Chương Sáu
MỘT CHUYẾN ĐI LÊN MIỀN BẮC
Trong chuyến đi lên miền Bắc, chúng tôi có dịp đến bờ sông Jumna để viếng thăm một nhà tu khổ hạnh tên Babu Surdass, một đệ tử của Đạo Sư Nanak. Người ấy đã thể hiện đến một trình độ tuyệt luân những khả năng làm chủ thể xác với một ý chí kiên cường không hề lay chuyển.
Kể từ năm 1827, tức là trong năm mươi hai năm trường, y đã ngồi yên một chỗ trong tư thế tọa thiền trên một cái bệ đá ở gần pháo đài, trên đầu không một mái che, bất chấp mọi sự thay đổi thời tiết, nóng, lạnh, mưa gió, và giông tố, bão bùng. Y vẫn ngồi nhập định như thế trải qua suốt thời kỳ nội chiến, do quân bổn xứ nổi loạn chống giai cấp thống trị người Anh, không màng chú ý đến những tiếng nổ kinh hồn của những khẩu thần công đại bác, hay những trận giao phong đẫm máu diễn ra khắp nơi ở các vùng chung quanh: những tiếng động ồn ào náo loạn của chiến tranh vẫn không thể xâm nhập vào cõi giới thiền định thâm sâu mà trong đó y đã chôn vùi suốt cả cuộc đời.
Ngày chúng tôi đến viếng là một ngày nóng như thiêu đốt, ngôi mặt trời cháy rực như lửa than hồng, người tu sĩ vẫn để đầu trần nhưng dường như không cảm thấy gì là khó chịu. Y vẫn ngồi yên bất động suốt ngày và suốt đêm ở một chỗ ấy, trừ ra vào lúc nửa đêm, khi ấy y mới đứng dậy và đi đến chỗ gặp nhau giữa hai con sông Hằng và sông Jumna để tắm rửa và cầu nguyện. Những nỗi gian lao khổ nhọc của phép tu khổ hạnh ấy đã làm cho y trở nên mù cả hai mắt, và phải có người dắt y đi đến bờ sông, tuy nhiên gương mặt y toát ra một niềm an lạc tuyệt vời, với một nụ cười dịu dàng và chân thật.
Do Mulji làm thông ngôn, chúng tôi nói chuyện với nhà tu sĩ già. Người cho chúng tôi biết rằng người đã có một trăm tuổi, điều nầy có thật hay không cũng không quan hệ gì, nhưng còn thời gian mà người đã trải qua trên bực đá, vốn là một vấn đề lịch sử. Trường hợp của người tu sĩ nầy quả thật là ly kỳ độc đáo, xét theo tiêu chuẩn đời sống của xã hôi phương Tây: làm sao y có thể ngồi yên bất động, trong sự tham thiền quán tưởng trải qua một nửa thế kỷ giữa những dục vọng, đam mê và náo loạn của loài người luôn luôn xuẩn động ồ ạt ở xung quanh, nhưng hoàn toàn bất lực không có ảnh hưởng gì đến y, dù tốt hay xấu, cũng ví như những đợt sóng cồn gầm thét lăn xả vào một ghềnh đá trên bờ biển nhưng tuyệt nhiên không thể làm rung chuyển cái nền tảng vững chắc của nó.
Câu chuyện của y cũng có hàm xúc vài nét thi vị, chẳng hạn như khi y nói rằng bậc hiền giả nhận định và nắm vững những điểm Chân Lý cũng giống như con sò hấp thụ một giọt nước mưa để chuyển hóa nó thành một hạt trân châu. Y vẫn điềm nhiên khi tôi nói cho y biết sự thật về vấn đề cấu tạo nên hạt trân châu, nhưng y nói rằng khoa học nói sai, và vẫn giữ lập trường của mình. Trích dẫn lời dạy quen thuộc trong các Thánh Kinh Ấn Độ, y nhắc nhở chúng tôi rằng chỉ khi nào tâm hồn yên tịnh, thần trí vắng lặng hư không, người ta mới có thể nhận thấy Chân Lý, cũng ví như hình ảnh của Mặt Trời chỉ có thể thấy được trên mặt nước phẳng lặng êm đềm.
Còn nói về những tai biến, hoạn nạn nghịch cảnh trong đời người, thì kinh nghiệm về những điều đó làm thức động cái phần tinh anh tế nhị của linh hồn, cũng ví như chất dầu thơm chỉ có được bằng cách nghiền nát và chế biến những cánh hoa tươi.
Khi được hỏi rằng y có thể biểu diễn phép thuật thần thông chăng cho chúng tôi xem, thì y day cặp mắt trống rỗng không còn thị giác của y lại người hỏi, và đáp rằng người hiền giả không bao giờ tách rời tâm trí của mình ra ngoài đường Đạo và để cho bị lôi cuốn bởi những trò chơi đó của những kẻ ngu dốt.
Khi ở trong tâm trạng thích nghi, y có khả năng nhìn thấu suốt dĩ vãng và tương lai, nhưng y từ chối không chịu cho chúng tôi thấy bằng chứng cụ thể về năng khiếu thần nhãn của y.Kể từ khi đó về sau, mỗi khi có dịp trở lại Allahabad, tôi đều đến thăm viếng nhà tu khổ hạnh nầy, nhưng trong lần vừa qua, tôi nghe nói rằng y đã từ trần. Thật là một điều lý thú nhất nếu người ta được biết cuộc đời trường kỳ khổ hạnh của y đã ảnh hưởng tới mức độ nào đến tình trạng tâm thức của y bên kia cửa Tử.
Từ đó, chúng tôi tiếp tục chuyến đi đến Kanpur, tại đây chúng tôi gặp người bạn mới là hai anh em ông Ross Scott và Walter Scott, người anh là một kỹ sư làm việc trong chính phủ. Sáng ngày hôm sau, chúng tôi đến viếng một tu sĩ khổ hạnh khác, người nầy đã từng sống trên bờ sông Hằng độ chừng một năm. Y có một gương mặt với những nét thanh tú, biểu lộ một đời sống tinh thần dồi dào, một thân mình gầy ốm, và một phong độ hoàn toàn thản nhiên đối với những sự vật trần gian. Người nầy cũng từ chối không biểu diễn cho chúng tôi xem những hiện tượng thần thông, với một vẻ mặt dường như khinh bỉ. Thật hiển nhiên là những tu sĩ Ấn Độ nầy có một lập trường khác hẳn với quan niệm của người Tây Phương, và khinh thường những phép thuật nhiệm mầu nhất của những đồng tử giỏi nhất của chúng ta. Dù sao, đó là cảm nghĩ của tôi.
Tuy nhiên, y nói cho chúng tôi nghe chuyện một nhà tu khổ hạnh khác tên là Jungli Shah, ông nầy đã nhiều lần làm phép lạ theo kiểu “Bánh mì và cá” nói trong Kinh Thánh, bằng cách làm gia tăng số lượng thực phẩm của một người đến mức có thể làm cho hàng trăm người ăn được một bữa no nê.
Kể từ khi dó, tôi đã nhiều lần nghe nói có những tu sĩ Ấn Độ khác cũng đã làm những phép lạ tương tự. Những nhà phương sĩ lão luyện đều nói rằng thật là một điều tương đối dễ dàng mà làm tăng số lượng một vật giản dị đơn thuần, chẳng hạn như hột gạo, một trái cây, một ly nước lạnh v.v… điều kiện cần thiết là phải có một trung tâm hạt nhân để cho hành giả có thể quy tựu chung quanh nó chất liệu của không gian.
Nhưng tôi muốn biết phải chăng sự gia tăng số lượng thực phẩm đó chỉ là những ảo giác, và nếu không phải như vậy, thì những ngưới ăn những thực phẩm mầu nhiệm ấy có được bổ dưỡng hay không?
Tôi còn nhớ giáo sư Berheim đã cho tôi thấy rằng bằng phương pháp thôi miên, ông có thể làm cho một đối tượng trong một lúc cảm thấy bụng no tràn đầy thức ăn, và một lúc sau đó y cảm thấy bao tử trống rỗng và đói kinh khủng. Người tu sĩ trẻ nói trên cũng cho biết rằng nhà đạo sĩ Lukhi Bawa và một tu sĩ khổ hạnh khác có quyền năng làm cho nước biến thành sữa.
Lúc ba giờ chiều hôm ấy, chúng tôi cưỡi voi đi viếng Jajmow, một thành phố cổ hoang tàn ở cách Kanpur bốn dặm, tương truyền rằng đó là kinh đô của chủng tộc Thái Âm(Lunar Race) hồi thời kỳ năm ngàn năm trăm trước Công Nguyên. Mục đích chuyến đi nầy là viếng thăm nhà Đạo Sĩ Lukhi Bawa đã nói ở trên. Chúng tôi nhận thấy nhà Đạo Sĩ nầy có một tác phong khả kính, y là một triết gia và một nhà chiêm tinh lỗi lạc. Một lần nữa, chúng tôi cũng lại bị từ chối sự biểu diễn phép thuật thần thông, khi chúng tôi bày tỏ ý muốn được xem y thi thố quyền năng nhiệm mầu. Đại khái, đó là khía cạnh nghiêm chỉnh của chuyến đi nầy, nhưng ngoài ra nó cũng có một khía cạnh trào lộng rất buồn cười của nó.
Con voi của chúng tôi cưỡi có cái tên rất thi vị là Chenchal Peri, có nghĩa là “Tiên Nữ Linh Động”. Trên lưng nó không có bành để ngồi dựa lưng cho thoải mái, mà chỉ có đặt một tấm nệm lớn và dầy, buộc chặt vào mình voi bằng những sợi dây cói khổng lồ. Khi voi cất bước di chuyển, người cưỡi phải khéo léo giữ thăng bằng mới ngồi được yên, và tôi để cho những bạn bè quen thuộc với bà HPB hãy thử tưởng tượng việc gì xảy ra khi bà với bốn bạn đạo sơ cơ khác về môn cưỡi voi cùng chia sẻ với nhau khoảnh trống có giới hạn trên tấm nệm.
Vì phép lịch sự, chúng tôi đỡ bà trèo cái thang ngắn lên ngồi trước, đương nhiên nghĩ rằng bà sẽ dành chỗ cho chúng tôi lên sau, nhưng bà lại không nghĩ như vậy:bà nghiễm nhiên chiếm trọn khoảnh giữa của tấm nệm, và không chịu nhích một phân để cho chúng tôi có cơ hội trèo lên.
