Pages

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

CƠ HỌC TIẾN HÓA - T6

QUYỂN SÁU
SỰ TRONG SẠCH CỦA XÁC THÂN
LÒNG SÙNG ĐẠO
1971
SỰ TRONG-SẠCH CỦA XÁC-THÂN
Mục-đích của Pháp-Môn RAJA-YOGA.
(Du-Già Vương-Giả)
Pháp-Môn Raja-Yoga hay là Du-Già Vương-Giả là sự tìm kiếm đấng Duy-Nhất bằng cách phát-triển những đức-tánh cao-cả của cái Trí, của cái Vía và của Xác-Thân.
Theo phương-pháp nầy Sanh-Viên sẽ tiến từ Hạ-Trí đến Thượng-Trí, từ cái Vía tới Kim-Thân hay là Trực-Giác, từ Xác-Thân đến Ý-Chí.
Khi công việc hoàn-thành thì đời sống nội tâm sẽ thay thế đời sống tầm-thường của con NGƯỜI, và Tâm-Thức cao-siêu sẽ hoạt-động mạnh-mẽ. Chơn-Nhơn sẽ điều-khiển Phàm-Nhơn và tất cả bản-tính sẽ trở-thành sự biểu-lộ của Tinh-Thần.
Sanh-viên muốn theo Pháp-Môn Du-Già Vương-Giả thì phải có ;
---một Xác-thân tinh-khiết, lành-mạnh
---một cái Vía trong sạch, tốt đẹp,
---Một cái Trí khương-kiện, tinh-tấn, lanh-lẹ.
Cả ba điều phải hoàn-toàn dễ sai-khiến, dễ uốn-nắn, dễ nhạy-cảm và triệt-để phục-tùng mạng-lịnh của Chơn-Nhơn dưới ba phương-diện :
Ý-Chí, Minh-Triết và Hoạt-Động
XÁC-THÂN
Xác-Thân là thể được cấu-tạo hoàn-toàn nhứt và cũng tiến-hóa nhứt trong 7 thể của con NGƯỜI.
Tuy nhiên đối với các nhà Huyền-Bí-học thì nó lại là một trong những thể khó sai-khiến nhứt, bởi vì phải làm cho nó vừa nhạy-cảm đối với những sự rung-động của mấy cõi cao mà đồng-thời vừa lãnh-đạm đối với những sự rung-động của các cảnh thấp. Hai điều nầy trái ngược nhau, dường như khó thực-hiện được. Nhưng chúng ta phải cố-gắng mãi.
Sự tinh-luyện Thể-Xác.
Muốn có sự nhạy-cảm thì phải Tinh-luyện Xác-thân bằng cách giữ kỹ-lưỡng những điều sau đây :
---cẩn-thận chọn lựa thức-ăn hạp với mình.
---có điều-độ trong mọi sự : bữa ăn, giấc ngủ, giải-trí, thể-dục,…nhứt là tiết-dục.
---sạch-sẽ từ y-phục cho tới thân-mình.
I
SỰ CHỌN LỰA THỨC-ĂN
a)---Phải trường chay, chưa được thì tập lần. Chớ nên đương dùng mặn mà dứt ngang rồi ăn chay trường liền, e cho xác-thân chưa quen, phát đau ốm, rồi phải trở lại ăn mặn như trước.
Máu huyết, xương thịt và từ-điển thú-vật vô mình ta biến thành máu huyết, xương thịt của ta. Vì thế, về phương-diện đạo-đức, ăn mặn không được tinh-khiết.
Như quyển DƯỚI CHƠN THẦY đã nói : Thói mê-tín và hung bạo ám-ảnh con người rằng cần phải dùng thịt đặng nuôi dưỡng xác-thân.
Ăn thịt thì xác-thân trở nên thô-kịch và nhiều chứng bịnh hiểm-nghèo lại sanh ra. Nhưng trong tất cả những lý-do nầy, có một lý-do sâu-xa hơn hết là muốn dùng thịt thì phải sát hại những sanh-vật vô-tội, vui sống, biết đau-khổ và thật ra có khi rất hữu-ích cho con người.
Dùng thịt là phạm tội nghịch với lòng từ-ái và tự mình dựng lên một bức rào trên đường mình đi, trong khi chúng ta đi tìm kiếm các Đức Chơn-Sư Từ-Bi Minh-Triết.
Một sự cố-gắng nghiêm-trang và đúng-đắn không thể đi đôi với sự sát-hại thú-vật đặng ăn thịt. Hành động như vậy sẽ phạm đến oai-đức của các Tôn-Sư chúng ta, ---như vậy xác-thân của chúng ta không thích-nghi với công việc phụng-sự
Sanh-viên phải là người tiên-khu về đời sống trong-sạch của thể-xác và bàn tay không bao giờ dính máu của một sinh-vật nào cả.
Khuyên người có thiện-ý mà đồng-thời gieo-rắc sự hãi-hùng và nghi-kỵ, nói chuyện hữu-ái mà đồng thời còn tàn-sát là một điều vô-lối và phi-lý hết sức.
