PHÂN TÍCH BÀI “TRÀNG GIANG” – CHU VĂN SƠN
MÊNH MÔNG, QUẠNH HIU VÀ TRÔI CHẢY
(VỀ BÀI TRÀNG GIANG CỦA HUY CẬN)
CHU VĂN SƠN
1. Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang đưa ta đến những sông hồ, bờ bãi, biển cồn, núi cao, đèo dốc những không gian trời nước mênh mông. Nghĩa là ta sẽ phải đối diện với cái vô cùng vô tận của không gian, cái vô thuỷ vô chung của thời gian. Khi ấy, ngay cả những người vô tâm nhất cũng không tránh khỏi cảm giác cô đơn. Bởi người ta thấy rõ hơn bao giờ hết rằng con người thật là nhỏ nhoi, kiếp người chỉ là thoáng chốc. Đời người sao quá phù du! Ta bỗng thấy mình như đang bơ vơ lưu lạc giữa cái mênh mông của đất trời, trôi nổi trong cái xa vắng, rợn ngợp của dòng thời gian. Ta bỗng thấy chơi vơi giữa thế gian này!… ấy là lúc có thể đọc thơ Huy Cận. Bởi đó là thế giới của Lửa thiêng, thế giới của Tràng giang. Thi sĩ đã cất lên giùm ta cái cảm xúc thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu đó.
Ngày trước, để bênh vực cho bài Tràng giang (cũng là bênh vực cho Thơ Mới!) người ta đã phải viện ra cái kỉ niệm của một chiến sĩ nào đó mà rằng: một người cách mạng như thế cũng rất yêu hai câu đầu của bài Tràng giang, vậy là bài thơ này hoàn toàn lành mạnh, mỗi buồn ở đấy là trong sáng, chứ không có hại gì! Rồi ngay cả Xuân Diệu cũng phải lập cả một hàng rào che quanh để bênh vực cho lòng yêu thiên nhiên của bài thơ. Không, lòng yêu thiên nhiên tạo vật tự nó là một giá trị, ngang hàng với những tình yêu khác. Lòng yêu thiên nhiên là một cảm xúc thuộc về nhân tính. Tự nó không cần bảo vệ!
Tràng giang không nhất thiết phải là sông Hồng, sông Cửu Long, có thể là Hoàng Hà, Hằng Hà, Vonga, Dương Tử… cũng được chứ sao. Tràng giang là một tạo vật thiên nhiên. Nó có thể được gợi ý, gợi tứ từ sông Hồng, từ một chỗ đứng xác định là bến Chèm. Nhưng khi đã thành hình tượng “Tràng giang” thì nó đã khước từ mọi địa danh cụ thể để trở thành một tạo vật thiên nhiên phổ quát rồi. Tràng Giang trước hết là thơ tạo vật, sau đó mới là thơ đất nước. Vì thế, lòng yêu của thi sĩ trong đó trước hết là một lòng yêu dành cho thiên nhiên tạo vật! Chừng ấy chưa đủ làm nên một thi phẩm tầm vóc hay sao !
2. Cảm hứng của bài thơ quả là cảm hứng không gian. Không gian được trải ra từ mặt sông lên tận chót vót đỉnh trời, không gian được mở ra từ thẳm sâu vũ trụ vào tận thăm thẳm tâm linh con người. ấy là một thế giới vừa được nhìn bằng sự chiêm nghiệm cổ điển, vừa được cảm nhận bằng tâm thế cô đơn của một cái “tôi” hiện đại, rất đặc trưng cho Thơ Mới. Có lẽ vì thế chăng mà Tràng giang hiện ra như một bức tranh tạo vật trường cửu, lớn lao, vừa hoang sơ, vừa cổ kính, trong đó thi sĩ hiện lên như một lữ thứ đơn độc lạc loài?
Trước hết, không gian Tràng giang thuộc về mênh mông vô biên.
Ngay cái tên bài thơ đã như một cửa ngõ mở vào vô biên rồi[1]. Tràng giang gợi ra hình tượng một con sông chảy mênh mang giữa trời đất. Và câu đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, tuy vẫn còn nằm ngoài văn bản, nhưng nó đã như một bức rèm môi giới ta với vô tận, mà người đọc cần vén lên ; hoặc như một hành lang mở thông vào vô biên, mà người đọc cần dấn bước.