Bà còn phát ngôn mạnh mẽ và cứng cỏi khi chúng tôi nhắc nhở cho bà nhớ rằng bà không có độc quyền chiếm hữu trọn hết tấm nệm cho một mình bà!
Thế rồi, khi “Nàng Tiên Linh Động” bắt đầu đập hai cánh quạt trên lỗ tai và biểu lộ những cử chỉ sốt ruột khác nữa, vì sự dằng co của chúng tôi, bọn chúng tôi bốn người, là: W.Scott, Mulji, Babula và tôi, đều lần lượt trèo lên và bám lấy bốn góc của tấm nệm, tùy sự xoay sở tháo vát của mỗi người.
Bạn Walter Scott ngồi phía sau, và bỏ một chân thòng xuống, nhưng con voi đầy hảo ý, ngoắt cái đuôi nó lên đỡ lấy bàn chân y và giúp y ngồi lại ngay ngắn cho được an toàn.
Thế là chúng tôi khởi hành, bà HPB miệng phì phèo thuốc lá, vẻ mặt hân hoan cơ hồ như bà đã từng quen thuộc với bộ môn cưỡi voi từ thuở nhỏ. Nhưng chỉ độ vài trăm thước đầu tiên cũng đủ lấy mất đi cái bộ vó tự phụ của bà. Bà ngả nghiêng bên nọ bên kia một cách nặng nề chậm chạp, làm cho bao nhiêu mỡ trong người bà đều quấy động và hơi thở của bà bơm hết ra ngoài, cho đến khi bà nổi trận lôi đình và nguyền rủa bọn cười đùa chúng tôi, cùng với con voi và cả thằng nài, đều chết sa đọa xuống Âm Ty!
Bạn Ross Scott, em ruột của Walter, vì đau chân không thể cưỡi voi với chúng tôi, nên y ngồi trên một chiếc xe nhỏ kiểu bản xứ, coi rất lạ mắt gọi là ekka, coi như một cái thùng mà chỗ ngồi là một mảnh gỗ ván lớn hơn bàn tay, do một con ngựa kéo. Suốt chuyến đi dài bốn dặm đường trường, mà bà HPB quả quyết là hai mươi dặm, chúng tôi đi trong sự vất vả khổ nhọc, còn bà trong cơn ầm ĩ thịnh nộ. Nhưng đến bận về, không một sự thuyết phục nào có thể làm cho bà HPB tiếp tục ngồi lại chỗ cũ trên lưng voi; bà bảo bạn Scott ngồi thu hình nép vào một bên trên chỗ ngồi của chiếc ekka và bà cùng ngồi chung một xe để trở về nhà.
II
Do nhiều bạn Đạo kể chuyện, và sau khi đã trao đổi quan niệm bằng cách giao dịch thơ từ với nhóm Arya Samaj, một chi phái Ấn Giáo tiến bộ, tôi được biết Đạo Sư (Swami) Dyànand Saraswati như một nhà bác học Phạn Ngữ(Pandit) và một nhà cải cách tôn giáo, đang lãnh đạo một phong trào tâm linh rất mạnh mẽ mệnh danh là tổ chức Arya Samaj, nhằm mục đích phục hưng tôn giáo Phệ Đà thuần túy cổ xưa của Ấn Độ.
Khi chúng tôi đến Agra, chúng tôi được người đại diện địa phương của Đạo Sư Dyànand Saraswati đến viếng thăm và nói cho chúng tôi biết quan niệm của y về vị lãnh đạo tôn giáo nầy. Sự giải thích của y rất thỏa đáng và chúng tôi quyết định đi Saharanpore để gặp vị Swami khi ông đi hành hương từ Hardwar trở về.
Tại Saharanpore, những tín hữu của chi phái Arya Samaj nghinh tiếp chúng tôi rất nồng hậu với những quà tặng bánh trái và hoa quả. Sự thích thú của chúng tôi bị trở ngại do sự có mặt của một tên cảnh sát “chìm” và tên gia nô của y, họ theo dõi mọi sự di chuyển của chúng tôi, khám xét thơ từ, đọc điện tín của chúng tôi, và làm cho chúng tôi có cảm tưởng cơ hồ như mình đang lọt vào tầm nanh vuốt của cơ quan Mật Vụ Phòng Ba của Sở Gián Điệp Nga!
Trụ sở chi phái Samaj dành cho chúng tôi một cuộc tiếp tân long trọng và một buổi tiệc theo phong tục bổn xứ, chúng tôi ngồi ăn dưới đất với bàn tay mặt rửa sạch, bốc thức ăn đựng trên những dĩa kết bằng lá cây.
Đạo sư (Swamiji) về đến nơi vào lúc sáng sớm ngày hôm sau, bạn Mulji và tôi cùng đến để chào mừng. Tôi lấy làm vô cùng cảm kích về tác phong, dáng điệu, giọng nói ấm, những cử chỉ lịch sự và cốt cách tôn nghiêm cao quý của ông. Đạo sư nắm tay tôi, đưa tôi đến một hàng ba rộng rãi lộ thiên, cho người đem đến một ghế dài và mời tôi ngối bên cạnh người. Sau khi đã trao đổi với nhau những lời chúc mừng, chúng tôi chia tay từ giã, và độ một giờ sau đó, đạo sư đích thân đến nơi quán trọ của chúng tôi để thăm xã giao bà HPB. Trong cuộc nói chuyện dài tiếp theo sau đó, đạo sư cho biết chúng tôi thấy hoàn toàn phù hợp với quan niệm của chúng tôi.
Ngày hôm sau, chúng tôi cùng đạo sư đáp chuyến xe lửa đi Meerut. Khi đến nơi, chúng tôi được đưa đến ngôi biệt thự của ông Sheonarain, một nhà thầu giầu có làm công tác của chính phủ và một tín hữu phái Samaj, tình nguyện cung ứng ngôi nhà của ông cho chúng tôi sử dụng Chiều ngày hôm sau, lúc sáu giờ ba mươi, chúng tôi tham dự một buổi hội họp đông đảo của môn phái Arya Samaj, được tổ chức ở một sân rộng lộ thiên, giữa những ngôi nhà lầu bao phủ chung quanh. Ở cuối sân, có một bục xây bằng gạch, trên có trải nệm và thảm Ấn Độ, đạo sư Swami ngồi xếp bằng trên tấm thảm và dựa lưng vào một cái gối tròn và dầy, loại gối nầy rất thông dụng ở các xứ phương Đông. Tác phong trầm tĩnh oai nghi, đạo sư nổi bật giữa đám đông, và trong một bầu không khí im lặng hoàn toàn, toàn thể hội trường đều lắng tai nghe ông thuyết pháp. Trong cái im lặng đó, người ta chỉ nghe có tiếng chim sẻ ríu rít gọi nhau bay về tổ lúc trời chiều.
Sau khi phái đoàn chúng tôi được đưa đến chỗ ngồi đã sắp đặt sẵn, ngài Swami im lặng tọa thiền trong vài phút, kế đó ông ngẩng mặt lên trời, rồi với một giọng trầm ấm, ngâm vang những thánh ngữ: “AUM, AUM; Shantih Shantih Shantih!” (ngụ ý:Cầu cho muôn loài được bình an), và khi những âm thanh vang đội đã tan dần, ông mới bắt đầu một thời pháp về đề tài :Cầu nguyện”.
Ông định nghĩa cầu nguyện tức là làm việc; đó không phải là thốt lên những lời lẽ vô vị, trên đầu môi chót lưỡi; không phải là nịnh hót hay ca tụng Thượng Đế mà có đem lại một kết quả nào. Có lần, ông nghe một tín đồ phái Brahmo Samaj bỏ phí mất hai giờ đồng hồ chỉ để lặp đi lặp lại cả ngàn lần những lời nầy:
“Ôi! Thượng Đế, Ngài là Từ Bi và Công Bằng Vô Lượng Vô Biên!”
Làm như vậy có ích gì? Ông nói có người nói chuyện với Thượng Đế như người ta nói chuyện với tên gia bộc nhà mình; cơ hồ như họ có quyền áp đặt, sai phái! Thật là rồ dại ngu ngốc. Người nào muốn cầu nguyện có hiệu quả, hãy làm việc, làm việc. Tất cả những gì ở ngoài tầm sức mình, phải được tìm kiếm bằng sự công phu thiền định và phát triển những quyền năng tâm linh…
Đạo sư tiếp tục thuyết giảng một cách hùng biện, giọng nói truyền cảm, ngôn ngữ dễ dàng lưu loát như giòng nước chảy. Trước khi ông kết thúc, ánh trăng bạc chiếu vào mặt tiền ngôi nhà trước mặt chúng tôi trong khi chúng tôi ngồi ẩn khuất trong bóng tối, dưới nền trời xanh biếc một màu xanh thẳm. Một tia trăng sáng rọi vào bối cảnh phía sau lưng đạo sư, giống như một bức màn bằng bạc đánh bóng, làm nổi bật thân hình của ông với những nét thanh tú như một pho tượng đồng.
Ngày hôm sau, đến lượt tôi thuyết trình, dịp nầy được tổ chức trong một lều vải khổng lồ dựng lên trong khuôn viên nhà của ông Sheonarain. Sàn gạch được phủ lên những tấm nệm vải cứng và dầy để làm chỗ ngồi, bên trên có trải những tấm thảm Ấn Độ và Ba Tư. Ngoài một cái bàn riêng cho tôi và vài chiếc ghế cho các thính giả người Âu, kỳ dư là thính giả bổn xứ, kể cả đạo sư Swami, đều ngồi xếp hàng trên sàn gạch. Có vài vị quan chức người Anh tham dự, lại có cả viên công an chìm hôm trước, lần nầy với bộ râu mép cạo sạch nhẵn, hình như với mục đích hóa trang! Cuộc nói chuyện của tôi, do Mulji làm thông ngôn, trình bày những lợi ích hỗ tương có thể đạt được bằng cách phối hợp những quyền lợi và khả năng thiên phú của cả hai chủng tộc Đông Phương và Tây Phương.
Ngày hôm sau, vị Swami kể cho chúng tôi nghe nhiều sự việc lý thú về những kinh nghiệm bản thân của ông và của những đạo sĩ Yogi khác trong rừng già. Ông đã từng sống gần như khỏa thân (chỉ đóng một cái khố nhỏ để che thân) suốt bảy năm trong rừng rậm, ngủ trên mặt đất hoặc trên tảng đá, ăn toàn hoa quả, rễ cây và uống nước suối, cho đến khi thể xác ông hoàn toàn vô cảm đối với tiết trời nóng, lạnh, vết thương, xây xát hay lửa bỏng.