Chúng ta đã sẵn có bao nhiêu sự khó-khăn phải lo chiến-thắng mà chúng ta lại còn khuyến-khích thú tánh của chúng ta và làm yếu bộ óc cùng là những dây thần-kinh của chúng ta, để cho bị khó-khăn thêm nữa thì thật là đáng buồn biết bao.
b)---Phải bỏ rượu, thuốc lá và các chất ma-túy.
Rượu làm hư 2 hạch quan-trọng trong óc ta, ấy là : Hạch mũi (corps pituitaire ou hypophyse) và Hạch óc (Tùng-quả-tuyến, ---Glande pinéale).
Hạch mũi là cơ-quan để luyện Thần-nhãn. Hạch óc là cơ-quan để chuyển-di tư-tưởng ; bị rượu, chúng nó không còn làm môi-vật cho nhiều thế-lực huyền bí-nữa.
Còn thuốc lá, thuốc phiện và các chất ma-túy khác làm hư-hại cái Vía. Sau khi bỏ Xác, lên cõi Trung-giới thì những người ghiền sẽ giống như những người xụi bại ở cõi trần, họ bị tê-liệt trong một thời-gian khá lâu, cho tới chừng nào chất độc trong Vía tiêu-tan hết, họ mới cử-động được.
Sanh-viên Huyền-Bí-học nên hiểu thật rõ rằng :
“Những luật thiên-nhiên không nên vi-phạm”.
Không nên tưởng rằng : Anh chỉ thừa nhận về mặt lý-thuyết và anh không thể khinh-thường chúng là đủ.
Điều mà thiên-nhiên đưa đến cho chúng ta đều liên-quan đến những hành-vi của chúng ta, dầu chúng ta biết hay không biết cũng mặc. Không có một sự tha-thứ nào, không có một mưu mẹo nào có thể ngăn-trở hiệu-quả được, khi mà chúng ta làm sái Luật Trời.
II
CÓ ĐIỀU-ĐỘ TRONG MỌI SỰ VIỆC
Phải tuân theo mới bảo-vệ được sức khoẻ
a)---Về bữa ăn Nói cho đúng phép : Đói mới ăn, khát mới uống. Không nên ăn quá sức chịu đựng của dạ-dày, mà cũng không nên ăn ít quá, vì không đủ những chất cần-thiết để bồi-bổ sức-lực đã hao mòn.
Điều hay hơn hết là phải ra công học hỏi Xác-thân, coi nó cần dùng món chi hạp với nó để có đủ sức hoạt-động mạnh-mẽ và loại ra món nào nó không thích. Thường khi những món ngon miệng không hữu-ích cho xác-thân mà còn gây nhiều tai-hại như : Rượu và Thịt chẳng hạn.
Ngoài ba bữa ăn chánh, không nên ăn cái chi cả. Ăn Ngọ được rất tốt, song điều nầy không phải mỗi người điều thực-hiện được một cách dễ-dàng, trừ ra những người đã lớn tuổi.
b)---Về giấc ngủ.
Đừng ngủ ít quá mà cũng đừng ngủ nhiều quá. Ngủ ít quá, bộ thần-kinh căng-thẳng, sanh ra nóng-nảy, quạu-quọ. Ngủ nhiều quá thì sanh ra lười biếng, đần-độn.
Hảy ngủ cho vừa phải ; phải xem-xét coi Xác-Thân của chúng ta cần phải ngủ mấy giờ. Về điều nầy mỗi người mỗi khác. Thường thường lớn tuổi thì ngủ ít hơn hồi còn trẻ.
Nên ngủ trong trong khoảng 10 giờ tối (22 giờ) tới 6 giờ sáng là vừa.
c)---Về mấy việc khác.
Đừng làm việc quá sức, đừng làm quá độ. Phải tự lượng sức mình. Việc nào không nổi thì bỏ, đừng quá rán sức mà có hại cho thân, và công việc cũng sẽ hư.
Nên luôn luôn nhớ đến năng-lực, làm việc thế nào cho khỏi bị mệt nhọc, và bộ thần-kinh khỏi bị suy-nhược.
Nên tập thể-dục vừa sức. Đừng tập dượt những môn thể-thao mệt-nhọc, có thể đi bộ, cỡi xe đạp cũng được.
d)---Phải tiết-dục
Nên biết rằng sự giao-hợp là một phương-tiện để tạo ra một hình-hài đặng cho Linh-hồn nhập vào hầu tiếp-tục sự tiến-hoá đã bỏ kiếp mới rồi, chớ không phải vì sự vui sướng của xác-thịt.
Nếu phung-phí lực sanh-hoá một cách vô-lối thì là tự giết mình lần mòn.
Bộ Thần-kinh sẽ suy-nhược, xác-thân sẽ xanh-xao yếu-đuối, dễ làm mồi cho bịnh-hoạn.
Nếu không cải-hối kịp-thời thì e cho phải chết sớm, trước ngày giờ mà Thiên-Đình đã định sẵn cho mình, mà lại còn gây những nghiệp-quả xấu cho 3 thể Thân, Vía, Trí kiếp sau nữa.
Thế nên phải hết sức tiết-dục. Thật là : Có Trời mà cũng có ta.
Tu là cội Phúc.