Dầu sao, những hình ảnh sống động của một thế giới có thể cảm nhận hoàn toàn trực quan chỉ thực sự mở ra với những câu đầu:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Có lẽ cái chất thơ của sông nước đã nhập vào những câu thế này để phô bày vẻ đẹp của nó. Câu thứ nhất tả sóng, câu thứ hai tả những dòng trôi, những luồng nước trên mặt sông. Nếu câu thứ nhất gợi được những vòng sóng đang loang ra, lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước cứ song song, rong ruổi mãi về cuối trời. Không gian vừa mở ra bề rộng, vừa vươn theo chiều dài. Đúng là nó có thấp thoáng âm hưởng hai câu thơ cũng tả sông nước trong bài Đăng cao nổi tiếng của Đỗ Phủ:
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận trường giang cổn cổn lai.
(Ngàn cây bát ngát, lá rụng xào xạc
Dòng sông dằng dặc, nước cuồn cuộn trôi.)
Cũng là đối xứng, nhưng Đỗ Phủ viết theo lối đối chọi, còn Huy Cận – có cải biên, chỉ dùng tương xứng thôi. Cũng dùng những từ láy nguyên để gợi tả, trong khi tác giả Đăng cao đặt ở giữa câu, thì tác giả Tràng giang lại đẩy xuống cuối câu[2]. Nhờ thế hai từ láy nguyên điệp điệp và song song tạo ra được dư ba. Nghĩa là lời thơ đã ngừng mà ý hướng và âm hưởng vẫn còn vang vọng như dội mãi vào vô biên. Dòng sông lớn mang trong lòng mỗi nỗi buồn lớn!
Suốt dọc bài thơ, Huy Cận còn dày công khắc hoạ vẻ mênh mông vô biên bằng biết bao chi tiết giàu tính nghệ thuật nữa. Vừa dùng cái lớn lao để gợi sự mênh mông, vừa dùng cái hữu hạn để gợi sự vô cùng. ấy là hàng trăm ngả sông, bao cồn đất, bao bờ xanh, bãi vàng, lớp lớp mây cao đùn núi bạc, ấy là một cành củi khô, một bóng chim nhỏ… Nhưng có lẽ bức tranh vô biên của Tràng giang đạt đến tận cùng là ở hai câu này:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu.
Câu trên là sự vô biên được mở về chiều cao. Câu dưới là sự vô biên về cả bề rộng và chiều dài. Có một khoảng không gian đang giãn nở ra trong cụm từ: “Nắng xuống, trời lên”. Hai động từ ngược hướng lên và xuống đem lại một cảm giác chuyển động rất rõ rệt. Nắng xuống đến đâu, trời lên đến đó. Và nó được hoàn tất bởi cụm từ “sâu chót vót”. Có cái gì như phi lí! Có lẽ không chịu được vẻ phi lí mà có nhiều người đã cố tình in và viết thành “sầu chót vót” để dễ hình dung hơn. Tiếc rằng, chính “sâu” mới là sự xuất thần của hồn thơ. Đây không phải là sự lạ hoá ngôn từ. Nếu có, thì trước hết là sự lạ hoá trong cách nhìn, trong cảm giác. ánh mắt tác giả không dùng lại ở đỉnh trời một cách thường tình để nhận biết về chiều cao, mà nó như xuyên vào đáy vũ trụ để cảm nhận về chiều sâu. Song, dầu sao, đây vẫn là chiều sâu của một cái nhìn ngước lên. Cho nên, mới là “sâu chót vót”. Chót vót vốn là một từ láy độc quyền của chiều cao, bỗng phát huy một hiệu quả không ngờ. Nó còn gợi sắc thái chưa hoàn tất. Dường như cái nhìn của thi sĩ vươn tới đâu thì trời sẽ sâu tới đó, mỗi lúc một chót vót hơn. Vừa tương xứng vừa hô ứng với câu trên, câu thứ hai mở ra bát ngát, tít tắp. Câu thơ được viết giản dị, không chữ nào lạ, ngỡ như chỉ là sự sắp xếp các chiều kích của tràng giang, thế thôi! Vậy mà thấy động. Các trạng thái tĩnh, các tình từ dường như “cựa quậy” đòi động từ hoá. Trong áp lực của cái nhìn xa hút, có cảm giác “sông dài”(ra) trời rộng (thêm) bến cô liêu (đi) vậy!
Thật lạ là, không có chữ nào lạ hoá, mà vẫn mới lạ. Thế mới biết, cái mới lạ chân chính trong nghệ thuật chỉ có thể bắt nguồn từ cái mới lạ của cảm xúc.