Ông không hề bị loại độc xà, ác thú làm hại. Có lần ông chạm trán với một con gấu đói trên lộ trình mà ông đi qua, con gấu nhảy chồm lên định vố lấy ông, nhưng ông đưa tay khoát nó đi ra chỗ khác, và đường đi được giải tỏa. Một vị siêu nhân mà ông đã gặp tại núi Abu, tên là Bhavani Gihr, có thể uống cạn một chai thuốc độc, mà chỉ một giọt thôi cũng đủ giết chết một người thường: vị nầy có thể nhịn ăn suốt bốn mươi ngày một cách dễ dàng và làm nhiều hiện tượng lạ lùng khác.
Chiều hôm đó, có một cuộc hội họp khác của các tín hữu Arya Samaj cũng đông đảo như lần trước để gặp gỡ chúng tôi, và một cuộc thảo luận đã diễn ra giữa đạo sư (Swami) và vị hiệu trưởng của trường trung học địa phương về những luận điệu chứng minh cho sự hiện diện của Thượng Đế. Ngày hôm sau, chúng tôi sửa soạn lên đường trở vế Bombay, và được vị Swami cùng với một số đông tín hữu của môn phái ông tiễn đưa ra tận nhà ga. Họ tung hoa hồng vào người chúng tôi và hô to khẩu hiệu “Namasté” tiễn biệt khi đoàn xe lửa lăn bánh.
Sau những ngày và đêm nóng bức trên chuyến xe lửa với những tiếng động ồn ào, bụi bặm, thiếu tiện nghi, chúng tôi đã đến Bombay, nhưng trước khi kiểm soát lại đồ hành lý, bà HPB đi ngay đến trước mặt tên “cảnh sát chìm”, và ngay trên sân ga, bà cho y một bài học đích đáng. Với một giọng nhạo báng chua cay, bà thốt ra lời khen ngợi y về những thành quả lớn lao mà y hẳn đã gặt hái được trong chuyến đi đắt tiền trên toa xe hạng nhất, và nhắn y chuyển đạt những lời chúc mừng và cảm ơn nồng hậu của bà lên cho thượng cấp của y với sự yêu cầu của bà cho y được thăng chức!
Tên mật thám thẹn đỏ mặt, lúng túng ngập ngừng nói không ra lời, và chúng tôi bước đi, bỏ y lại đó một cách trơ trẽn. Kế đó, thay vì đi thẳng về nhà để tắm rửa và ăn sáng, chúng tôi kêu xe đến tòa Lãnh Sự Mỹ và yêu cầu viên Lãnh Sự gửi một thông điệp cực lực phản kháng viên Cảnh Sát Trưởng về cách đối xử có tính cách nhục mạ của y đối với những công dân Mỹ vô tội vạ.
Trào lưu sinh hoạt của chúng tôi vẫn trôi chảy một cách êm đềm, những cảnh tượng lạ mắt của nếp sinh hoạt bổn xứ diễn ra trong đời sống hàng ngày, càng ngày càng gây ấn tượng sâu xa vào tâm hồn chúng tôi với thời gian qua. Vòng đai giao tế nhân sự của chúng tôi với người bổn xứ mỗi ngày càng mở rộng thêm lên, nhưng ngoại trừ một vài trường hợp lẻ loi rất hiếm, chúng tôi không tiếp xúc với người Âu. Có quan hệ gì nếu họ ưa chúng tôi hay không; họ không thể dạy chúng tôi được gì mà chúng tôi muốn biết, nếp sống thường ngày và những công việc bận rộn của họ không có một thú vị gì đối với chúng tôi.
Sau khi tôi gởi một bức thư phản kháng cho chính quyền địa phương tỉnh Bombay qua trung gian của ông Franham, Lãnh Sự Mỹ, tôi được một bức thư trả lời rằng họ không hề có thái độ cố ý khiếm nhã trong việc cho nhân viên công an theo dõi mọi động tác xê dịch của chúng tôi.
Về sau,khi đến Simla, tôi được các viên chức cao cấp trong phủ Toàn Quyền của vị Phó Vương Anh cho biết rằng họ rất bực mình mà thấy công tác do thám được thi hành một cách quá ư lộ liễu và vụng về đến nỗi đã làm cho chúng tôi chú ý. Họ nói thêm rằng sự theo dõi chúng tôi không có gì là ngoài sự thường tình, vì luật lệ nhà nước ở Ấn Độ quy định phải theo dõi tất cả những người ngoại quốc nào có vẻ thân thiện đặc biệt với người bổn xứ và tránh né sự giao thiệp với người của giai cấp thống trị.
III
Ngày 4 tháng 7 năm ấy, chúng tôi quyết định xuất bản tờ tạp chí nguyệt san “Theosophist”. Như đã giải thích trước đây, chúng tôi phải đi tới quyết định đó vì nhu cầu đáp ứng sự thích thú tìm hiểu ngày càng tăng gia của quần chúng về vấn đề Đạo Lý. Nhu cầu đó phải được giải quyết bằng một phương tiện nào tốt hơn là việc trao đổi thơ từ, vì thật ra chúng tôi không thể nào chịu đựng nổi sự lao tâm mệt trí của một công việc đòi hỏi một sự cố gắng vận dụng tinh thần, nhoc nhằn liên tục và thường xuyên như thế. Tập Nhật Ký của tôi ghi nhận rằng đôi khi tôi đã phải làm việc tứ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, và tiếp tục cho đến hai hay ba giờ sáng mỗi đêm, mà vẫn không xuể. Vả lại, có những câu hỏi mà phần đông thư tín viên thường hay hỏi đi hỏi lại nhiều lần, và phải trả lời lặp đi lặp lại những câu hỏi đó là một việc rất nhàm chán và mệt mỏi.
Chúng tôi thảo luận về vấn đề này trên tất cả mọi khía cạnh, tính toán cân nhắc điều hơn lẽ thiệt, và sau cùng chúng tôi quyết định thực hiện kế hoạch. Nhưng chúng tôi cũng gặp phải những nỗi khó khăn nghiêm trọng, mà một là Hội không có một xu vốn liếng hay tài sản để có thể cầm cố vay mượn. Tôi bèn đặt một quy tắc nhất định rằng tờ Tạp Chí sẽ được phát hành theo những điều kiện giống như của các tạp chí lớn nhất ở Anh và Mỹ, tức là mua trả tiền trước chứ không bán chịu. Tôi sẵn sàng cho ra các số nguyệt san đúng kỳ hạn mỗi tháng trong một năm đầu, dẫu rằng chúng tôi chưa có đến một độc giả đăng ký dài hạn. Những bạn đạo Ấn Độ đều không tán thành kế hoạch nầy, và tiên đoán rằng nó sẽ không bao giờ thành công. Nhưng điều đó vẫn không làm lung lay quyết định của tôi. Thế là chúng tôi dự bị đóng góp phí tổn cho mười hai số nguyệt san đầu tiên, và chuẩn bị cho ra số đầu. Chúng tôi liên lạc với các nhà Phật Giáo ở Tích Lan, Đạo Sư Dyanand của Ấn Giáo, các nhà học giả Phạn Ngữ ưu tú ở Ba Nại La và nhiều tu sĩ các môn phái khác để yêu cầu họ đóng góp bài vở, và phổ biến rộng rãi xa gần ý định của chúng tôi. Chúng tôi bận rộn với bấy nhiêu công việc đó suột cả mùa hè năm ấy.
Những hội viên hoạt động của Hội bắt đầu hoạt động mạnh để kiếm độc giả; riêng một bạn Đạo trung kiên là ông Seervai, Thơ Ký của Hội, đã ghi tên được hai trăm độc giả mua dài hạn. Cuối tháng chín, chúng tôi đã cho ra số nguyệt san đầu tiên với đợt đầu là bốn trăm cuốn, một công trình khả quan làm cho tất cả chúng tôi đều rất vui mừng. Kể từ đó về sau, tạp chí Theosophist vẫn xuất hiện đều đều mỗi tháng đúng kỳ hạn không hề suy chuyển, không hề vấp phải một tai nạn hay chướng ngại, và cũng không hề làm cho chúng tôi bị mắc nợ một xu nhỏ nào.
Cuối năm ấy (1879), tờ tạp chí Theosophist đã ghi nhận sáu trăm hai mươi mốt độc giả mua dài hạn. Con số đó tuy nhỏ đối với người Tây Phương, đã từng quen thuộc với những thành tích huy hoàng của báo chí Âu Mỹ, nhưng đó là một con số lưu hành rất đáng kể đối với xứ Ấn Độ, vì những nhật báo lớn nhất ở Calcutta, Bombay và Madras cũng chỉ có từ một ngàn rưởi đến hai ngàn độc giả ghi tên mua bán dài hạn trong sổ sách của họ!
Chương Bảy
NỮ TU SĨ Maji
I
Ngày 2 tháng 12, bà HPB và tôi, cùng với bạn Damodar và em Babula đáp chuyến xe lửa đi Allahabad để viếng thăm ông bà Sinnett mà trước đây chúng tôi chỉ mới có giao dịch bằng thơ từ chứ chưa từng được quen biết tận mặt.
Sau hai ngày ngồi trên xe lửa, sáng sớm ngày thứ ba, chúng tôi đến Allahabad và được ông Sinett đến đón tại nhà ga cùng với một cỗ xe song mã với người đánh xe và hai người hầu bổn xứ mặc đồng phục rất đẹp. Bà Sinett tiếp đãi chúng tôi tại nhà với một cung cách vô cùng lịch sự, và trước khi bà nói chuyện với chúng tôi được trên mười câu, chúng tôi biết ngay rằng mình đã có một người bạn quý.
Trong số các vị khách nhà ông Sinett ngày hôm ấy, có một vị Thẩm Phán Thượng Thẩm và ông Giám Đốc Nha Học Chính. Ông bà A.O.Hume đến vào ngày hôm sau và bà Gordon đến vào ngày mùng bảy, sau khi đã đi một chuyến hành trình rất dài để đến gặp bà Hpb. Lần lần chúng tôi đã có dịp quen biết với phần đông những nhân vật Anh Ấn của thành phố nầy, họ cũng đáng được làm quen vì họ tỏ ra khôn ngoan lịch thiệp và tâm hồn cởi mở.