Hãy quan-niệm cuộc đời một cách vui-vẻ.
Hãy tiếp-nhận một cách can-đảm và hân-hoan các sự thử-thách đưa tới.
Đừng lo ngại những sự khó-khăn, vì đó là con đường để mở-mang ý-chí, và giúp cho xác thân trở nên cường-tráng.
Hãy thưởng-thức vẻ đẹp thiên-nhiên, hãy trau-giồi lòng mến thiên-nhiên, hãy sống gần thiên-nhiên mổi khi có thể được, điều nầy tối quan-hệ : không-khí trong-sạch rất cần cho sức-khoẻ. Nếu Sanh-viên bị bắt-buộc sống trong đô-thị, thì mổi khi có thể làm được, nên sống môt ngày hay nhiều ngày ở nơi thôn-dã, rừng núi, biển sông.
Sự tập thở dài hơi và cho đều, rất hữu-ích.
Sau cùng, hãy suy-nghĩ và phác-hoạ một cách đại-khái, cách sống cho đúng vệ-sanh, rồi hãy theo đúng chương trình đó, đều-đặn, tùy theo lẽ phải.
Một khi đã tập quen được cái nếp sống đó rồi, thì đừng bận tâm tới nó nữa.
Nếu cần phải nghĩ đến xác-thân thì quí bạn hãy nghĩ rằng : nó mạnh-mẽ, nó tinh-khiết và trầm-lặng.
Xác-thân ta phải là con ngựa của ta cỡi. Một khi đã sắp sẵn tất cả mọi điều để cho nó được lành mạnh thì thỉnh-thoảng nhìn xét nó một cách qua loa cũng đã đủ, vì thời-giờ và tư-tưởng ta còn phải tập-trung vào những việc cần thiết và hữu-ích khác.
XÁC-THÂN TRỰC-TIẾP LIÊN-HỆ TỚI TIÊN-THỂ (Corps Atmique)
Xác-thân trực-tiếp liên-hệ tới Tiên-thể (Corps Atmique), lớp vỏ của ATMA (1), [(1) Kinh sách xưa của Ấn-Độ thường dùng chử ATMA đồng-nghĩa với Chơn-Thần (Monade).] ngôi thứ Nhứt của Chơn-Nhơn, trên cõi Niết-Bàn hay là Cảnh Giới thiêng-liêng.
Nó là Thể đặc-biệt của Ý-chí và do đó là Cơ-quan của sự Hành-động.
Vì thế tinh-luyện nó là một việc tối quan-trọng. Tinh-luyện nghĩa là phục-hưng, cải-tạo lại xác-thân để dùng nó vào nhựng mục-đích tinh-thần; vì vậy,---tinh-thần-hoá xác-thân là điều hết sức trọng-hệ và rất cần-thiết.
Xác-Thân chỉ phải chứa đựng những hợp-chất nào thanh-bai, tinh-khiết nhứt của ba chất :
Chất đặc
Chất lỏng, và
Chất hơi,
ba cảnh chót Hồng-Trần là :
cảnh thứ năm, cảnh thứ sáu và cảnh thứ bảy cùng những hợp chất của 4 chất dỉ-thái Hồng Trần, làm ra cái Phách, ấy là :
Chất dĩ-thái thứ nhứt, hay là nguyên tử, căn bản Hồng-Trần,
Chất dĩ-thái thứ nhì,
Chất dĩ-thái thứ ba, và
Chất dĩ-thái thứ tư của 4 cảnh cao Hồng-Trần tức là Cảnh thứ nhứt, thứ nhì, thứ ba và thứ tư.
Ai mà có một xác-thân được cấu-tạo như thế thì nội trong kiếp nầy sẽ đi đến quả-vị Chơn-Tiên.
Tại sao Xác-thân của Sanh-viên Huyền-bí-học phải tráng-kiện ?
Sách DƯỚI CHƠN THẦY đã dạy chúng ta về điểm nầy rồi. Tôi xin lặp lại ở đây :
“Thân con là con thú của con nuôi, con ngựa của con cỡi, bởi vậy phải đối đãi với nó cho tử-tế và phải săn-sóc nó kỹ-lưỡng. Đừng bắt nó làm quá sức và phải nuôi nó cho đúng phép với những đồ ăn uống tinh-khiết và giữ-gìn cho nó sạch sẽ luôn luôn ; đừng dung-dưỡng một mảy bợn-nhơ. Bởi vì, nếu không có một xác-thân tinh-khiết và tráng-kiện thì không thế nào con lo nổi công việc khó-khăn trong lúc tập-luyện đặng bước vào cửa Đạo, con không chịu nổi những nổ-lực cần-thiết và lặp đi lặp lại mãi”.
Mới đọc sơ qua thì không thấy chi là lạ, là khó khăn. Nhưng chừng có kinh-nghiệm rồi mới biết những lời nầy thật là đúng tới bực nào.
Sự huấn luyện huyền-bí bắt buộc thể xác phải rán sức rất nhiều, bộ thần-kinh phải mảnh-mai, và luôn luôn căng-thẳng. Như thế mới trở nên nhạy-cảm được.