3. Tràng giang còn là một cõi quạnh hiu hoang vắng.
Là một người thuộc lớp Tây học, nhưng tâm hồn tác giả Lửa thiêng lại thấm đẫm Đường thi, nên không gian Tràng giang cứ lãng đãng thơ Đường. Thơ cổ Trung Hoa thật tinh diệu trong việc diễn tả cái trạng thái tĩnh của thế giới. Có lẽ vì triết học nơi đây đã quan niệm tĩnh là gốc của động, tĩnh là cội nguồn của thế giới? Cùng với nó, tĩnh tại và thanh vắng cũng trở thành một tiêu chuẩn mĩ học phổ biến của cái đẹp trong thiên nhiên và nghệ thuật về thiên nhiên. Tái tạo cái tĩnh vắng mênh mông trong nghệ thuật được xem là tái tạo hư không – một hư không chứa đầy âm nhạc, chứ không phải hư không trống rỗng. Huy Cận cũng tái tạo như thế, nhưng thi sĩ muốn đi xa hơn. Cái thanh vắng của thơ xưa được cảm nhận bằng sự an nhiên tự tại. Còn sự trống vắng của Tràng giang lại là một thế giới quạnh hiu, cơ hồ tuyệt đối hoang vắng. Đối diện với không gian vô biên, trống trải, cái tôi ấy đi tìm kiếm sự cảm thông của đồng loại. Nhưng con người hoàn toàn vắng bóng.
Đúng ra, con người có thoáng hiện ra trong hình bóng chiếc thuyền ở đầu bài thơ. Một con thuyền “xuôi mái”, thụ động buông trôi trên dòng nước luân lạc. Và nó cũng chỉ hiện ra thoáng chốc, rồi sau đó nép mình vào bờ bãi nào mà mất hút trên sông nước, trả lại không gian cho sự ngự trị của muôn ngả sông, nghìn luồng sóng:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Khát thèm âm thanh của cuộc sống người, thi sĩ lắng nghe, không dám mơ đến thứ âm thanh náo động vui tươi, chỉ mong gặp thứ âm thanh xoàng xĩnh nhất, buồn chán nhất của cuộc sống người, thế mà cũng không có:
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Chữ “đâu” ở đầu câu có thể hiểu là từ chỉ nơi chốn với nghĩa là “đâu đó”. Cũng có thể hiểu là từ phủ định với nghĩa là “đâu có”. Dù theo nghĩa nào thì nó cũng nhằm nói đến cuộc sống tan rã, một đằng thì đã vắng bóng, một đằng thì đang vắng bóng mà thôi. Rồi cả những phương tiện giao lưu gợi sự có mặt của con người cũng không hề có:
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Và sự phủ định cuối cùng: “ Không khói hoàng hôn…”. Vậy là ở đây không còn là cái thanh vắng của “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén / Ngày vắng xem hoa bợ cây” (Nguyễn Trãi), “Lác đác bên sông chợ mấy nhà” (Bà huyện Thanh Quan), hay “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo” (Nguyễn Khuyến) nữa. Tràng giang hiện ra như một thế giới hoang sơ. Có lẽ từ thuở khai thiên lập địa đến giờ vẫn thế. Thi sĩ như một kẻ lữ thứ lạc vào giữa một hoang đảo. Trơ trọi, cô đơn đến tuyệt đối. Và nỗi nhớ nhà dâng lên như một tiếng gọi tự nhiên. Đứng trước cảnh này, hơn nghìn năm trước Thôi Hiệu cũng chạnh lòng nhớ quê:
Nhật mộ hương quan hà xứ thị?
Yên ba giang thượng sử nhân sầu
(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)
(Tản Đà dịch)
Có lẽ đó là nỗi hoài hương của lòng sầu xứ chợt dâng lên trong hồn kẻ xa quê. Và nó cần có khói sóng để làm duyên cớ. Nỗi nhớ của tác giả Tràng giang dường như mang sẵn, nên chả thấy viện đến thứ khói nào làm duyên cớ. Chừng như, nhớ nhà là cách duy nhất để vượt thoát, để trốn chạy nỗi cô đơn cố hữu mà thôi:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Dòng sông chảy mênh mang giữa trời đất đến đây như bỗng dội lên những tiếng sóng khác: tiếng sóng của lòng quê! Hay chính lòng quê cũng đang xao xuyến dâng lên để thành một dòng tràng giang của tâm hồn mà nhập vào tràng giang của trời đất?