Vài người trong số đó có cử chỉ rất khẩn khoản, ân cần và dễ thương, nhưng thu hút chúng tôi nhiều nhất là ông bà Sinett và Gordon phu nhân, bà nầy hồi đó đang ở vào thời kỳ xuân sắc lộng lẫy và trí óc thông minh chói rạng. Tôi nghĩ rằng thật là không uổng công lặn lội sang tận xứ Ấn Độ, mà được quen biết với ba người nầy.
Theo một quy ước chặt chẽ trong các giới xã hội thượng lưu Anh Ấn, người mới đến xứ nầy thường đi viếng thăm xã giao những nhân vật hiện đang cư trú tại địa phương, nhưng vì bà HPB không muốn đi thăm ai cả, nên ai muốn làm quen với bà phải bỏ cái tập quán kia đi, và tự họ đích thân đến viếng bà khi nào họ muốn.
Thời gian chúng tôi ở tại đây luôn luôn có khách đến viếng, ngoài ra còn có những buổi dự tiệc tiếp tân, trong một dịp nầy tôi còn nhớ rõ đã xảy ra một chuyện lý thú. Một buổi chiều, ông bà Sinett, bà HPB và tôi cùng lên xe đi dự một buổi cơm tối, xe chạy ngang qua một khu phố hãy còn xa lạ đối với chúng tôi. Đến một ngã tư, bà HPB bỗng nhiên rùng mình một cái, và nói:
-Lạ quá! Thật là một cảm giác rùng rợn! Ở chỗ nầy hình như đã có xảy ra một vụ tàn sát đẫm máu.
Ông Sanett hỏi:
-Bà không biết đây là chỗ nào hay sao?
Bà đáp:
-Không! Làm sao tôi biết được, vì đây là lần đầu tiên mà tôi đi ra khỏi nhà ông.
Khi đó, ông Sanett đưa tay chỉ một ngôi dinh cơ đồ sộ ở phía tay mặt chúng tôi, và nói cho bà biết rằng trước đây, đó là câu lạc bộ của quân đội, và chính tại đó các sĩ quan Anh của một lữ đoàn quân Anh Ấn đã bị các thuộc viên của họ thảm sát trong bữa ăn trong cuộc nổi loạn của quân bổn xứ. Nhân dịp đó, bà HPB giảng cho chúng tôi nghe một bài thuyết pháp ngắn nhưng vô cùng hữu ích về tính cách trường cửu bất diệt của Ký Ức Không Gian, có tác dụng ghi nhận trải qua thời gian không bao giờ mất, nhất cử nhất động cùng tất cả mọi hành vi của con người trên Tiên Thiên Khí Ảnh.
Qua ngày hôm sau, tôi thuyết trình trước một cử tọa đông đảo về đề tài: “Thông Thiên Học và những mối liên hệ của nó đối với xứ Ấn Độ”. Ngồi trên ghế chủ tọa cuộc họp, là ông A.O.Hume, một luật gia nổi tiếng, ông đã khai mạc buổi thuyết pháp và giới thiệu diễn giả bằng một bài diễn văn rất hay và rất hùng hồn làm cảm động người nghe.
Ngày 15 tháng 12, chúng tôi từ giã ông bà Sinett và cùng bà Gordon đáp xe lửa đi Ba Nại La (Bénarès). Đến nơi vào lúc bốn giờ chiều, chúng tôi được vị đại diện của Quốc Vương Vizianagram đón tiếp tại nhà ga và mời chúng tôi về ở tại một tòa lâu đài của Quốc Vương với tư cách là tân khách của ngài.
II
Ngày hôm sau, sau khi ăn điểm tâm, chúng tôi lên xe để đến viếng đạo viện của bà Maji, một vị nữ tu sĩ rất nổi tiếng, làu thông kinh điển Phệ Đà, ở một động đá dưới hầm của đạo viện, trên bờ sông Hằng cách thành phố Ba Lại La độ hai dặm. Bà thừa kế đạo viện nầy của thân phụ bà, vốn là một người Yogi, cùng với một ngôi nhà trong thành phố và một thư viện Phạn Ngữ rất phong phú và quý giá.
Đó là một nơi ẩn cư rất tĩnh mịch, nhất là vào buổi sáng sớm, và rất thuận lợi cho việc công phu thiền định. Tọa lạc trên bờ sông độ mười lăm thước cao hơn mặt nước, và che khuất dưới những lùm cây cổ thụ, thật là một nơi đạo viện lý tưởng có phong vị thần tiên khi chúng tôi ngồi trên bệ đá dưới những gốc hòe nở hoa đỏ thắm, cành lá sum suê rậm rạp, và luận đàm về Đạo Lý với nhà nữ tu trí thức nầy. Đó là một trong nhiều kinh nghiệm kỳ thú nhất của chúng tôi trên đất Ấn Độ, mà người quen sống ở các xứ Tây Phương không bao giờ có thể ngờ trước được.
Hối ấy, bà Maji trạc độ bốn mươi tuổi, máu da lợt, với một phong độ trang nghiêm và cốt cách lịch sự nó làm cho người ta phải kính nể. Bà có một giọng nói dịu dàng, gương mặt và thân hình đầy đặn, đôi mắt tinh anh biểu lộ sự thông minh và đức tính quả cảm, cương nghị. Bà từ chối không chịu biểu diễn phép thuật thần thông, như chúng tôi vẫn luôn luôn yêu cầu các nhà đạo sĩ trong những dịp tương tự.
Những lý do từ chối của bà đều được tất cả các bạn trong nhóm chúng tôi chấp nhận là đầy đủ, và cuộc thăm viếng vẫn có ảnh hưởng thuận lợi cho tất cả mọi người. Tôi không biết rằng bà có thể làm các hiện tượng hay không, nhưng vốn là một tín đồ chân chính của triết học Vedanta, bà mạnh dạn chỉ trích sự dại khờ của những kẻ ham mê những trò chơi tương đối ấu trĩ ấy, thay vì để tâm hồn được yên tĩnh vắng lặng mà đạo lý cổ truyền từ nghìn xưa vẫn luôn luôn khuyên nhủ các môn sinh trên đường tầm Đạo.
Dù đi đến bất cứ nơi nào trên đất Ấn Độ, người ta luôn luôn có cái quan niệm đó, những nhà tu khổ hạnh cao siêu nhất vẫn luôn luôn từ chối không biểu diễn những quyền năng thần bí trừ phi trong những trường hợp rất đặc biệt. Những người làm các phép thuật nhiệm mầu bị coi như thuộc hạng thấp kém, chẳng hạn như các nhà phù thủy bên hắc phái, họ chỉ được sự bảo trợ và trọng vọng của những người thuộc giai cấp hạ tiện.
Vài ngày sau, vị nữ tu Maji đến viếng thăm trả lễ bà HPB. Việc ấy gây sự ngạc nhiên trong các giới Ấn Độ, và chúng tôi được cho biết rằng thật là một điều rất lạ thường mà thấy vị nữ tu nầy đích thân đến viếng một người nào ngoài tôn sư của bà, còn việc đến thăm viếng một người Âu thì không bao giờ. Tôi cảm thấy một sự say mê thích thú về nữ tu sĩ nầy do những chuyện mà tôi đã nghe kể lại về thành tích của bà, và thật sự tôi đã đến viếng bà mỗi khi có dịp ghé qua thánh đại Ba Nại La; lần cuối cùng với bà Annie Besant và nữ bá tước Wachtmeister.
Trong nhiều năm, tôi vẫn tin bà là một siêu nhân. Trong cuộc viếng thăm của bà lúc ấy, bà vẫn là một người hoàn toàn xa lạ đối với chúng tôi, và theo chỗ chúng tôi biết không một người nào đã từng nói cho bà biết chúng tôi là ai, trừ ra chúng tôi tự giới thiệu trong dịp đến viếng đạo viện của bà lần đầu tiên. Tuy vậy, bà đã nói cho các bạn đạo cùng đi với tôi, trong một dịp bà HPB vắng mặt, nghe một chuyện dị kỳ về bà HPB. Bà nói rằng thể xác của bà HPB đã được một nhà đạo sĩ Yogi mượn tạm vì mục đích phổ biến Triết Học Đông Phương. Đó là cái thể xác thứ ba mà nhà đạo sĩ đã dùng vào mục đích ấy, và thời gian y đã trải qua trong ba cái thể xác đó, cộng chung lại tất cả là độ một trăm năm mươi năm.
Trong một chuyến đi Calcutta nhiều năm sau đó, tôi đã đến khu ngoại ô Bhowanipore để viếng Maji, trong dịp bà từ Ba Nại La đến đây để viếng thăm một bạn đạo là Nobin Bannerji ở tại nhà ông nầy. Tôi đã hội kiến với bà hằng ngày trong thời gian hai tuần ở Calcutta, và luôn luôn rất thích thú mà nghe lời thuyết giáo của bà.
Bà lúc nào cũng có một số người tầm Đạo vây phủ chung quanh, và những lời giải đáp thắc mắc của bà luôn luôn biểu lộ một học lực uyên thâm và sâu sắc. Phong thái hấp dẫn và giọng nói dễ mến của bà làm cho bà càng thêm đắc nhân tâm và có nhiều người ngưỡng mộ. Sau hết, còn có sự hấp dẫn của những quyền năng thần bí, thường được gán cho những đạo sĩ chân tu ở Ấn Độ, một di sản còn sót lại của những truyền thống từ những thời đại cổ xưa.
Những quyền năng đó, bà Maji hẳn là phải có đến một mức độ nào, bởi vì chúng ta đã thấy rằng lần gặp gỡ đầu tiên giữa bà với chúng tôi hồi năm 1879, trước khi người ta được biết gì về sự liên hệ giữa bà HPB với hai vị Chân Sư, bà Maji đã nói với tôi những điều về các Ngài mà không ai có thể nói lại cho bà biết, và trong tập Nhật Ký của bạn Damodar có ghi rằng bà đã làm cho y vô cùng ngạc nhiên với những lời tiết lộ của bà về nhà huyền học T. Subba Rao và về những nhân vật khác nữa.
Sau khi bà Maji từ Calcutta trở về đạo viện của bà ở Ba Nại La, chúng tôi đã có dịp trở lại viếng thăm bà lần nữa, nhưng không ngờ đây là lần chót vì sau đó ít lâu, chúng tôi được tin bà đã từ trần.
III
Khi chúng tôi trở về Bombay, một buổi chiều tà, bà HPB, bạn Damodar và tôi đã trải qua một kinh nghiệm lạ lùng, mà trước đây tôi đã có kể lại sơ lược bằng trí nhớ, nhưng bây giờ nó phải được tường thuật lại với đầy đủ chi tiết vào đúng chỗ của nó.