III
SẠCH-SẼ TỪ Y-PHỤC CHO TỚI THÂN-MÌNH.
Vấn đề sạch-sẽ vẫn không kém phần quan-trọng chẳng những về phương-diện vệ-sanh mà còn về phương-diện huyền-bí nữa.
Sanh-viên có thể làm một vận-hà để chuyển-di thần-lực của Chơn-Sư cho kẻ khác. Thần-lực nầy theo mười đầu ngón tay, và mười đầu ngón chơn mà ra. Nếu y-phục và thân-thể của Sanh-viên không được sạch-sẽ thì thần-lực nầy sẽ bị nhiễm trược, nó không giúp ích được. Điều nầy không khác nào nước ngon-ngọt trong vắt theo một ống dẫn nước đóng đầy bùn sét mà chảy ra ngoài. Nó sẽ hóa ra đục-ngàu, không thể dùng đặng uống hay nấu ăn được.
Trước khi chấm dứt, tôi xin lập lại những lời khuyên-nhủ của Đức Bà A.BESANT như sau đây :
NHỮNG LỜI KHUYÊN-NHỦ CỦA ĐỨC BÀ A. BESANT :
“Hãy tự kiểm-soát lấy mình một cách chặt-chẽ hơn. Phải nhắm thực-hiện một sự phối-hợp tế-nhị giữa bên trong và bên ngoài, luôn luôn nhận xét một cách cẩn-thận ảnh hưởng của Hạnh-kiểm mình đối với kẻ khác, và hết sức tránh đừng để kẻ thù có dịp thốt ra những lời phi-báng, lăng-mạ”.
Huyền-bí-học không có những kẻ thù khác hơn là những người em non dại trong cái nhà chung, và mỗi người trong chúng ta có bổn-phận đừng cho kẻ khác có cơ hội nói xấu những điều tốt lành của chúng ta, vì chúng ta thiếu tánh thích-nghi với những hoàn-cảnh mà nghiệp-quả chúng ta, hay là ý-muốn của Sư-phụ đặt-để chúng ta vào đó.
Do sự lãnh-đạm của chúng ta đối với cảm-tình của kẻ khác, do tật hay quạo-quọ, giận-dữ của chúng ta trong những việc nhỏ mọn, chúng ta có thể khiến cho họ xa lánh con đường mà chúng ta đương theo đuổi.
Quí huynh hãy tìm những dịp phát-triển các đức tánh mà quí huynh không có, và chắc-chắn quí huynh sẽ gặp những dịp đó. Chính sự tỉm kiếm nầy giúp quí huynh tập-trung thần-trí vào những sự thực-tại,--- trong giữa những tình thế của cuộc đời. Cái trường huấn-luyện và rèn tập quí huynh, chính nó ở trong đời sống của quí huynh. Nếu quí huynh không tìm thấy nó ở trong đó thì quí huynh không còn thấy nó ở đâu nữa. Hãy rán hiểu những nỗi thăng-trầm đã trải qua và hãy lợi-dụng chúng mỗi khi chúng hiện ra. Cứ sau một giai-đoạn làm việc vô cùng bận rộn, lại kế tiếp đến một thời-kỳ nghỉ-ngơi an-tịnh, xa hẳn thế-gian náo-nhiệt. Những kẽ không thông-hiểu, than-phiền về những sự thay đổi nầy. Khi được gọi đi làm việc thì họ nuối-tiếc sự thanh-nhàn nghỉ-ngơi ; được đặt để vào chốn nghĩ-ngơi yên-tịnh thì họ lại đòi hoạt-động.
Người khôn-ngoan thì biết rằng mỗi tình-thế điều có cái giá-trị của nó. Mỗi khi ở vào trong tình-thế nào thì y cố-gắng học hỏi những bài học của tình-thế đó và không mong-mỏi thay đổi hoàn-cảnh. Không bao giờ mong muốn cái điều không có, không xua đuổi cái gì hiện đang có ; đó là cái phương-thức của người Sanh-viên thực-sự học hỏi đời sống.
Hãy lấy công việc Phụng-Sự làm lý-tưởng. Nếu quí huynh học hỏi thì phải mến sự hiểu-biết, nhưng cũng phải học hỏi để dạy-dỗ những ai không biết. Nếu quí huynh Thương-yêu thì hãy thương-yêu người mà quí huynh tận-tâm trìu-mến cho hết lòng, nhưng xin đừng bao giờ quên rằng năng-lực thương-yêu phải lan rộng khắp vạn-vật. Nếu quí huynh làm việc. hãy tìm thấy nguồn vui trong sự hoạt-động có tánh-cách sáng-tạo, nhưng xin hãy coi công việc mình làm như một sự công-tác với THƯỢNG-ĐẾ, Ngài là người thợ duy-nhất cải-thiện thế gian và làm cho nòi-giống tiến-hoá ; nếu không thì sự hiểu biết, lòng sùng Đạo, sự hoạt-động, có thể trở-thành những xiềng-xích, trói chặc quí-huynh vào quyền-lợi của bản-ngã thấp hèn, chớ không còn là những dây liên-lạc, có thể nâng quí huynh lên cao trong bầu không-khí rộng-rãi của Lương-thức cao-siêu.
