc mà chị em học sinh phải thận trọng: Tiểu thuyết Tây”, Phụ nữ thời đàm, 11/5/1932.
[101] Các báo được sử dụng để thu thập tư liệu là Hà thành ngọ báo: 8 trường hợp (1927-1929), Trung Bắc tân văn: 4 (1929-1930), Phụ nữ thời đàm: 17 (1931-1932), Phụ nữ tân văn: 14 (1931-1932).
[102] “Hỡi các bạn chán đời”, Hà thành ngọ báo, 13/7/1927.
[103] “Cái bệnh tự-tử” do Hồng Nhân dịch từ Edmond Jaloux, “Sur le suicide – Observations sur la psychologie du suicide” (Le Disque vert, 4th Series, số. 1, 1/1925), Nam phong, số 177 (10/1932), trg. 340.
[104] Phạm Quỳnh.  “Thanh niên có nên buồn không?” Nam phong, số 68 (2/1923), trg. 92-98.
[105] Phạm Thị Ngoạn.  Tìm hiểu Tạp chí Nam phong, sđd., trg. 308-309.
[106] “Chúng tôi hiểu cái lẽ cô Tuyết-Hồng tự vận,” Phụ nữ tân văn, 21/5/1931.
[107] Chế độ đa thê này chỉ chính thức chấm dứt nhờ luật gia đình ban hành riêng lẻ nhưng hầu như đồng bộ ở hai miền Nam – Bắc vào năm 1959.
[108] “Trong một tuần lễ hai cái án phụ nữ tự sát – Người phạm có lẽ đều là đàn ông”, Phụ nữ tân văn, 21/1/1932.
[109] “Cái chết khiếp nhược”, Phụ nữ tân văn, 19/4/1934.
[110] “Vợ chồng tự tử vì thất nghiệp”, Phụ nữ tân văn, 28/6/1934.
[111] “Thuốc phiện dấm thanh…” Phụ nữ thời đàm, 4 và 7/12/1932.
[112] “Yêu cảnh Kiếm hồ”, Phụ nữ thời đàm, 13/8/1931.
[113] Nguyễn Lan Khai.  Nước hồ Gươm, Hà Nội: Nhật Nam thư quán,1928.
[114] Phạm Duy Tốn.  “Nước đời lắm nỗi”, Nam phong, số 23 (5/1919), trg. 401-404.
[115] Tâm Việt.  Quanh hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội: Nguyễn Du thư xã, 1929; Tam Lang Vũ Đình Chí.  Giọt lệ sông Hương (Minh Châu lệ sử), Hà Nội: Tân Dân thư quán, 1930.
[116] Th. Sơn.  “Giấc mộng hồ Gươm”, Phụ nữ thời đàm, 24-25 và 26/8/1931; Mai Lâm.  ” Một buổi xem xử án tự vẫn tại cung vua Diêm”, Phụ nữ thời đàm, 6-10/6/1932; T. L. “Lệ Hồng quyên sinh”, Phong hóa, 22/9/1932; Lê Thành Tỉnh.  “Trên sông Thương”, Phong hóa, 19/5/1933; Tế Xuyên.  “Chưa chết được”, Phụ nữ thời đàm, 15/10/1933; Lưu Trọng Lư.  “Cái chết hiếu danh”, Phụ nữ thời đàm, 28/1/1934.
[117] Quảng cáo kịch “Ai chết trước nhất tại hồ Hoàn Gươm?”, Phụ nữ thời đàm, 1/2/1931.
[118] Hội Ái hữu hỏa xa Vân Nam.  “Vì đâu cô tự sát”, Rạng đông, 21/10/1933.
[119] Phong Hóa.  “Các vở kịch và cái nạn phụ nữ quyên sinh”, Phong hoá, số 6 (21/7/1932).
[120] “Sớm chán đời thế? Cô Lưu Thị-Đàm học trường Nam-sinh mới có 13 tuổi đầu vừa rồi trốn nhà đi tu”, Hà thành ngọ báo, 27/7/1929.
[121] Tuyết Mai.  “Cô Sâm mê chuyện”, Hà thành ngọ báo, 23/3/1929.
[122] “Ái-tình trong tiểu-thuyết và trong thiệt-tế”, Phụ nữ tân văn, 2/11/1933.
[123] Thường Nga.  “Một cách chữa bệnh tiểu-thuyết”, Phụ nữ thời đàm, 4/7/1931.
[124] Vũ-hữu-San, “Cái hại đọc tiểu-thuyết,” Báo Đông Pháp, 8/1/1929.
[125] “Phụ nữ đồng tình hội” đăng ở Phụ nữ tân văn, 8/5/1930: “Từ năm ngoái đến giờ, trong nước ta xảy ra không biết bao nhiêu là chuyện đàn bà tự sát.  Người nầy thì vì cảnh ngộ gia đình, kẻ nọ thì bởi tình duyên trắc trở, lại có nhiều người vì nghèo khổ, vì bịnh hoạn, cũng tính đến cái kế quyên sanh là kế cuối cùng. Thảm thương thứ nhứt là người đàn bà ở tỉnh Nam Định mới đây, gặp cảnh chồng chết con đông, bước cùng thân túng; trong lưng còn một đồng mấy bạc, để lại cả cho lũ con, rồi ra sông Vị Hoàng đâm đầu xuống đó …Chúng tôi tưởng trong lúc vật giá lên cao, củi châu gạo quế nầy, chắc hẳn không thiếu chi người muốn theo bước bà kia.”
[126] Chẳng hạn, “Cũng bởi chán đời – Bốn cô nữ học sanh cùng tự vận trong một lúc,” Phụ nữ tân văn, 25/7/1929 thuật chuyện 4 cô nữ sinh ở tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) rủ nhau cùng tự tử chỉ vì chán đời, cảm thấy bị khinh rẻ, “sanh ra gặp phải cá hoàn cảnh bất lương, thường bị kích thích, mà chúng tôi non dạ trẻ người, không đủ sức để chống chỏi lại.”; Hoàng Hồ, “Cô thiếu nữ chết vì tình,” Hà thành ngọ báo, 27/4/1929 kể việc cô học sinh họ Hồng tự tử ở Thanh Đảo.  Bài “Phụ nữ đồng tình hội” (bđd.) ghi nhận: “Không biết tại sao một năm đó, người Nhựt Bổn đua nhau tự vận nhiều quá.  Thứ nhứt là đàn bà.  Có hơi một chút gì bất như ý, ví dụ như giận chồng, như mất việc, như hỏng thi, bấy nhiêu đó cũng đủ khiến cho họ nhảy xuống giếng sâu, hay là đâm đầu vào xe lửa rồi.  Họ tự vận sao mà mỗi ngày nội trong nước Nhựt có cả chục cả trăm đám, đến đỗi ở đất Thần hộ , có cái giếng kia, đàn bà nhảy xuống đó tự vận mà lấp đầy.”
Share this article :
 
Support : Creating Website | phuctriethoc | NGUYỄN VĂN PHÚC
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved
By Creating Website Published by KINH TẾ HỌC
Proudly powered by NGUYỄN VĂN PHÚC
NGUYỄN VĂN PHÚC : Website | Liên hệ | phuctriethoc@gmail.com
Proudly powered by Triết học kinh tế
Copyright © 2013. NGUYỄN VĂN PHÚC - All Rights Reserved