Chúng tôi ba người ngồi trên chiếc xe ngựa mui trần mà Damodar đã làm quà tặng cho bà HPB, nhắm về phía cầu Warli gần bờ biển để hóng gió mát. Một cơn giông có sấm chớp đang diễn ra từ đằng xa nhưng không có mưa, những tia chớp nối tiếp nhau thường xuyên một cách sống động đến mức chiếu sáng cả vùng lân cận như ban ngày. Bà HPB và tôi ngối hút thuốc và cả ba chúng tôi đều cùng nhau đàm luận việc nầy viếc nọ, bỗng nghe có tiếng nói chuyện của nhiều người từ trên bờ biển đi về phía tay mặt chỗ chúng tôi ngồi. Ngay khi đó, xuất hiện một nhóm người Ấn ăn mặc lịch sự vừa nói vừa cười đùa với nhau, họ đi qua khỏi chỗ chúng tôi và lên xe riêng của họ đậu thành hàng trên đường Warli, rồi chạy về thành phố. Để nhìn theo, bạn Damodar, đang ngồi quay lưng về phía ngưới đánh xe, mới đứng dậy và ngước mắt nhìn lên thùng xe. Khi đoàn người cuối cùng từ bờ biển đi lên vượt ngang qua xe chúng tôi, y lẳng lặng sờ nhẹ vào vai tôi và hất đầu làm hiệu cho tôi nhìn về hướng ấy. Tôi đứng dậy và thấy đằng sau nhóm người cuối cùng đi hóng gió biển trở về, một bóng người lẻ loi bước đến gần chúng tôi. Cũng như những người kia, người nầy mặc sắc phục trắng, nhưng sắc trắng của y phục nầy vượt trội hẳn làm cho y phục của những người kia có vẻ như màu xám, cũng ví như ánh sáng đèn điện làm cho ngọn đèn hơi sáng tỏ nhất cũng hóa ra đục mờ. Người nầy vóc vạc cao hơn nhóm người kia đến một cái đầu, và dáng đi của người quả thật là biểu lộ một cốt cách thần tiên. Người ấy bước đến gần, tách rời khỏi đường lộ và đi về phía chúng tôi, khi ấy chúng tôi mới nhận ra Ngài là một vị Chân Sư. Cái khăn trắng bịt đầu, chiếc áo rộng trắng, mái tóc đen xỏa xuống vai và bộ râu đen, mới thoạt nhìn chúng tôi tưởng là đức “Sư Phụ”, nhưng khi Ngài bước đến bên hông xe và chỉ cách chúng tôi độ một thước, Ngài đặt nhẹ bàn tay Ngài lên cánh tay trái của bà HPB lúc ấy đang gác trên thùng xe, nhìn chúng tôi vào tận mắt, và đáp lại sự kính cẩn vái chào của chúng tôi, chừng đó chúng tôi mới biết không phải là Sư Phụ, mà là một vị Chân Sư khác. Bà HPB về sau có một bức chân dung của Ngài lồng trong một cái khuôn vàng bà đeo trước ngực mà nhiều người đã từng thấy.
Ngài không nói một lời nào, mà lẳng lặng đi về phía đường lộ, không màng chú ý đến những người du ngoạn khi họ ngồi trên xe chạy về thành phố. Những tia chớp liên tục của cơn giông chiếu sáng thân hình Ngài khi Ngài đứng bên cạnh chúng tôi, và khi Ngài đã đi trên con đường đá cách xa chúng tôi độ hai mươi thước, tôi nhận thấy rằng ánh đèn trên chiếc xe cuối cùng rọi lại làm cho thân hình Ngài nổi bật trên bối cảnh chân trời ở đàng xa. Không có cây cối hay bụi rậm nào che khuất Ngài khỏi tầm mắt chúng tôi, nên chúng tôi vận hết nhỡn lực để theo dõi động tác của Ngài. Chúng tôi vừa mới nhìn thấy Ngài đây, thì trong khoảnh khắc Ngài đã biến mất dạng, cũng như một tia chớp sáng lòe rồi vụt tắt. Dưới sự phản ứng của cơn xúc động bàng hoàng, tôi nhảy vọt ra ngoài xe, chạy đến chỗ mà tôi nhìn thấy Ngài lúc nãy, nhưng không thấy gì nữa. Tôi chỉ nhìn thấy có con đường lộ vắng teo, và phía sau lưng của chiếc xe vừa chạy qua.
Chương tám
ĐẠO SƯ DYANAND SARASWATI NÓI VỀ
PHÁP MÔN YOGA
Ngày 27 tháng 8 năm ấy, bà HPB và tôi cùng với đứa hầu trai Babula lại đáp chuyến xe lửa đêm từ Bombay đi lên miền Bắc. Đến thị trấn Meerut, chúng tôi được toàn thể chi bộ của môn phái Arya Samaj tại địa phương đến tiếp đón tại nhà ga, và đưa chúng tôi về trụ sở của họ. Tại đây, chúng tôi đã gặp lại Đạo Sư Dyànand Saraswati, nhà lãnh đạo tinh thần của môn phái Arya Samaj đã nói ở trên.
Trước sự có mặt của các tín hữu trong môn phái ông, chúng tôi mở một cuộc thảo luận nhằm biết rõ quan điểm thật sự của ông về pháp môn Yoga và về những quyền năng tâm linh siêu đẳng của con người.
Chúng tôi được biết rằng những giáo lý của ông dạy các tín hữu khuyến cáo họ không nên thực hành pháp môn khổ hạnh, và thậm chí còn gieo sự nghi ngờ về sự thật của các quyền năng thần bí; trái lại, trong những cuộc đàm thoại với chúng tôi trước đây ông lại có một luận điệu khác hẳn. Cuộc phỏng vấn của tôi lần nầy đã được các tín hữu trong môn phái ghi chép lại đúng y nguyên văn mà tôi xin thuật lại như dưới dây:
“… Câu hỏi đầu tiên đưa ra cho Thầy (Swami) là: Pháp môn Yoga phải chăng là một khoa học thật nghiệm, hay chỉ là một giả thuyết siêu hình; và đạo sư Patanjali có cho rằng người ta có thể đạt được những quyền năng thần bí hay không? Và đã có ai đạt được những quyền năng ấy hay chưa?
Thầy đáp rằng pháp môn Yoga có thật và căn cứ trên sự hiểu biết những định luật Thiên Nhiên.
Câu hỏi kế tiếp là những quyền năng siêu đẳng, hiện nay người ta còn có thể sở đắc được hay không, hay là thời kỳ ấy nay đã qua rồi?
Câu trả lời là những định luật Thiên Nhiên vốn không dời đổi và không bị giới hạn trong thời gian và không gian: những gì người ta đã làm được trong quá khứ đương nhiên cũng vẫn áp dụng trong hiện tại. Không những ngày nay người ta có thể làm tất cả những gì đã được diễn tả trong các sách cổ xưa, mà chính Thầy (Swami) có thể truyền dạy các phương pháp ấy cho bất cứ người nào thật tình mong ước đi vào con đường ấy.
Có nhiều người đã đến xin thụ giáo Swami và quả quyết rằng họ có khả năng đạt tới sự thành công; Thầy đã thử hết ba người, nhưng tất cả đều thất bại. Lúc đầu họ tỏ ra có nhiều thiện chí, nhưng không bao lâu họ đâm ra chán nản và bỏ cuộc. Yoga là một khoa học khó khăn nhất, và ngày nay rất ít người có thể sở đắc được.
Câu hỏi tiếp theo là ngày nay còn có chăng những đạo sĩ Yoga chân chính, có thể làm những hiện tượng nhiệm mầu như đã diễn tả trong các sách cổ Ấn Độ.
Thầy đáp rằng những vị đạo sĩ ấy ngày nay vẫn còn, nhưng rất hiếm. Họ ẩn cư ở những nơi hẻo lánh, và ít khi, hay không bao giờ xuất hiện ở những nơi công cộng. Họ không bao giờ tiết lộ những bí quyết của họ cho kẻ thế nhân phàm tục, cũng không truyền dạy bí pháp của họ, trừ phi cho những người mà họ nhận thấy là xứng đáng sau nhiều cơn thử thách.
Đại Tá Olcott hỏi rằng phải chăng những vị Chân Sư luôn luôn khoác bộ áo vàng của nhà tu sĩ xuất gia như người ta thường thấy, hay cũng mặc y phục như thường?
Thầy đáp rằng các Ngài có thể mặc mọi thứ sắc phục thích nghi tùy nhu cầu của hoàn cảnh.
Đáp lời yêu cầu cho biết người đạo sĩ chân tu có những thứ quyền năng nào? Thầy nói rằng ngưới Yogi chân chính có thể làm những việc mà người thế gian gọi là những phép lạ. Không cần phải nêu ra những loại quyền năng nào, vì trên thực tế quyền năng của y chỉ bị giới hạn bởi lòng mong muốn và sức mạnh của ý chí.
Chẳng hạn như y có thể giao cảm bằng tư tưởng với những vị đạo sĩ khác dù họ ở cách nhau bao xa trong không gian, và không cần xử dụng những phương tiện viễn thông thường lệ như thư từ hay điện tín. Y có thể đọc tư tưởng của người khác. Y có thể di chuyển (trong Chân Ngã của y) từ một nơi nầy đến một nơi khác, không cần sử dụng những phương tiện chuyên chở thông thường, và với một tốc độ mau chóng hơn nhiều. Y có thể đi trên mặt nước hay trên không trung; vượt cao khỏi mặt đất. Y có thể xuất hồn ra khỏi xác và nhập vào thể xác một người khác, trong một thời gian ngắn hay trong nhiều năm tùy ý muốn. Y có thể kéo dài sự sống của thể xác bằng cách xuất hồn trong giấc ngủ, và do đó bằng cách tiết giảm những hoạt động của cơ thể đến mức tối thiểu, y tránh được một phần lớn sự già nua. Thời gian dùng trong việc ấy sẽ cộng vào và tăng thêm tổng số thời gian sinh tồn tự nhiên của thể xác trong kiếp sống hiện tại.
HỎI:Cho đến ngày, giờ, nào của cuộc đời y, người Yogi có thể sử dụng quyền năng chuyển di Linh Hồn hay Chân Ngã của y qua thể xác của một người khác?