LÒNG SÙNG-ĐẠO hay là SÙNG-TÍN
Đức Bà A. BESANT nói : “Tôi thường nghe câu hỏi nầy : Tôi phải làm thế nào để phát-triển lòng Sùng-Tín” ?
Sau đây là những lời giải-thích của Bà :
Làm thế nào để phát-triển lòng Sùng-Tín ?
Muốn có lòng Sùng-Tín thì trước nhứt ta phải thương-mến và tận-tâm đối với những bực Trưởng-thượng mà ta gặp trong đời sống hằng ngày. Đó là mầm giống đầu-tiên của một mối cảm-xúc lớn lao hơn nữa sau nầy.
Ta thương-mến mọi người mà ta cảm biết là cao-thượng hơn ta và trau-dồi tình-thương đó cho được trong sạch. Ta hết lòng tìm thế giúp-đỡ người, đủ mọi phương-diện, một cách kín-đáo, không bao giờ trong mong y trả ơn hay là biết ơn, nhưng ta giúp-đỡ vì có lòng thương nên giúp mà thôi. Như thế ta diệt-trừ được ý muốn chiếm-hữu và lòng khao-khát được thụ-hưởng sự đền-bù ; điều nầy làm cho tình-thương trở nên nhơ bợn vì vấy bùn dơ. Ta tìm thế hành-động một cách âm-thầm, không phô-trương cho ai biết rằng mình đã làm điều đó, chỉ vui thích cho ra là đủ rồi.
Vui hưởng tình-thương của người ta báo-đáp lại không phải là một điều quấy hay là có tai-hại. Không ai ngăn cản chúng ta, không cho chúng ta vui thích khi ta gặp lại người mà ta thương yêu : điều nầy không phải là một chuyện ích-kỷ.
Chơn-Sư tỏ ra vui lòng khi Ngài thấy các Đệ-tử thương-yêu và tôn-kính Ngài.
Chính Lòng-thương là món lễ-vật duy-nhứt mà con người có thể dưng lên cho các vị Thượng-Đế. Các Ngài dùng tình-thương nầy vào chỗ nào đâu, nhưng các Ngài vẫn cúi xuống đặng nhận-lãnh nó. Việc nầy không khác nào :
“Làm như mặt trời cần phải cám ơn ta”
“Khi ta để cho ánh-sáng rọi vô nhà”.
Khi chúng ta có thể hy-sinh một cách thung-dung và vui-vẻ như vậy, mặc dầu người ta biết hay không biết, cám ơn hay không cám ơn, thì tới chừng đó, chúng ta không còn sợ lòng thương của kẻ khác biểu-lộ với chúng ta làm cho chúng ta trở nên ích-kỷ. Nhưng mà ngày nào mà chúng ta chưa được như thế thì ngày đó chúng ta nên phân-tách kỹ-lưỡng động-cơ của chúng ta và tìm cách rửa lòng cho trong sạch.
Chúng ta đừng quá lo sợ lòng quá thương yêu nếu nhờ đó mà chúng ta vun-trồng được tình bác-ái vị-tha. Sức mạnh của tình-thương, cũng như tất cả những vật có sự sống, nhờ sự luyện-tập mà phát-triển càng ngày càng nhiều. Trái lại nó sẽ héo mòn nếu nó không hoạt-động.
Chúng ta nhận-thức lần lần Chơn-nhơn nơi những kẻ mà chúng ta thương-yêu ; chúng ta quí trọng Đền-thờ vì lòng ta yêu báu-vật của nó chứa đựng và để chiếu sáng trước mặt chúng ta. Chúng ta sẽ thờ-ơ với cái vỏ bên ngoài để đi đến Con Người nội-tâm, tức là Ngôi thứ Ba (Manas) nhập với Ngôi thứ Nhứt (Atma), xuyên qua Ngôi thứ Nhì (Bouddhi)
Kẻ nào có thể thương-yêu đậm-đà và tận-tụy với một người bạn thì sẽ mở-mang được sự Sùng-Bái cao-thượng khi mà anh gắng-sức đạt được nó. Và anh bắt đầu hiểu được đôi chút về “Chơn-Sư là sao ?” và lòng Sùng-Bái của anh sẽ hướng về Ngài.
PHƯƠNG-PHÁP LUYỆN-TẬP
Vì thế muốn thành một người Bhakta (người sùng đạo hay yêu thương) thì phải Tham-thiền về đấng Chơn-Sư và cố-gắng hình-dung Ngài.
Tình-trạng nầy không nên tự ép buộc cho có được, nó phải nảy-sanh một cách tự nhiên thì Sanh-viên mới tiếp-xúc được với Ngài trong Nội-tâm và Ngài thành ra một sự thật đối với anh.