4. Đứng trước những dòng sông lớn, ta có cảm tưởng như đang đối diện với sự trường tồn, trường cửu. Nghìn năm trước khi chưa có ta, nó vẫn chảy thế này. Nghìn năm sau, khi ta đã tan biến khỏi mặt đất này, nó vẫn chảy thế kia. Tràng gian vẫn điềm nhiên dửng dưng không thèm biết đến sự có mặt của con người. Sự lặng lẽ của tràng giang là miên viễn. Đứng bên dòng sông lớn, hãy lắng nghe nhịp triều miên viễn mênh mang. Nó là nhịp của vĩnh hằng, nhịp của vũ trụ. Và, tôi muốn nói đến một đặc sắc khó thấy hơn của Tràng Giang nói riêng và Lửa thiêng nói chung : hình như Huy Cận đã nghe thấy và đã chuyển được nhịp chảy trôi miên viễn ấy vào trong âm hưởng của bài thơ.
Huy Cận đã thể hiện điều đó bằng thứ âm vang lạ lùng của chữ nghĩa. Mà chủ yếu là nhờ sự âm vang của các yếu tố lặp và trùng điệp. Hãy chú ý đến những từ láy, nhất là láy nguyên. Đâu phải ngẫu nhiên thi phẩm có mật độ từ láy nguyên dày đến vậy : điệp điệp, song song, lớp lớp, dợn dợn,… ẩn hiện trong toàn bài. Chúng không chỉ gợi được dáng nét – dáng nét đường bệ, mà còn gợi được nhịp chuyển động – chuyển động triền miên. Rồi, những cặp câu tương xứng như trùng lặp, nối tiếp nhau, đuổi nhau không ngừng nghỉ: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp// Con thuyền xuôi mái nước song song”, “Nắng xuống/ trời lên/ sâu chót vót – Sông dài/ trời rộng/ bến cô liêu”. Trong đó, các vế câu vừa cắt rời, vừa kết nối liên tiếp như một chuỗi dài cũng đã góp phần tạo ra nhịp chảy trôi, rong ruổi, miên man. Rồi rải rác các vế chỗ này nối, chỗ kia tiếp : “hàng nối hàng”, “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”… Hàng nối hàng, bờ tiếp bờ, tất cả phụ hoạ hô ứng lẫn nhau cứ song song, điệp điệp, cứ nối nối, tiếp tiếp không cùng… khi hiện thành câu chữ, khi chìm trong âm vang. Tất cả những yếu tố ấy như những bè khác nhau, kết lại với nhau tạo thành một âm hưởng cứ ngầm chảy đây đó trong bài thơ: âm hưởng trôi xuôi bất tận. Phải chăng đó là cái nhịp trôi âm thầm về phía hư vô không thể cưỡng được của cõi thế này ? Có thể nói đây là thứ âm hưởng vừa nằm trong vừa nằm ngoài ngôn ngữ, nó vừa thuộc ý thức vừa thuộc về vô thức của người làm thơ. Tôi cho đây là một trong những chỗ vi diệu nhất của thi phẩm này. Nó khiến cho ta có một cảm tưởng thật rõ rệt : cái mặt bằng chữ nghĩa của cả bài thơ cũng như đang chuyển động xuôi dòng. Dòng tràng giang không chỉ chảy trong không gian, mà còn chảy trong thời gian… Từ thuở khai thiên lập địa, sông chảy miết qua các thời đại mà về đây! Phải chăng đây là chiều thứ tư đầy mơ hồ và hư ảo của không gian Tràng giang?
Tôi đọc bài thơ bao nhiêu lần và không sao xoá được khỏi lòng mình cái cảm giác bâng quơ này: mình là cái cành củi khô luân lạc trên dòng tràng giàng kia hay mình là cánh chim nhỏ lạc lõng dưới lớp lớp mây cao đùn núi bạc đó!… Nó là cảm tưởng của một đứa trẻ? Mà dường như cũng là của một người già ? Bởi vì Tràng giang là dòng sông mà cũng là dòng đời chăng ?
(In trong Phân tích và bình giảng tác phẩm văn học lớp 11, nhiều tác giả, Nxb GD, 2007.)
[1] Xuân Diệu đã rất tinh khi so sánh chữ “trường” và “tràng” để thấy: “trường” chỉ có nghĩa là dài, còn “tràng” do “ang” là một âm mở rộng nên gợi được cả dài lẫn rộng. Thế nghĩa là lớn. Ứng với hình tượng một con sông lớn
[2] Đây không chỉ đơn thuần là sự khác nhau trong kết cấu chính-phụ giữa tiếng Việt và tiếng Hán.