ĐÁP:Cho đến giờ phút chót, chí đến từng giây cuối cùng. Người Yogi biết trước, chí đến từng giây đồng hồ, lúc nào y phải chết, và cho đến khi đó, y có thể xuất hồn để nhập vào thể xác một người khác nếu có một thể xác sẵn sàng cho y chiếm đóng. Nhưng nếu y để cho cái giây phút đó trôi qua, thì chừng đó y sẽ không thể làm gì được nữa. Sợi dây bạc đã bị đứt đoạn vĩnh viễn, và nếu người Yogi chưa được tinh luyện đầy đủ đến mức toàn thiện để đạt tới sự Giải Thoát, thì y phải tái sinh trở lại theo định luật Luân Hồi. Sự khác biệt duy nhất giữa trường hợp của y với trường hợp thông thường của mọi người là vì y đã có công phu tu luyện trong kiếp nầy để trở nên tốt lành hơn, thông tuệ hơn và minh triết hơn người thường, nên y sẽ được tái sinh trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn.
HỎI:Người Yogi có thể nào kéo dài sự sống của y tới mức độ nầy chăng:chẳng hạn như kiếp sống hiện tại của y đã định là bảy mươi tuổi; trước khi chết, y có thể nào nhập xác một đứa trẻ lên sáu tuổi, sống trong cái thể xác đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa, rồi chuyển di tứ cái thể xác đó qua thể xác một đứa trẻ khác, và sống trong đó thêm một kỳ hạn bảy mươi năm nữa?
ĐÁP:Y có thể, và bằng cách đó y có thể kéo dài sự sống của y trên thế gian đến một thời hạn độ chừng bốn trăm năm.
HỎI:Người Yogi có thể nào chuyển di bằng cách đó từ thể xác của y qua thể xác của một người đàn bà?
ĐÁP:Cũng như người ta có thể khoác lấy y phục đàn bà một cách dễ dàng, người Yogi có thể nhập vào thể xác của một người nữ. Chừng đó, xét về hình dáng và cử chỉ bên ngoài, thì y là một người nữ, nhưng xét về phần nội tàng bên trong,y vẫn là một người Yogi.
HỎI:Tôi đã gặp hai người như vậy; nghĩa là hai người nữ xét về hình dáng bề ngoài, nhưng hoàn toàn có tính chất đàn ông trong mọi sự trừ ra cái thể xác. Một trong hai người ấy, ông có nhớ chăng, trước đây chúng ta đã có dịp cùng đi viếng thăm tại Ba Nại La, trong một đạo viện trên bờ sông Hằng.
ĐÁP:À, nữ tu sĩ Maji.
HỎI:Pháp môn Yoga có tất cả mấy thứ?
ĐÁP:Có hai loại pháp môn Yoga, luyện thể xác (Hatha Yoga) và luyện tinh thần (Raja Yoga). Trong pháp môn Hatha Yoga, người hành giả công phu luyện xác một cách rất khổ hạnh nhằm mục đích bắt thể xác phải tuân theo mệnh lệnh của Ý Chí. Còn Raja Yoga là một pháp môn tu luyện khiến cho Ý Chí được phát triển mạnh mẽ đến mức làm chủ được tinh thần. Pháp môn Hatha Yoga đem lại những kết quả thể chất, còn Raja Yoga giúp hành giả phát triển những khả năng tâm linh. Người hành giả nào muốn được thành thục về pháp môn Raja Yoga, phải đã có trải qua công phu tu luyện Hatha Yoga.
HỎI: Phải chăng có những người đã sở đắc những quyền năng tâm linh siêu đẳng của pháp môn Raja Yoga, mà không hề trải qua giai đoạn khổ luyên xác thân theo Hatha Yoga? Tôi đã gặp ba người như vậy ở Ấn Độ, và chính họ đã cho tôi biết rằng họ không hề khổ luyện xác thân.
ĐÁP:Nếu vậy, thì họ đã có tu luyện theo pháp môn Hatha Yoga trong kiếp trước.
HỎI:Xin ông vui lòng giải thích làm sao người ta có thể phân biệt những hiện tượng nào là thật hay giả khi được tạo nên bởi một người mệnh danh là Yogi?
ĐÁP:Những hiện tượng lạ gồm có ba loại: loại thấp nhấtđược tạo ra bằng sự lanh lẹ của bàn tay, như ta thường thấy trong những màn trình diễn ảo thuật hay trong các gánh xiếc; loại thứ nhì, bằng cách sử dụng hóa chất hay những máy móc dụng cụ; loại thứ ba và cao nhất, bằng những quyền năng thần bí của con người.
Việc tạo nên những trò lạ mắt làm cho cử tọa ngạc nhiên do bởi hai phương pháp đầu tiên, và được tuyên bố giả dối như những hiện tượng siêu nhiên hay phép lạ, gọi là tamasha, hay sự phỉnh gạt bất lương. Nhưng nếu những hiện tượng đó được người ta đưa ra một sự giải thích đúng đắn và chân thật thì chừng đó chúng ta được coi như sự biểu diễn xảo thuật khoa học hay kỹ thuật. Chỉ có những hiện tượng tạo nên bởi việc sử dụng ý chí đã được tập luyện thành thục của con người, không tùy thuộc các đồ máy móc, dụng cụ, mới là thuộc pháp môn Yoga chân chính.
HỎI:Xin định nghĩa tính chất của Linh Hồn con người.
ĐÁP:Linh Hồn (Atmà) con người gồm hai mươi bốn thứ khả năng, trong số đó có ý chí, hành động, kiến thức, ký ức sắc bén,v.v… Khi nào tất cả những khả năng đó được đem ra tác dụng ở ngoại giới, người chủ động tạo nên những hậu quả được xếp hạng dưới cái chủ đề là Khoa Học Vật Lý.
Khi người ấy đem áp dụng chúng vào nội tâm, hay thế giới nội tàng, thì đó là Triết Học Tâm Linh, hay Yoga nội môn. Khi hai người nói chuyện với nhau từ hai nơi cách biệt nhau rất xa bằng điện thoại, thì đó là họ sử dụng kiến thức khoa học; khi nào họ giao tiếp với nhau không phải bằng máy móc dụng cụ mà bằng cách sử dụng kiến thức về những giòng từ điện và sức mạnh thiên nhiên, thì đó là kiến thức Yoga. Cũng chính do kiến thức Yoga mà nhà thuật sĩ làm cho những đồ vật thuộc bất cứ loại nào được đem tới cho y từ một nơi cách xa, và ngược lại, gửi những đồ vật ấy từ chỗ của y đi đến bất cứ nơi nào, trong cả hai trường hợp đều không dùng những phương tiện chuyên chở như xe,tàu,v.v… Người xưa vẫn từng biết rõ những định luật hấp dẫn và xô đẩy của tất cả mọi sự vật trong Thiên Nhiên, tác động hỗ tương giữa chúng với nhau, và những hiện tượng thần thông mầu nhiệm trong pháp môn Yoga đều căn cứ trên sự hiểu biết đó. Ngưới Yogi có thể thay đổi hay tăng cường những sức mạnh hấp dẫn và xô đẩy đó tùy ý muốn.
HỎI:Người hành giả muốn sở đắc những quyền năng đó phải có những điều kiện tiên quyết như thế nào?
ĐÁP:Đó là:
1.-Sự ước muốn học hỏi. Lòng ước vọng đó phải mãnh liệt cũng giống như của người sắp chết đói mong có thức ăn, hay người khát thèm nước uống.
2.-Hoàn toàn làm chủ mọi thứ đam mê và dục vọng.
3.-Sự trinh khiết; giao du với những bạn bè tốt và có đức hạnh; ăn uống chay tịnh, chỉ dùng những đồ vật thật trong lành, tinh khiết; nơi ăn chốn ở phải thanh tịnh sạch sẽ, không bị ô nhiễm bởi những ảnh hưởng xấu xa ô trược bất cứ loại nào; không khí trong sạch; ở nơi vắng vẻ.
Hành giả phải có trí óc thông minh, để có thể hiểu biết những định luật Thiên Nhiên; phải biết tập trung tư tưởng, để cho khỏi bị lo ra và trí lực phân tán trong cơn thiền định: và phải biết tự chủ, để kiểm chế mọi thứ đam mê, dục vọng. Y phải diệt trừ năm điều sau đây: Vô Minh, Tự Kiêu Ngã Mạn, Dâm Dục, Ích Kỷ và Sợ Chết.
HỎI:Như vậy, phải chăng ông không tin rằng người Yogi hành động trái với những định luật tự nhiên?
ĐÁP:Không khi nào; bởi vì không có gì xảy ra mà trái với những định luật Thiên Nhiên. Do pháp môn Hatha Yoga, người ta có thể thực hiện vài loại hiện tượng nhỏ, chẳng hạn như tập trung tất cả sinh lực của mình vào trong một ngón tay, hoặc, trong cơn thiền định, biết được những tư tưởng của người khác.
Bằng pháp môn raja Yoga, hành giả trở nên có phép thần thông; y có thể làm bất cứ việc gì tùy ý muốn, và biết bất cứ điều gì y muốn biết, chí đến những ngôn ngữ mà y chưa bao giờ học. Nhưng tất cả những việc ấy đều hoàn toàn phù hợp với những định luật tự nhiên.
HỎI:Đôi khi tôi được thấy những vật thể vô tri như thư từ, tiền đồng hay kim loại, bút chì, đồ nữ trang,v.v… được tạo ra thành những phó bổn thứ nhì ngay trước mắt tôi. Làm sao giải thích điều đó?
ĐÁP: Trong không gian có chứa đựng những nguyên tử của mọi vật thể hữu hình trong một trạng thái vô cùng tế vi. Người Yogi biết tập trung những nguyên tử đó bằng cách sử dụng Ý Chí, và tượng hình những vật thể đó theo kiểu mẫu mong muốn bằng trí óc sáng tạo của mình.
Đến đây, Đại Tá Olcott hỏi vị Swami có ý kiến gì về những hiện tượng thần thông mà bà HPB đã làm từ trước đến nay trước sự có mặt của nhiều nhân chứng, chẳng hạn như bà làm cho những hoa hường rơi xuống như mưa từ trên trần nhà trong một phòng khách ở Bénarès hồi năm ngoái, gây tiếng chuông reo trong không khí, làm cho ngọn lửa trong một cây d8en2 lu mờ dần cho đến khi hầu như sắp tắt, rồi truyền lệnh cho nó bùng cháy lên cao mà không động đến cái bộ phận vặn bấc đèn,v.v…
Câu trả lời là: Đó là những phép thuật thuộc lãnh vực của pháp môn Yoga. Vài loại hiện tượng nầy, những người làm trò ảo thuật có thể bắt chước, nhưng những phép thuật của bà HPB không phải thuộc về loại đó.”
