Đọc lại Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng (nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của nhà văn)
15/10/2010 01:59Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một trong số những nhà văn hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Làm nên tên tuổi sáng giá của ông, bên cạnh và cùng với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm thuộc nhiều thể loại: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ…, trong số đó có những tác phẩm xứng đáng để đời, còn phải kể tới hàng ngàn trang nhật ký được tác giả cần mẫn, thầm lặng ghi chép trong ba mươi năm, bắt đầu ngày 2-11-1930 tới ngày 21-6-1960, trước khi vĩnh viễn từ giã cuộc đời vào ngày 25-7-1960.
Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) là một trong số những nhà văn hàng đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Làm nên tên tuổi sáng giá của ông, bên cạnh và cùng với một khối lượng đồ sộ những tác phẩm thuộc nhiều thể loại: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ…, trong số đó có những tác phẩm xứng đáng để đời, còn phải kể tới hàng ngàn trang nhật ký được tác giả cần mẫn, thầm lặng ghi chép trong ba mươi năm, bắt đầu ngày 2-11-1930 tới ngày 21-6-1960, trước khi vĩnh viễn từ giã cuộc đời vào ngày 25-7-1960.
Năm 2006, Nhà xuất bản Thanh niên, với sự phối hợp của gia đình nhà văn, đã công bố trọn bộ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, gồm 3 tập, với hơn 1700 trang, khổ 14,5 x 20,5 mà trước đó một số phần đã được đăng trên một số tờ báo, tạp chí và một nửa số trang trong tổng số 713 trang của tập 5 thuộc bộ sách Nguyễn Huy Tưởng, toàn tập, gồm 5 tập, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996. Việc công bố trọn bộ Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng giúp người đọc có tư liệu để nhìn rõ, nhìn kỹ và sâu hơn sự nghiệp văn học của ông trên cả những thành công và hẫng hụt ở tư cách một nghệ sĩ, và rộng ra, có thể cả những văn nghệ sĩ cùng thời, cùng thế hệ với ông, bao quát một thời kỳ dài, trước, trong Cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ với vô vàn những thăng trầm, biến thiên của lịch sử, của thời cuộc. Qua hơn 1700 trang nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng ghi lại những thao thức và trăn trở, chiêm nghiệm và suy ngẫm của ông về thực trạng xã hội và con người, văn chương và nghề văn mà ông là người trong cuộc. Bài viết dưới đây nhằm tìm hiểu một vài khía cạnh trong nhiều khía cạnh được “phản quang”, lưu giữ qua nhật ký của ông.
1. Lựa chọn thể loại và cách viết
Đối với một nhà văn, lộ trình đến văn chương có thể coi là một cuộc tìm mình, tìm đường trầy trật, khổ ải, không mấy suôn sẻ. Ý thức được những đòi hỏi khắt khe của đời sống, của Con người viết hoa, từ năm mười tám tuổi, ông đã ghi lời mở đầu cho những dòng nhật ký đầu tiên, có thể coi đó là lời tự răn và cũng là quan điểm sống của tác giả: “Người ta sở dĩ có nhiều tội lỗi là vì không chịu xét công việc của mình hàng ngày”. “Công việc của mình hàng ngày”, xét theo nhiều nghĩa, nếu với một nghệ sĩ, bao hàm cả lao động nghệ thuật. Ngay từ khi bắt đầu tập viết văn, Nguyễn Huy Tưởng đã có ý thức tìm cho mình một “lối đi riêng”. Trong Nhật ký ngày 26-10-1933, ông viết sau nhiều trăn trở, trải nghiệm: “Ta có xem của người ta chỉ xem lấy văn chương, còn thì phải giữ vững lấy tinh thần của sách ta, chớ nên bị sách người tiêm nhiễm”. Ít lâu sau, trong Nhật ký ngày 24-11-1933, ý thức đó lại được Nguyễn Huy Tưởng thể hiện: “Tôi đang chép nhật ký và suy xét mình, và tự tìm lấy một quan niệm nhân sinh. Tôi tự nghĩ: Sao ta lại không có một tư tưởng gì thế? Vậy những công trình ngươi định làm là những đồ chơi bằng giấy bồi ư? Ngươi có một quan niệm: Ngươi thích kịch, ngươi thích cổ, ngươi thích Cái Đẹp, ngươi muốn tán dương các anh hùng, ngươi thích thì ngươi làm, sao ngươi còn đắn đo”.