Tuy-nhiên người ta có thể giúp cho nó phát-triển :
a)---bằng cách Suy-nghĩ đến những đoạn miêu-tả những đức-tánh của đấng Chơn-Sư trong quyển “Tiếng-Nói vô-thinh” (La voix du Silence).
b)---bằng cách Tham-Thiền những đoạn tiết-lộ tư-cách của đấng Shri Krishna (Đức Sư-Phụ lý-tưởng) trong quyển Thánh-kinh Bhagavad Gita.
c)---bằng cách suy nghĩ về nghị lực,
về tánh Dịu-dàng âu-yếm
về đức Minh-Triết,
về lòng Từ-Bi,
tất cả phải tăng-cường đến mức-độ cực-điểm, Hiện Thân nơi người Toàn-Thiện ,
d)---bằng cách duy-trì Trí óc trong trạng-thái yên-tịnh và tìm thế vượt qua Trí-óc với một tấm lòng mong-mỏi nhiệt-liệt để gặp mặt Chơn-Sư.
Sự giao-thiệp và chuyện-trò với những người Sùng-Đạo thường phát-sanh lòng Sùng-Bái. Cũng như một ngọn lửa nầy do một ngọn lửa khác sanh ra, một tâm-hồn nầy nhờ tiếp-xúc với một tâm-hồn khác mà trở nên nhiệt-thành.
Đức Shri Krishna có nói :
“Các bực Hiền-Triết say mê trong sự Sùng-Bái Ta. Trong tinh-thần họ chỉ có Ta mà thôi. Đời sống của họ ẩn-tàng nơi Ta. Người nầy soi sáng người kia, luôn luôn họ nói tới Ta, họ toại lòng và vui-vẻ, ( Bhagavad Gita X, 8-9 ).
Ở Đông-Phương, người ta luôn luôn khuyên nhủ Sanh-viên nên tìm kiếm những bậc Đạo-Đức và nghe những lời Họ nói, để nhờ đó mà khêu gợi một đốm nhỏ yêu-đương và nhiệt-thành cho cháy bừng lên, đặng thành một ngọn lửa to. Chỉ có một Tâm hồn mạnh-mẽ, cương-quyết mới giữ được lòng nhiệt-thành trong cảnh cô-đơn, còn vị Tân Tín-đồ tốt hơn là không nên bỏ qua một cơ-hội nào để tăng-cường nguyện-vọng của mình bằng cách lân-la với những kẻ đồng một chí-hướng.
MỘT PHƯƠNG-PHÁP CHẮC-CHẮN HƠN HẾT
Trong tất cả những phương-pháp để nhen-nhúm lòng Sùng-Bái, có một phương-pháp chắc-chắn hơn hết là :
a)---Tuân theo ý-chí của Chơn-Sư trong đời sống hằng ngày.
b)---Làm tròn nhiệm-vụ như một sự hy-sanh đem hiến-dâng cho Ngài.
c)---Nhận-lảnh mọi sự đau-khổ như : một phương-thế tinh-luyện Phàm-nhơn để được xứng-đáng đứng trước mặt Ngài.
d)---Ra ngoài đời chỉ để thật-hành Ý-chí của Ngài.
f)---Hiến cho Ngài tất cả nghị-lực và quyền năng của mình.
j)---Xem tất cả những sự vui-thích điều vô-vị, khi mà còn một bức màn che khuất không cho ta thấy Ngài.
g)---Và cho mọi công việc để thực-hành Ý-chí của Ngài điều là thú-vị.
Sự Sùng-bái thực-tiễn tuyệt-đối của một Tâm Hồn như thế, lâu ngày sẽ phá tan bức rào dựng lên bởi huyễn-tưởng và vô-minh giữa kẻ Chí-nguyện và Chơn-Sư và tới chừng đó vị Đệ-tử mới biết được cái Hạnh-phúc vượt qua ngoài sức hiểu-biết phàm-tục.
Nhiều người sẽ cho sự miêu-tả trên đây là thái-quá và tình-cảm như thế là quá-đáng.
Đúng vậy, nhưng chúng ta muốn sống một cuộc đời siêu-phàm. Vậy thì mấy vị ấy hãy hấp-thụ giáo-lý về mặt lý-trí tùy theo sức họ, họ hãy sống cách nào cho cao-thượng hơn-hết, họ hãy giữ đúng theo lý-tưởng và thực-hiện một cuộc đời trong sạch và vị-tha, họ sẽ tiến bước một cách thích-đáng với tinh-khí họ. Tuy nhiên, sau nầy có lẽ họ cũng có nguyện-vọng tìm kiếm Lạc-Y, (Anandamayamosha-Robe de Joie) và mặc vào ; (đây là cách nói bóng-dáng về một trạng-thái tinh-thần thuộc về cõi Bồ-Đề hay là Kim-Thân). Dầu sao họ cứ đi theo con đường thích-hợp nhất với họ, nhưng mà họ chớ khiển-trách hay khinh-bỉ những Huynh-Đệ theo đuổi con đường Sùng-Bái.
Tất cả chúng ta điều có vài điều có thể đem dạy lại kẻ khác mà trái lại cũng còn có nhiều điều cần phải học hỏi thêm nữa và đức Khoan-dung là một trong những đức-tánh mà kẻ Chí-nguyện là Đệ-tử phải có.
HAI MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN
Có hai mẫu người Sùng-Tín :
a)---Mẩu thứ nhứt là những người Sùng-Tín thụ-động.
b)---Mẩu thứ nhì là những người Sùng-Tín hoạt-động.