Tôi nghĩ rằng đây là những quan điểm tóm lược đơn giản, rõ ràng, sáng sủa và gợi ý nhất về khoa pháp môn Yoga của Ấn Độ. Người đối thoại của tôi là một trong những nhân vật ưu tú nhất trong giới tu sĩ Bà La Môn, một người học vấn uyên thâm, một nhà tu khổ hạnh đầy kinh nghiệm, một nhà biện thuyết hùng hồn và một người có tinh thần cao nước yêu độ.
Sau đó ít lâu chúng tôi đã trải qua một giai đoạn khó khăn trong vấn đề giao tế nhân sự với Đạo Sư Dyanand Saraswati. Không có một lý do nhỏ nhặt nào, tự nhiên y có thái độ thù nghịch đối với chúng tôi. Yviet61 cho chúng tôi những bức thư lời lẽ gay gắt, nặng nề; kế đó y đấu dịu lai đôi chút; rồi lần sau y lại đổi giọng, và như thế y đặt chúng tôi vào một tình trạng căng thẳng thường xuyên.
Sự thật là tờ Tạp Chí của chúng tôi không thể là một cơ quan ngôn luận đặc biệt của môn phái Arya Samai, và chúng tôi cũng không chịu tách rời khỏi các nhóm tín đồ Phật Giáo và Hỏa Giáo, như điều y vẫn mong muốn. Hiển nhiên là y muốn bắt buộc chúng tôi phải chọn lựa một trong hai điều: hoặc là sự tiếp tục bảo trợ của môn phái y; hoặc là sự trung thành với lý tưởng không bè phái của chúng tôi. Và chúng tôi đã chọn lựa.Vì những lý tưởng và nguyên tắc của Hội, chúng tôi không chịu nhượng bộ bất cứ một áp lực nào từ bên ngoài.
Cũng xin nhắc lại rằng sau những lần tiếp xúc đầu tiên với chi phái Ấn Giáo Arya Samaj, Đạo Sư Dyanand đã cùng tôi thảo luận về những Điều Lệ mới của Hôi Thông Thiên Học. Y đã nhận lãnh một chân trong Hội Đống Quản Trị của Hội, cho tôi có thẩm quyền thay mặt y trong những cuộc biểu quyết của Hội Đồng bằng một văn thư chính thức, và hoàn toàn phê chuẩn kế hoạch của chúng tôi, là dung hòa những phân chi gồm có những tín đồ các giáo phái khac nhau như Phật Giáo, Hỏa Giáo Hồi Giáo Ấn Giáo,v.v…
Nhưng về sau, tinh thần khoan dung, không bè phái của y đã thay đổi trở thành óc bè phái, độc đoán, và sự thiện chí tốt đẹp của y đối với chúng tôi đã trở thành đố kỵ thù nghịch.
Chương chín
CUỘC VIẾNG THĂM TÍCH LAN
I
Chúng tôi đã quyết định viếng thăm đảo Tích Lan, do lời mời khẩn cấp của các vị chức sắc lãnh đạo Phật Giáo và Phật Tử xứ ấy, và đã bận rộn suốt một tháng để chuẩn bị lên đường.
Khi mọi việc đã chuẩn bị xong, chúng tôi xuống tàu chạy miền duyên hải của công ty hàng hải Anh Ấn đi Tích Lan. Ngoài bà HPB, ông Wimbridge và tôi, phái đoàn còn gồm có bạn Damodar và bốn người Ấn Độ khác.
Hình như phái đoàn chúng tôi là những hành khách duy nhất trên tàu. Trong chuyến đi nầy, nhờ chiếc tàu sạch sẽ, các sĩ quan hăng hái vui vẻ dễ mến, tiết trời quang đãng và những hải cảng ghé dọc đường đầy vẻ thích thú hấp dẫn, chúng tôi vui thích như đi nghỉ mát trên tàu riêng của mình. Bà HPB tinh thần đầy hứng khởi vui tươi, nói chuyện trào phúng khiến cho cả tàu đều vui nhộn. Vốn là người thích chơi bài tây, có khi bà ngồi suốt nhiều giờ mỗi ngày để đánh bài tiêu khiển với các sĩ quan trên tàu, ngoại trừ viên thuyền trưởng Wiakes, vì quy luật hàng hải ngăn cấm vị thuyền trưởng chơi bài với các chức viên trực thuộc.
Viên thuyền trưởng già là một người đẫy đà, vui tính, và không có mảy may tin tưởng nơi các vấn đề tâm linh hay huyền bí. Y thường nói đùa với bà HPB về những quan niệm của chúng tôi với một sự dốt nát về toàn thể vấn đề đến mức nó đã làm cho chúng tôi bất giác cười lớn. Ngày nọ, bà đang chơi bài một mình về môn chơi đơn độc mà bà thích thú nhất, thì vị thuyền trưởng bước vào và yêu cầu bà hãy nói tiên tri số mạng của ông ta bằng một quẻ bài. Thoạt tiên bà từ chối, nhưng sau cùng bà bằng lòng, và bảo ông ta kinh rồi lật bài lên bàn. Bà nói:
-Thật là lạ lùng, có thể nào lại như vậy!
Vị thuyền trưởng hỏi:
-Bà nói sao?
-Những gì hiện lên trên các lá bài. Kinh lần nữa.
Vị thuyền trưởng làm y theo lời, khi bài được chia và lật ngửa lên thì dường như cho thấy kết quả cũng giống y như lần trước, vì bà HPB nói rằng quẻ bài tiên tri một chuyện thật vô lý đến nỗi bà không muốn nói cho y biết. Viên thuyền trưởng khẩn khoản yêu cầu, bà mới nói rằng theo quẻ bài cho biết thì y sẽ không còn đi biển được bao lâu nữa; y sẽ được cấp trên đề nghị nhận một việc làm trên đất liền, và y sẽ giải nghệ. Viên thuyền trưởng to béo cười lớn, và nói cho bà biết rằng đó chính là điều mà y đang mong ước. Còn nói về việc từ bỏ nghề đi biển, thì không gì làm cho y thích thú hơn nữa, nhưng y không thấy có triển vọng được sự may mắn đó.
Việc ấy đến đây không ai nói thêm điều gì nữa, ngoài việc viên thuyền trưởng lập lại lời tiên tri ấy cho một sĩ quan nghe, rồi qua ông nầy, nó trở nên một vấn đề trào lộng chọc cười cho cả tàu! Nhưng chưa phải là hết. Một hay hai tháng sau khi chúng tôi trở về Bombay, bà HPB nhận được một bức thư của Thuyền Trưởng Wickes, trong đó y nói y phải xin lỗi bà về thái độ của y đối với quẻ bài, và y phải thú nhận rằng lời tiên tri ấy đã được thực hiện. Sau khi chúng tôi đổ bộ lên đảo Tích Lan, y tiếp tục chuyến đi đến Calcutta. Khi tàu cặp bến, y được đề nghị nhận lấy chức vụ hải quan ở cảng Karwar. Y bằng lòng nhận và đi chuyến trở về như một hành khách trên chiếc tàu của y!
Đây là một trường hợp điển hình trong nhiều quẻ bài tiên tri khác nữa của bà HPB. Tôi không nghĩ rằng những lá bài có ăn nhằm gì đến lời tiên tri ấy, trừ phi chúng có thể đã tác động như một cái khoen liên lạc giữa bộ óc linh thị của bà và cái hào quang tâm linh của vị thuyền trưởng, và bởi đó nó khích động khả năng thần nhãn của bà để nhìn thấy việc tương lai. Tuy nhiên, mặc dù bà có năng khiếu thần thông, tôi không thấy bà đã từng tiên liệu trước một việc nào trong số những biến cố đau thương và tổn hại thanh danh đã xảy đến cho bà do âm mưu của những kẻ phản bội và những kẻ thù nghịch đầy ác ý. Hoặc nếu có, bà cũng không hề nói với tôi hay với bất cứ một người nào theo chỗ tôi được biết. Có lần ở Bombay, bà bị mất trộm một kỷ vật đáng giá, nhưng bà vẫn không thể tìm ra kẻ gian, cũng không trợ giúp được nhân viên cảnh sát trong việc truy nã thủ phạm.
II
Nói về khả năng tiên tri, tôi nghĩ rằng có lẽ tôi cũng có đôi chút khi tôi viết trong Nhật Ký của tôi câu nầy một ngày trước khi đến hải cảng Colombo:
“Còn phải đương đầu với những trách nhiệm mới mẻ và lớn lao: những vấn đề quan trọng độc đáo còn tùy thuộc nơi kết quả của chuyến đi nầy”.
Thật không có gì đúng hơn nữa.
Chúng tôi bỏ neo ngoài khơi cảng Colombo vào sáng ngày 16 tháng 5, và sau đó một lúc, một chiếc tàu nhỏ tiến đến cặp vào hông tàu, có chở theo Đại Đức Megittuwatte Gunanda và vài nhà sư trẻ trong tu viện Phật Giáo của ông đến đón chúng tôi.
Đại Đức Megittuwatte tuổi độ trung niên, râu tóc cạo sạch, vóc vạc trung bình, trán cao, mắt sáng, miệng rộng, có tác phong đầy tự tín và dáng người rất nhanh nhẹn. Không như những nhà sư khác có vẻ trầm tư, mắt thường nhìn xuống đất khi nói chuyện, Đại Đức ngang nhiên nhìn thẳng vào người đối thoại. Ông là nhà diễn giả hùng biện, ăn to nói lớn nhất trong các giới lãnh đạo Phật Giáo ở xứ này, và là một mối kinh hoàng, nể sợ đối với các nhà truyền giáo Gia Tô. Vừa nhìn thấy ông, người ta biết ngay ông là một nhà tranh luận hơn là một tu sĩ khổ hạnh. Trong nhiều năm, ông là nhà lãnh tụ táo bạo, xuất chúng và có uy thế mạnh mẽ nhất của Phật giáo Tích Lan, và hiện nay là lãnh tụ phong trào phục hưng Phật Giáo tại xứ nầy. Sau khi chào hỏi chúng tôi một cách đặc biệt thân tình và nồng hậu, Đại Đức yêu cầu chúng tôi cứ tiếp tục ở trên tàu để đi tới cảng Galle, tại đây đã có sắp đặt mọi việc để dành cho chúng tôi một cuộc tiếp đón quan trọng: còn Đại Đức sẽ đích thân đáp xe hỏa đi Galle ngay chiều hôm đó.