Dấn thân vào nghề văn như đã ghi trong Nhật ký ngày 19-12-1930 qua cuộc đối thoại với bạn của mình: “Phận sự một người tầm thường như tôi muốn tỏ lòng yêu nước thì chỉ có việc viết văn quốc ngữ thôi”, Nguyễn Huy Tưởng sớm tự ý thức được sở trường, sở đoản của mình qua sự lựa chọn và cân nhắc giữa các thể loại. Trước khi trở thành một nhà viết kịch hàng đầu, một nhà tiểu thuyết lịch sử xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại với nhiều tác phẩm đạt đến đỉnh cao về giá trị tư tưởng và nghệ thuật, mà Vũ Như Tô (1944), Sống mãi với Thủ đô (1961) là hai trong số nhiều ví dụ tiêu biểu, ông đã từng làm thơ. Nhưng, Nguyễn Huy Tưởng không trở thành nhà thơ, mặc dù ngay từ năm 1933, ông đã viết một chùm 6 bài thơ đăng trên tạp chí Nam phong, số 191. Đó là các bài Vịnh Lê Thái Tổ, Vịnh Lê Thánh Tôn, Quan công bình trúc, Mẹ ru con ngủ ngày, Đi đường gặp giai nhân hé cửa nhìn ra, Thu cảm(1). Nguyễn Huy Tưởng dự định tập hợp các bài thơ đã và sẽ làm in thành tập Nhất điểm linh đài. Một số bài trong đó đã được công bố trên tạp chí Tri tân vào những năm 1942-1943(2). Điều đó chứng tỏ năng khiếu thơ ca ở Nguyễn Huy Tưởng bộc lộ từ rất sớm, hai mươi mốt tuổi đã có thơ đăng báo, cũng có nghĩa là Nguyễn Huy Tưởng đến với văn chương trước hết là đến với thơ chứ không phải là đến với những thể loại khác. Ngay từ năm 1932, nghĩa là khi mới hai mươi tuổi, Nguyễn Huy Tưởng đã có những suy nghĩ thấu đáo về đặc trưng của thơ (“Thơ phải gọn gàng. Một câu thơ là tóm lại mười câu văn. Câu văn cũng như hòn đá, mà thơ là cái hòn đá giũa mài chỉ còn lại cái tinh hoa sáng sủa”- Nhật ký ngày 1-12-1932), tác dụng của thơ (“Thơ mà làm cho người ta sinh hoạt được du khoái, chấn loát được tinh thần, mở mang cuộc đời được rộng rãi, thơ ấy mới là thơ chính đáng” - Nhật ký ngày 21-3-1932), tính dân tộc trong thơ (“Nhà thi hào của một dân tộc nào phải diễn tả được cái hồn thơ riêng của dân tộc ấy một cách rực rỡ hùng hồn” - Nhật ký ngày 21-3-1932). Ông tôn vinh Virgile (70-19 TCN). Ông coi Victor Hugo (1802-1885), Voltaire (1694-1778), Corneille (1606-1684), Baudelaire (1821-1867) là “những bậc kỳ tài trong thiên hạ”. Ông say đắm Ly tao của Khuất Nguyên và những bài thơ Đường tuyệt thú.
Nguyễn Huy Tưởng từng có những giây phút hào hứng sáng tạo thơ ca. Ông ghi trong Nhật ký ngày 22-5-1941, rằng: “Bài ca chính thức mình làm hôm 21, kể cũng thú vị,
Nào trời non nước?/ Thờ ơ vườn Chu/ Tìm cành trông hướng/ Đường Nam tít mù/ Ôi non sông tre xanh/ Lớp mây mù không thấy nhà/ Ôi Văn Lang xa xăm/ Chí ta bền với sơn hà/ Non quê cha thiêng liêng/ Không bao giờ lòng quên.