Đặc-tính chung của hai mẫu nầy là : Lòng mến-yêu tập-trung về Đấng mà họ tôn sùng thờ-phượng. Tuy-nhiên họ khác nhau về điểm nầy : người thụ-động cảm-thấy một niềm vui triệt-để trong sự chiêm-ngưỡng. Còn người hoạt-động thấy một sự vô-cùng vui vẻ trong công việc phụng-sự Đấng mình tôn-sùng. Hai hạng người nầy điều có thể là những người thông-minh, nhưng sự thông minh nầy luôn luôn phụ thuộc vào cái năng-khiếu chánh-yếu là tôn-sùng.
Ở nơi họ, cội rễ của đời sống ở trong trái tim chớ không phải ở trong trí óc. Họ sống trong những mối cảm-xúc của họ. Họ tiến lên cao bằng Trực-giác chớ không phải bằng sự Hành-động hay là Ý-chí.
I
MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN THỤ-ĐỘNG
Người ta thường gặp những người Sùng-tín thụ-động ở Ấn-Độ hay là trong nhóm người Thần-bí của cơ Đốc giáo.
Người Sùng-tín Ấn-Độ tham-thiền hằng giờ trong niềm hoan-hỉ cực-lạc. Họ lìa xa quả Địa-cầu vì họ tập-trung tư-tưởng vào Thượng-Đế hay là Sư-Phụ họ. Không bao giờ họ tách rời các Ngài ra khỏi sự tôn-sùng của họ vì Sư-Phụ hợp-nhứt với Thượng-Đế và Thượng-Đế sáng-chói nơi Sư-Phụ. Đời sống của họ là chiêm-ngưỡng, tôn-sùng và ca-ngợi, xưng-tụng trong trạng-thái xuất-thần. Đối với những người ở chung-quanh thì họ dịu-dàng, âu-yếm hay chìu-chuộng, hay giúp-đỡ, luôn luôn sẵn-sàng dìu-dắt. Đó là những vị Thánh và những nhà Thần-bí. Họ tự coi như quá đỗi hèn-mọn để cảm được cái niềm vui càng mãnh liệt hơn khi họ chiêm-ngưỡng Chúa họ, khi họ quì dưới chơn Ngài.
Những Dòng tu kín trầm-mặc của Cơ-Đốc-giáo La-mã, lấy một tấm lòng Sùng-Đạo như thế làm lý-tưởng, vì họ cũng muốn chịu-đựng trong sự kín-đáo những tội-lổi và đau-khổ của thế gian. Họ đem nước Cam Lồ tưới cho tất cả những vết thương mà không muốn cho những người được họ săn-sóc trong cảnh-giới tinh-thần, thiêng-liêng biết đến họ.
Mong rằng không một ai coi thường sự hy-sanh của họ, khinh-khi cách phụng sự của họ. Tất cả những người như thế trong các cấp bực, trong các Tôn-giáo, ở khắp mọi nơi hợp-thành một cơ-quan duy-nhất. Đó là Trái-Tim của lòng Sùng-Tín Thuần-khiết và cần-thiết cho đời sống Tinh-thần của thế-gian.
II
MẨU NGƯỜI SÙNG-TÍN HOẠT-ĐỘNG
Hạng người nầy chia sớt với người Sùng-Tín thụ-động sự cần phải chiêm-ngưỡng trong sự trầm-lặng Đấng mà họ thờ-phụng, nhưng họ coi đó như là một sự nghỉ ngơi, một niềm khuyến-khích.
Người Sùng-Tín hoạt-động không muốn ở mãi trong đền-thờ, nhưng thỉnh-thoảng tới đây :
a---để tìm cảm-hứng và niềm an-ủi trong các bóng tối mát-mẻ của những cửa tò vò hình vòng cung.
b---trong những hương-thơm của trầm nhang.
c---trong những điệu du-dương của âm-nhạc.
d---và nhất là trong sự hiện-diện của Đấng Thiêng-liêng. Ngài thấm-nhuần mọi vật, khiến cho :
Bóng tối được mát-mẻ,
Trầm nhang được thơm ngát,
Âm-nhạc có uy-lực phấn-khởi lòng người.
Nhưng nếu cần tới thời-kỳ nghỉ-ngơi yên-tịnh như thế thì : cái cách tự phát-biểu cao-cả của anh, cái niềm vui sâu-kín nhứt của anh là thực-hiện ý muốn của Đấng mà anh thờ-phượng mến-yêu :
---trong một sự cộng-tác tràn đầy nhiệt-tâm hoan-hỉ với Ngài.
---trong cái cảm-giác được Hợp-Nhất với Ngài ;
---được trở nên một phần-tử của Đấng Cao-cả mà anh mến-yêu.
Nếu mà họ sống trong thời-đại mà người ta hành-hà và ngược-đãi những người khác Đạo thì họ vừa đi, vừa ca hát khi lên giàn hỏa, không có một chúc chi nao-núng. Họ tử vì Đạo mà không hề nhận-thức được cái trạng-thái hấp-hối lâm-chung của mình trong một niềm vui xuất-thần được hiệp-nhứt với Chúa mình.