Kể bài này, thực có tính cách thơ, hay thực”. Nhật ký ngày 18-1-1942: “Vui đi ta ơi. Việc ta làm dở từ 1939 nay đã thành. Trưa hôm nay tôi làm xong bài Đống Đa nhan đề là Xuân tráng sĩ. Lòng tôi bồng bột, tôi vui sướng như điên. Bài ca dài 80 câu và một điệp khúc 4 câu. Nó đã sáng tác trong bốn buổi: đêm 15, 16, 17 và ngày 18. Đáng ăn mừng, vì tôi vẫn ôm mối hận là không sao làm nổi được công việc bỏ dở từ 1939, từ cuối 38 thì đúng hơn”. Tuy nhiên, Nguyễn Huy Tưởng sớm nhận ra, thơ chỉ là sở đoản của mình. “Làm bài thơ về Lê Lợi, thấy kém. Buồn man mác. Thơ của mình không có gì mới mẻ cả. Nhưng cũng vì bài thơ không hợp ý ấy nên nhất định viết kịch Vũ Như Tô” (Nhật ký 22-5-1942). Thực ra, ngay từ năm 1939, Nguyễn Huy Tưởng đã “nghiệm thấy một cách đau đớn” rằng bây giờ ông “làm thơ chậm lắm và khó nữa” (Nhật ký ngày 22-1).
Đọc lại Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng kết hợp thực tế sáng tác của nhà văn, ta có thể thấy cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ XX, Nguyễn Huy Tưởng đã bắt đầu làm một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong việc chọn lựa thể loại. Ông dứt khoát và đặt trọng tâm đầu tư cho kịch và tiểu thuyết, với ý thức trở thành một tiểu thuyết gia, một kịch gia. Và đây là một sự chọn lựa đúng do đòi hỏi của nghiệp viết, bởi vì ngay từ đầu, ông đã nung nấu thể hiện đề tài lịch sử, một đề tài cần đến những hình thức, khuôn mẫu thể loại phù hợp. Từ đây về sau ông công bố hàng loạt tác phẩm xuất sắc: Vũ Như Tô, Đêm hội Long Trì, An Tư, Bắc Sơn, Sống mãi với Thủ đô. Nói cho công bằng, nếu Nguyễn Huy Tưởng tìm đến những thể loại đó thì cũng chính những hình thức thể loại đó đã làm nên nhà tiểu thuyết, nhà viết kịch Nguyễn Huy Tưởng.
Cho dù có tài năng, sẵn nhiệt tình sáng tạo, đầy ắp vốn sống nhưng nhà văn cũng sẽ lúng túng nếu không có một “thuật viết” riêng, phù hợp với tạng văn của mình. Nhật ký của nhà văn ngày 13-8-1939 khẳng định: “Tôi cần phải tả những cái hùng tráng, vĩ đại, với một lời văn gọn ghẽ, gợi ý và nhất là bóng bẩy”. Nguyễn Huy Tưởng cho rằng: “Phải theo Baudelaire văn chương cần lãnh đạm như cẩm thạch” (Nhật ký ngày 15-1-1942). Ông xác định thiên hướng của ngòi bút: “Cần phải viết truyện gần như thực, sát sự thực. Cần phải có sự sống tràn trề”. Ông “ghét tất cả những truyện ly kỳ, và thích lấy những tính tình dục vọng làm động cơ cho kết cục. Những lối “tuồng” không phù hợp nữa. Phải diệt trừ tất cả cái gì là sáo, là phóng đại, là kêu gào, là anh hùng theo lối Lê Văn Trương. Hãy đi đến những cái gì là tự nhiên, là chân thật, là giản dị” (Nhật ký ngày 4 và 5-12-1942). Ông còn tự dặn mình: “Làm tiểu thuyết, soạn một vở kịch, hay viết một bài thơ, công việc ấy cũng như làm một bài tính đố. Chỉ có một đường đưa ta đến “Giả nhời”, và nếu có nhiều đường, thì chỉ có đường giản dị nhất là nên theo” (Nhật ký ngày 7-12-1938). Nguyễn Huy Tưởng kiên trì với sự lựa chọn ấy. So với đương thời, sự lựa chọn của Nguyễn Huy Tưởng không hẳn là thời thượng. Bên cạnh những vần thơ rạo rực, rất Tây của Xuân Diệu, những vẻ trầm mặc rất Á Đông của thơ Huy Cận, hay những áng văn xuôi mượt mà của Tự lực văn đoàn, những câu văn giản dị của Nguyễn Huy Tưởng liệu có sức thu hút, hấp dẫn độc giả? Đó là một thách thức không nhỏ đối với ông. Nguyễn Huy Tưởng đã dũng cảm thử bút. Ông biết, sức sống lâu dài của một nghiệp văn được quyết định bởi chiều sâu tư tưởng, tầm triết lý của văn bản và “lối riêng” trong cách nhìn hiện thực, trong cách nhà văn “dẫn đường” người đọc khám phá chiều sâu bí ẩn của thế giới xung quanh bằng những hình ảnh, con chữ. Sau này trò chuyện với những người viết văn trẻ, Nguyễn Huy Tưởng tâm sự: “Trước hết chúng ta cần khẳng định với nhau rằng, trong văn học, sự sống, nhiệt tình và tài năng là chính, kinh nghiệm là phụ, và chúng ta tránh mọi thứ kinh nghiệm, mọi sự hướng dẫn làm cho một người viết trẻ rập khuôn theo một nhà văn nào. Chúng ta kỵ tất cả những cái gì làm mất cái phong cách của từng người viết”(3). Nói tới hoàn cảnh đã đưa ông đến với nghề văn, Nguyễn Huy Tưởng lý giải: Mới đầu “chưa có khuynh hướng viết văn” mà “muốn hoạt động chính trị và xã hội hơn”, nhưng lớn lên trong không khí của một gia đình nhà nho, ông “cũng thích văn chương “phú lạc”. Lớn lên, đi học, ông ham đọc sách, và thiên về những tác phẩm cổ điển, đặc biệt những tác phẩm ngợi ca con người, ngợi ca Tổ quốc. Ông “ghét những thứ văn chương trống rỗng, ghét nhất là văn chương Ngày nay, Phong hoá, Tiểu thuyết thứ bảy” vì một vài cuốn sách mà ông xem “không thấy một chút gì là ưu thời mẫn thế”(4). Điều này giúp ta hiểu vì sao Nguyễn Huy Tưởng lại thiên về đề tài lịch sử, như ông đã từng ghi trong nhật ký cũng như trải nghiệm qua sáng tác. Và, những tác phẩm xuất sắc của nhà văn này dường như cũng là những tác phẩm khai thác đề tài lịch sử “ngợi ca con người, ngợi ca Tổ quốc”. Nguyễn Huy Tưởng khiêm tốn cho rằng, bước vào làng văn, ông chỉ là “một kẻ ăn mò”. Tuy nhiên, hành trình sáng tác và nhật ký của ông lại cho thấy, đây là một quá trình sáng tạo tự giác, có ý thức. Là một người sớm ưu thời, mẫn thế, Nguyễn Huy Tưởng thiết tha với những trang sử của dân tộc, với những anh hùng đã làm rạng danh non sông, đất nước. Ông tự hào rằng “sử Việt Nam đầy những phong công mỹ tích, đầy những cái đẹp, cái hay mà chưa ai khai thác cả” (Nhật ký ngày 22-10-1938). Ông muốn viết kịch, viết tiểu thuyết để truyền cái tinh thần của ông cha đến với ngàn đời: “Dù viết cái gì cũng không nên bỏ tinh thần Việt Nam”. Những trang viết đầu tiên khó nhọc, chậm, vật vã nhưng không hề nản. Ông để tâm tìm hiểu tiểu thuyết. Sau kịch, tiểu thuyết là thể loại được ông đặc biệt chú ý. Tiểu thuyết là hình thức phù hợp và thích ứng để Nguyễn Huy Tưởng gửi tâm tình, quan niệm về cuộc đời như ông đã từng ghi trong Nhật ký ngày 6-9-1949 và nhiều trang nhật ký khác nữa mà chúng tôi không kể ra hết. Trong số những nhà văn Nguyễn Huy Tưởng biết và đọc, ông khâm phục Lép Tônstôi, đại văn hào Nga, ông dành sự ngưỡng mộ đặc biệt đối với Racine, thi sĩ, kịch gia Pháp. Ông khao khát trở thành một Lép Tônstôi, một Racine của Việt Nam, nghĩa là khao khát trở thành một nhà viết tiểu thuyết, một nhà viết kịch tầm cỡ. Ông dự định “kết cấu một truyện dài khổng lồ về xã hội Việt Nam thế kỷ XX. Loại La gueree et la paix (Chiến tranh và hoà bình) của Tônstôi” (Nhật ký ngày 2-5-1945) và “miên man nghĩ một vở kịch vĩ đại” (Nhật ký ngày 6-5-1945). Đồng hành cùng cuộc kháng chiến gian khổ, tận mắt chứng kiến những hy sinh to lớn, cũng như sức mạnh quật khởi của dân tộc, nhân dân, Nguyễn Huy Tưởng thiết tha muốn viết và nóng viết những tác phẩm xứng tầm với kháng chiến. Ông lắng nghe những lời góp ý chân thành của những người bạn nghệ sĩ, rồi tự ngẫm nghĩ cái “tạng” riêng của mình “thiên về những truyện có tính cách lyrico- épique (sử thi trữ tình) (…) Thích nhiều những truyện có tính cách trữ tình, thân mật, có chiến đấu, nhưng cũng có nhiều tình yêu tình bạn