LÚC ĐẦU-TIÊN HỌ LÀ NHỮNG NGƯỜI THẾ NÀO ?
Lúc đầu-tiên họ là những người có niềm âu-yếm mãnh-liệt, có bản-tính quyến-luyến. Khi còn là trẻ thơ, họ yêu-mến tôn-thờ một người bạn lớn hơn nhưng thường ở rất xa. Một lời nói, một nụ cười của người bạn làm trái tim họ rộn-rực vì sung-sướng. Tuy không biết gì về điều nầy cả, họ sẽ được Chơn-nhơn của họ dẫn họ đến công việc và cách giải-trí làm phát-triển những đức-tánh cần-thiết sau nầy, hiện giờ còn ẩn-tàng nơi họ.
Khi lý-tưởng của họ thay đổi thì chính họ cũng thay đổi, lý-tưởng của họ phụng-sự cái gì thì họ cũng tìm cách phụng-sự cái nấy.
CÁC HÀNH-ĐỘNG CỦA HỌ
Mắt luôn luôn châm-chú nhìn Đấng mà họ thờ-phượng, sùng-bái ; họ lấy làm vinh-hạnh mà bắt-chước Ngài, không phải trở nên cao cả, nhưng mà để giống hệt Đấng mà họ thờ-phượng.
Sau cùng, cái lý-tưởng thật-sự của họ bắt đầu ban rải ánh-sáng lên họ, tuy rằng cái mặt thực của lý-tưởng hãy còn bị giấu-kín.
Họ sẽ dần-dần biết được những đức-tánh cần-thiết cho người Đệ-tử và cố-gắng hoạch-đắc chúng. Họ nóng lòng đi trên con đường Đạo để đến gần Sư-Phụ và theo khăn-khít những bước chơn của Ngài đi.
Họ không lưu-tâm đến sự thâu-nhận những Môn-đồ nếu không phải là để dắt-dẫn mấy người nầy đến một sự vinh-quang hơn địa-vị hiện thời của chúng.
Họ muốn có ý-chí, muốn có sự hiểu-biết, nhưng luôn luôn để tặng sự vinh-quang của Chúa họ, để Phụng-sự Ngài một cách đắc-lực hơn và để được Hiệp-nhứt hơn với đời sống của Ngài. Mỗi sự hoạch-đắc của họ đều được coi như là một phương-tiện để thờ-phượng chớ không có một giá trị nào khác.
Họ tiếp đón nồng-nhiệt mỗi người Tân Tín-Đồ, vì đó là thêm được một người đến thờ-phượng trước bàn-thờ của Đấng mà họ mến-yêu tôn-kính.
Lòng ích-kỷ, tánh ganh-ghét, sự độc-quyền, các tật xấu đó trong tình-yêu thuộc về cảnh-giới thấp sẽ tiêu tan trong cái ý-muốn nồng-nhiệt làm cho mọi người biết đến sự tôn-sùng Ngài, thờ-phượng Ngài. Giống như con chim sơn-ca, trong khi lao mình bay vút lên trời xanh, cho trái đất dưới thấp biết được vẻ huy-hoàng của vầng Thái-Dương không bị mây che phủ, người Sùng-tín xưng-tụng, ca-ngợi cái vinh-quang của Thần-Tuợng mình, kêu gọi những kẻ khác, dầu ở quốc-gia nào, ở Tôn-giáo nào, ở giai cấp nào, đến chiêm-ngưỡng sự vinh-quang biểu-lộ của Chúa y giáng-lâm trong một hình-hài, để tới nhập học với y mà ca-ngợi và xưng-tụng Đức Thượng-Đế giáng-lâm.
CON ĐƯỜNG SÙNG-TÍN DẮT ĐI ĐẾN ĐÂU ?
Con đường Sùng-tín thường dất-dẫn những khách lữ-hành đi trên đó đến Khu-bộ của những vị Giáo-chủ nhân-loại mà vị Thủ-lãnh là Đức Bồ-Tát, Đức Bồ-Tát hiện-kim, các đức Chơn-Sư K.H., D.K. và Jésus.. đã theo con đường nầy. Đức K.H. sẽ thành vị Bồ-Tát vị-lai, tức là vị Bồ-Tát của giống dân chánh thứ sáu, trong sáu, bảy trăm-năm nữa. Đó cũng là con đường của đức Jinarajadasa, của đức G.S. Arundale và của Alcyone.
Cũng có vị đã thành-đạo hoạt-động dưới sự điều-khiển của các vị Nirmanakayas và gia-nhập vào cấp bực của các Ngài, luôn-luôn tuôn thần-lực vào cho đầy những Kho dự-trữ thiêng-liêng, để cho những người làm việc sốt-sắng tới đó lấy những phương-tiện để cứu-giúp nhơn-loại. Các Ngài là những tia-sáng mặt trời, những làn mưa dịu-dàng khiến cho thế-giới tinh-thần đâm chồi nẩy lộc, những vị trầm-tĩnh ban phước lành cho khẻ khác, và cũng được kẻ khác ca-tụng công-đức.
Nhiều vị Đệ-tử Phật thuở xưa đã gia-nhập vào hàng-ngũ của những vị Nirmanakayas.