và sôi nổi huyết khí thanh niên” (Nhật ký ngày 5-9-1950). Quả đúng như ông tiên liệu, sau này, nhiều người khẳng định sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, đặc biệt là kịch và tiểu thuyết, giàu tính sử thi. Nguyễn Huy Tưởng “thiên về ca ngợi, thiên về cái hùng tráng, huy hoàng, thiên về cái cao cả. Bắc Sơn, Những người ở lại, Sống mãi với Thủ đô đều là những tác phẩm đầy chất tráng ca”(5). Nguyễn Huy Tưởng “giỏi viết về cái vĩ mô”(6). “So với tiểu thuyết và kịch lịch sử đương thời, các tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã vượt trội hẳn lên”(7).
2. Thao thức về những vấn đề văn học
Ngay từ những năm 50, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, nhu cầu đổi mới văn học, cụ thể là đổi mới cách nghĩ, cách viết đã bộc lộ ở Nguyễn Huy Tưởng. Nhật ký ngày 29-3-1955 có ghi: “Xem Banie du Foyer (Cấm cửa), phim Ý, thấy cần chú ý tình cảm. Nói mãi đấu tranh, sáo và mệt”. Trải qua chín năm sống và viết trong hoàn cảnh gian khổ, ác liệt, đối mặt với gian khổ, Nguyễn Huy Tưởng có nhiều tác phẩm về đề tài kháng chiến được đánh giá cao như Ký sự Cao Lạng, Những người ở lại và hàng loạt vở kịch ngắn: Người vợ, Khiêng thuyền, Anh sơ đầu quân…, nhưng chính ông lại tự phê bình quyết liệt với những tác phẩm ấy, những tác phẩm mà ông coi là “phục vụ kịp thời nhất” của mình, sớm nhận ra những bất cập trong sáng tác của chính mình cũng như của nền văn học kháng chiến. Nhật ký ngày 21-1-1956, 21-3-1956, 8-6-1956 của ông nói đến quá trình tự kiểm điểm này bằng một thái độ trung thực, thẳng thắn. Tự đánh giá lại Truyện anh Lục, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 21-3-1956: “Hoàn thành tập 3 Truyện anh Lục. Gọi là xong. Khá hơn lần trước nhưng vẫn rối rắm. Vẫn một chiều, thiếu sâu sắc, thiếu cái sinh động của con người, với những đấu tranh nội tâm, những ảnh hưởng khách quan của xã hội”. Kiểm điểm lại văn học mười năm kháng chiến (1945-1954), Nguyễn Huy Tưởng không né tránh khi nhận xét: “Tác phẩm văn học không được là bao. Mà cũng chỉ là kể việc, không có tư tưởng, không có vấn đề, không có bài học gì cho tâm hồn. Mỗi nhà văn phải có một thế giới quan, trong ấy sống những nhân vật của mình. Quan niệm phục vụ kịp thời, nó đã lãng phí bao nhiêu tài năng, dẫn đến biết bao những tác phẩm vô giá trị, những nghệ sĩ cơ hội. Thậm chí cá tính của một người nghệ sĩ không còn. Một thứ nghệ thuật chung chung, giống nhau, không có khía nhìn, khía cảm, khía suy nghĩ của người tác giả. Công thức lạ lùng. Phải vứt những chữ kịp thời tai hại kia đi. Để cho nghệ sĩ có thì giờ mà suy nghĩ, mơ mộng, đuổi theo những đề tài của mình, phát triển cái cá tính của mình, nêu những vấn đề của cuộc sống”. Những dòng nhật ký trên đây được ông viết ngày 8-6-1956, nghĩa là khi hào quang chiến thắng vẫn còn tươi rói, khi vô số các giải thưởng với những thứ hạng nhất, nhì, ba…cho tác giả này, tác phẩm kia vừa mới được trao và nhận. Không ngần ngại “bắt mạch kê đơn” cho những non kém của văn học nước nhà trong chín năm kháng chiến, ông cho rằng, chính cái quan niệm “phục vụ kịp thời” đã tạo ra “một thứ nghệ thuật chung chung, giống nhau”. Nguyễn Huy Tưởng quyết liệt phê phán quan niệm “phục vụ kịp thời” vì đấy là quan niệm “tai hại” (Nhật ký ngày 1-6-1956). Năm 1960, thực trạng này được Nguyễn Huy Tưởng nhắc lại lần nữa trong nhật ký ngày 20- 4, và lần này xem ra còn quyết liệt hơn: “Nhìn trước nhìn sau, thấy văn học ta nghèo nàn, khô khan, không có xương máu, mà lo”.
Nguyễn Huy Tưởng mong muốn đổi mới lý luận, đổi mới cách nhận thức của văn nghệ sĩ, của một nền văn học trước yêu cầu của cuộc sống. Ông cho rằng: “Phải thay đổi đường lối tuyên truyền. Phải mạnh dạn nhìn vào cái xấu. Vấn đề là biểu hiện cái xấu như thế nào, đến mức độ nào (…) Phải dũng cảm mà phê bình xã hội. Tự hào, phải có cái tự hào của người cầm bút” (Nhật ký ngày 5-7-1956). Nhật ký ngày 7-7-1956 cũng nhấn mạnh: “Đời sống còn giả tạo. Còn đầy rẫy khuyết điểm. Ngay cái quan niệm về nghệ thuật (…) Vấn đề chính là vạch những cái xấu, phải thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nâng niu, tôn trọng con người”. Những trang nhật ký được ghi vào các ngày 21, 22-4-1956; 7-5-1957 cho thấy nhà văn suy tư với ý hướng chuyển cách viết vốn “thiên về ca ngợi” những vấn đề mang tính sử thi, vĩ đại của đời sống, như ông tự nhận trong thiên tuỳ bút Một ngày chủ nhật, sang những đề tài bình dị, đời thường: “Phải đi vào cuộc sống bình thường”, “cuộc đời bình thường mà vĩ đại”, “phải đưa vào tác phẩm tiếng nói bình dị của cuộc sống, chân lý thông thường của cuộc sống”. Đọc lại những trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng ghi vào thời gian này, ta bắt gặp những từ “bình thường”, “thông thường”, “giản dị” , “bình dị”, được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần như một tín hiệu có ý nghĩa cho một quan niệm nghệ thuật mà ông tự nhắc nhở để thực hiện. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng còn cho thấy ông nhận ra sự cần thiết phải chú ý tới chức năng giải trí (cố nhiên lành mạnh) của văn học đối với quần chúng nhân dân trong hoàn cảnh cuộc đời đang dần trở lại nhịp sống bình thường. Ông mong mỏi “lấy lại cái thơ, cái đẹp, cái tự nhiên mà cán bộ đã làm mất. Phải làm cho cuộc đời có cái vui thú” (Nhật ký 2-10-1956). Theo ông, “văn nghệ có phải chỉ cổ động tuyên truyền giáo dục đâu. Nó làm được nhiệm vụ giải trí cũng là tốt rồi. Sau những khó khăn, lo nghĩ, được đẹp mắt, vui tai, thoáng đãng tâm hồn”. Văn học, theo ông, “đừng nặng về giáo dục mà nhẹ phần giải trí” (Nhật ký ngày 2-7-1956). Đây là điều đâu dễ nói. Và, nói đâu dễ được chấp nhận trong bối cảnh xã hội và tư duy lý luận văn nghệ đương thời. Do sự tác động của thời cuộc, vào những năm 50, 60 và hàng chục năm tiếp theo của thế kỷ XX, trước yêu cầu và mục tiêu phục vụ nhiệm vụ chính trị, chức năng giáo dục, cải tạo con người của văn nghệ luôn luôn được đặt lên hàng đầu, lên hàng số một trong tương quan với chức năng nhận thức và thẩm mỹ là hai trong số ba chức năng (và dường như chỉ là ba) của văn nghệ được giới lý luận và sáng tác nói tới lúc bấy giờ. Chức năng giải trí của văn học nghệ thuật hầu như không được đề cập, nếu có, cũng chỉ ở khía cạnh cảnh giới, phê phán, phòng ngừa những biểu hiện sa đà, những cách nghĩ “lệch lạc”.
Qua nhật ký, ta còn thấy, Nguyễn Huy Tưởng không ít lần trăn trở, đặt lại và nhìn lại nhiều vấn đề của văn hoá, văn nghệ đương thời, trong đó có vấn đề văn nghệ phục vụ chính trị; vấn đề đối tượng phản ánh và phục vụ của văn nghệ cách mạng. Nhật ký ngày 21-5-1956 ghi: “Văn nghệ không phải chỉ có vấn đề đối tượng công nông”. Ông cũng đặt ra hướng tiếp cận mới về đối tượng “trung tâm” của văn học thời kỳ này. Trong khi “người ta kỵ không được nói những cái xấu của công nhân, nông dân, hình như chế giễu những người ấy là động đến cả chế độ”, ông đặt vấn đề theo hướng phản biện: “Nhưng sao lại không được? Họ là những cậu ấm, cô chiêu mới không được đả động ư? Không? Không thể dối trá được. Không thể che đậy được. Không thể vì cách mạng mà nuông chiều, gượng nhẹ được. Vấn đề là xây dựng con người” (Nhật ký ngày 7-3-1957). Ngay từ những ngày đầu hoà bình lập lại, qua nhật ký của mình, Nguyễn Huy Tưởng đã có những suy nghĩ táo bạo về mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị. Nếu bài viết Văn nghệ và chính trị của một nhà nghiên cứu văn học công bố năm 1987 trên tuần báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam từng làm xôn xao dư luận một thời thì có lẽ người ta sẽ càng cảm phục và chia sẻ cùng Nguyễn Huy Tưởng, nếu biết từ năm 1957, có nghĩa là trước đó 30 năm, ông đã suy nghĩ về vấn đề này khá sâu: “Văn nghệ có cần phải phục vụ không? Sao lại gò ép vào việc ấy? Thân với bạn, làm thơ tiễn bạn: Có phục vụ chính sách mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu về chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này” (Nhật ký ngày 2-2-1957). Ba năm sau, năm 1960, vấn đề “văn nghệ phục vụ…” được Nguyễn Huy Tưởng đặt ra lần nữa, trong nhật ký ngày 20-4: “Văn học phục tùng chính trị. Văn học phục vụ chiến đấu. Ta đồng ý với tấm lòng chân thành của ta. Vấn đề chỉ là yêu cầu một sự hiểu biết về văn học, về tính chất của văn học”. Từ đó, nhà văn mong muốn một sự thay đổi, không chỉ ở nếp nghĩ, cách nhìn mà còn là thể hiện ở tác phẩm của mỗi nhà văn. “Ngẫm nghĩ về cái công thức của thời đại”, Nguyễn Huy Tưởng cho rằng “thời đại nào cũng có những cái công thức của nó. Vấn đề của nhà văn là phải phá cái công thức, và chống lại cái một chiều, hiu hiu, cái nhạt nhẽo của con người” (Nhật ký ngày 15-1-1957). Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng từ 1956 đến 1960 cũng đã ghi lại nhiều dự định của nhà văn theo những ý hướng trên. Tiếc rằng, nhà văn đã ra đi quá sớm, không kịp thực hiện niềm khát khao sáng tạo và đổi mới kia. Chúng tôi nghĩ vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80 thế kỷ XX, nhiều văn nghệ sĩ đến sau ông hoặc kế tiếp ông đã thể hiện xuất sắc tư tưởng đổi mới văn học trên cả hai khu vực lý luận phê bình và sáng tác mà vào những năm 50, 60 ông đã tiên đoán và dự cảm. Khảo sát nhật ký Nguyễn Huy Tưởng trong những năm 1955-1960 có thể nhận thấy nhiều mối ưu tư, bận lòng của chính tác giả trước thực trạng “nghèo nàn, khô khan” của văn học nước nhà như ông đã cảm và nghĩ. Ông quan ngại trước tình trạng con người sự vụ, con người công chức lấn át con người nghệ sĩ, một trong những nguyên nhân làm nghèo sự sáng tạo. “Người nghệ sĩ phải có tự hào. Nhưng thật ra, lúc này, họ có khác gì một công chức. Họ dốt về mọi phương diện. Văn hoá thấp kém. Họ sáng tạo cái gì (…) đóng góp cái gì. Anh nêu được vấn đề gì khi anh chẳng tìm thấy vấn đề gì nêu cả (…) Như thế là nghệ sĩ không? Hay chỉ là công chức?” (Nhật ký ngày 17-5-1956). Rồi đây khi nghĩ về những nhà văn, nhà thơ sớm trăn trở đổi mới văn học Việt Nam, không thể không nghĩ đến, nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng. Nói vậy không phải là chủ quan theo kiểu “nói lấy được” mà có căn cứ. “Căn cứ” ở chỗ những vấn đề: Chức năng của văn nghệ, trong đó có chức năng giải trí; Quan hệ giữa văn nghệ và chính trị; Vấn đề đánh giá thành tựu và hạn chế của văn nghệ cách mạng Việt Nam 1945-1975, trong đó, văn học 1945-1954 là một chặng; Vấn đề văn học phản ánh hiện thực… là những vấn đề lý luận và thực tiễn được tranh luận sôi nổi, thậm chí quyết liệt vào thời đầu Đổi mới cũng là những vấn đề mà ba chục hoặc hơn ba chục năm trước Nguyễn Huy Tưởng trăn trở, thao thức và ghi lại không thiếu và sót trong nhật ký của ông. Nếu có khác chăng là vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, bầu khí quyển chính trị- xã hội chưa thuận và chưa hợp cho nhiều người trong đó có Nguyễn Huy Tưởng được công khai bộc lộ ý kiến của mình. Cho nên, với hình thức nhật ký, Nguyễn Huy Tưởng đã thực hiện một cuộc độc thoại, mà thực chất là đối thoại: đối thoại với chính mình, với mọi người về những vấn đề văn học.
Tóm lại, năm mươi năm sau ngày Nguyễn Huy Tưởng ra đi vĩnh viễn, đồng nghĩa với 50 năm những dòng nhật ký cuối cùng của ông đóng lại, công chúng yêu văn học hiện nay vẫn tìm thấy ở đó những mối quan tâm suy nghĩ dường như chưa hề cũ, không bị cũ, nghĩa là còn rất mới, rất thời sự của một nghệ sĩ trung thực, thường ưu tư về những vấn đề văn hoá, văn nghệ dân tộc. Nếu coi sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng là mạch nổi, thì nhật ký mà sinh thời ông chưa có điều kiện công bố là mạch chìm, mạch ngầm. Vì vậy, để hiểu mạch nổi cũng cần biết mạch ngầm, mạch chìm chứ sao. Xét trên phương diện văn bản học, hơn 1700 trang nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng còn là một tư liệu quý cho nhiều bộ môn như sử học, văn hóa học, xã hội học1
___________
(1) Xin xem:
- Nguyễn Khắc Xuyên: Mục lục phân tích Tạp chí Nam phong, Nxb. Thuận Hoá, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr.275.
- Nguyễn Huy Tưởng: “Thơ là hòn đá giũa mài chỉ còn lại cái tinh hoa sáng sủa”, Tạp chí Thơ, số 1-2006, tr.75-82
(2) Xin xem: Thơ Mới 1932-1945 –Tác giả và tác phẩm, Nxb. Hội Nhà văn, H, 2001, tr.1017, 1019, 1021.
(3) Nguyễn Huy Tưởng: Toàn tập, tập 2, Nxb. Văn học, H, 1996, tr.883.
(4) Nguyễn Huy Tưởng: Toàn tập, tập 2, Sđd, tr.884.
(5), (6) Xin xem: Nguyễn Huy Tưởng - Về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.191.
(7) Xin xem: Nguyễn Huy Tưởng - Về tác gia và tác phẩm, Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.211.