Hừng sáng ngày hôm sau, chúng tôi đã ở ngoài khơi hải cảng Galle. Tàu bỏ neo ngoài khơi, cách bờ độ năm trăm thước, chúng tôi bước xuống một chiếc thuyền lớn được trang hoàng lịch sự, kết hoa sặc sỡ, trên đó có các vị chức sắc Phật Giáo cao cấp đến đón chúng tôi. Trên bến tàu và dọc theo bãi biển, một đám quần chúng khổng lồ đã đợi sẵn chờ chúng tôi đến, và đồng thinh hô to khẩu hiệu chào mừng: “Sahdu! Sahdu!” vang cả một góc trời!
Một khoảng đường được lót bằng vải trắng từ những bậc tam cấp ven bờ biển đưa lên mặt đường lộ, tại đây đã có xe chực sẵn, và muôn nghìn lá cờ được phất lên một cách ráo riết để nghinh đón chúng tôi. Quần chúng bao vây quanh và đi theo đoàn xe, cuộc diễn hành trực chỉ nơi trú quán dành sẵn cho chúng tôi, là biệt thự của bà Wijeratne, quả phụ của một nhà thầu tỷ phú tại Galle.
Khi đến nhà, có ba vị Sư Trưởng đón tiếp và ban ân huệ cho chúng tôi tại ngưỡng cửa, miệng lẩm nhẩm đọc kinh chúc lành bằng thổ ngữ Nam Phạn Pali. Kế đó, chúng tôi có một buổi hội kiến với các nhân vật địa phương, và vô số quan khách đến chào mừng. Bà Wijeratne và con trai bà lo săn sóc phục dịch chúng tôi một cách chu đáo tận tình. Trên các bàn lớn giữa nhà luôn luôn có đầy những mâm kẹo bánh, thực phẩm ngon lành và hoa quả, trái cây tươi ngon cỡ thượng hạng không đâu sánh kịp. Từng chặp một, lại có một cuộc diễn hành mới, gồm các phái đoàn sư sãi áo vàng, sắp đặt theo thứ tự thâm niên của họ kể từ khi xuất gia quy y, tuần tự đến viếng và chúc lành chúng tôi. Thật là một kinh nghiệm độc đáo, một điều triệu tốt lành rực rỡ mở màn cho những mối quan hệ tương lai của chúng tôi với xứ nầy.
Trong thời gian sau đó, luôn luôn chúng tôi có khách đến viếng đầy nhà và vãng lai không ngớt suốt ngày, ngày nào cũng như ngày ấy. Những cuộc thảo luận về Đạo Lý vẫn tiếp diễn không ngừng với vị Sư Trưởng cao niên Bulatgama Sumanatissa và những nhà sư thông thái khác.
Do sự sắp đặt của Ban Tổ Chức, tôi nói một bài thuyết pháp công cộng vào ngày 22 về Thông Thiên Học trước một cử tọa đông đảo chật ních cả hội trường. Ngoài phái đoàn của chúng tôi, còn có đủ mặt tất cả các Sư Trưởng và chức sắc của nhiều chi phái Phật Giáo đến dự thính.
Cuộc thăm viếng nầy của chúng tôi là bước khởi đầu giai đoạn thứ nhì của phong trào phục hưng Phật Giáo do Đại Đức megittuwatte đã khởi xướng trước đây. Đó là một phong trào nhằm mục đích quy tựu toàn thể các giới thanh thiếu niên Tích Lan vào những trường học Phật Giáo dưới sự tổng giám sát của chúng tôi. Tờ thông tri dưới đây do bạn Damodar chánh thức công bố, cho thấy những bước đầu do chúng tôi thực hiện, để đưa đến việc thành lập những chi bộ Thông Thiên Học trên đảo Tích Lan.
Thông tri
Một cuộc hội họp sẽ được tổ chức vào chiều thứ hai tới đây tại Minuvengoda vào lúc 20 giờ, trong dịp nầy Đại Tá Olcott sẽ trình bày về những mục đích của Hôi Thông Thiên Học. Sau đó, quý vị nào muốn gia nhập Hội, có thể ghi tên vào sổ.
Galle, ngày 22 tháng 5, năm 1880
(Thừa lệnh)
Damodar K. Mavalankar
Phó Tổng Bí Thư Hội Thông Thiên Học
Cuộc hội họp ấy do vị Sư Trưởng Bulatgama chủ tọa, và Đại Đức Megittuwatte khai mạc bằng một bài diễn văn hùng hồn làm khích động lòng người.
Ngày hôm sau, có mười một thí sinh đầu tiên được tôi thâu nhận vào hàng ngũ Hội viên, và cùng với họ, tôi tổ chức Chi Bộ Thông Thiên Học tại Galle. Thế rối bắt đầu một cuộc hành trình dài hạn để viếng thăm nhiều thành phố khác nhau ở các vùng đại phương trên đảo. Những sự việc đã xảy ra tại Galle lại tái diễn ở các nơi khác: những cuộc tiếp đón long trọng; những sự vui mừng nồng nhiệt của quần chúng; những buổi thuyết pháp trước những cử tọa đông đảo, thường có đến vài ngàn người; những cuộc viếng thăm các tu viện, chùa chiền, đàm đạo giáo lý với các vị Sư Trưởng và các vị sư tăng ưu tú lỗi lạc,v.v…
Với cái đà diễn biến đó, lần lần tôi thành lập các Chi Bộ Thông Thiên Học tại Colombo, với hai mươi bảy hội viên mới; Chi Bộ Kandy với mười bảy hội viên; các Chi Bộ Lanka, Bentota (hai mươi ba hội viên), Welitara, Panadure, Matara,v.v… Ngoài ra, tôi còn nhận được hàng chục thơ mời đến viếng những làng mạc xa xôi ở các vùng quê hẻo lánh. Thế là, sau cuộc viếng thăm các thành phố lớn, tôi bắt đầu đi thăm viếng các vùng làng mạc và thôn quê.
III
Nếu có ai nghĩ rằng cái ảnh hưởng mà Hội Thông Thiên Học đã gây nên ở các xứ phương Đông, đã thu hoạch được dễ dàng mà không phí tổn công lao khó nhọc, họ hãy đọc qua những trang của quyển Hồi Ký này.
Ngày ngày hoạt động, suốt tuần, suốt tháng, suốt năm, đều được ghi chép về những chuyến đi công tác đạo sự bằng tất cả mọi loại phương tiện di chuyển, từ toa xe lửa, cho đến các loại xe ngựa, xe thồ, lớn nhỏ đủ kiểu, do một con ngựa hay con bò kéo. Có khi đi bằng thứ xe bò thông dụng ở vùng đồng quê, với những bánh xe to lớn, chỗ ngồi làm bằng tre phủ lên một lớp rơm mỏng, do một cặp bò gù lưng mang trên cổ một cái ách bằng cây kéo đi chậm chạp. Có khi đi bằng thuyền ván đóng sơ sài với một mái che bằng lá dừa thiếu tiện nghi, chỗ ngồi không có ghế hoặc nệm chi cả. Khi thì ngồi trên lưng voi trong một cái bành, hoặc thông thường hơn nữa là lưng voi không có bành, mà chỉ có một tấm nệm dầy buộc vào mình voi bằng những sợi dây to lớn.
Có khi di chuyển trong những ngày sáng sủa tốt trời, có khi gặp những ngày mưa dầm như trút nước, có khi đi trong những đêm trăng sáng, có đêm đi dưới ánh sao. Có những đêm, giấc ngủ của tôi bị gián đoạn bởi những âm thanh, tiếng động chọc phủng lỗ tai của cái thế giới sâu bọ trong rừng già của vùng nhiệt đới, tiếng kêu rùng rợn của loài chó rừng, tiếng động từ xa của những con voi rừng đi xuyên qua các bãi mía, những tiếng hò hét không ngừng của người phu xe thúc đẩy những con bò chậm chạp, và những bài dân ca của y hát vang, thường trộn lẫn với những âm thanh chát chúa để giữ cho y khỏi buồn ngủ dọc đường.
Ngoài ra, còn có những đám muỗi mòng vây phủ quanh mình bạn khi ngồi trên xe, với những tiếng kêu inh ỏi và những mũi dùi của chúng, gây nên một thứ cực hình chậm chạp và những nết sưng trắng nổi lên da thịt sáng ngày hôm sau.
Kế đó, là lúc đến nơi, xe tiến vào các làng mạc lúc trời hừng sáng; toàn thể dân làng đứng chực sẵn hai bên đường để đón tiếp bạn; sự tò mò của họ phải được thỏa mãn; những sự khó khăn gặp phải khi bạn cần tắm rửa sạch sẽ khi vừa đến nơi, sau chuyến đi vất vả mệt nhọc; buổi ăn sáng điểm tâm với cà phê, bánh hấp và trái cây; cuộc viếng thăm nơi các tịnh xá, tu viện; những cuộc thảo luận về kế hoạch, chương trình hành sự và những triển vọng tương lai với các nhà lãnh đạo Phật Giáo; một buổi thuyết pháp ở chỗ lộ thiên, hoặc nơi một giảng đường nếu có, trước một đám quần chúng đông đảo.
Kế đó, là việc ghi tên họ những người quyên góp vào quỹ phước thiện, cho thỉnh kinh sách Phật Giáo nhập môn vá Phật Giáo Vấn Đáp. Đến chiều, có khi còn phải nói một buổi thuyết pháp thứ nhì cho những người mới đến sau từ những làng lân cận. Rối đến những màn từ giã, giữa những tiếng trống dồn dập và tiếng kèn bổn xứ inh ỏi vang tai, những dân làng phất cờ tiễn đưa và kêu to khẩu hiệu “Sadhu! Sadhu!”, rồi lại tiếp tục chuyến đi qua những làng khác trên chiếc xe bò kêu kiũ kịt.
Bấy nhiêu sự việc vẫn tiếp diễn ngày này qua ngày khác, trong khi tôi đi châu du hành đạo khắp nơi trong miền Tây đảo Tích Lan, làm cho quần chúng lưu ý đến vấn đề giáo dục con em theo đường lối, tôn chỉ nền quốc giáo của dân tộc họ, phân phát kinh sách, và kêu gọi sự quyên góp, cúng dường vào quỹ Phật Giáo để thực hiện kế hoạch công ích vĩ đại nầy.
…………………………………………………………………………..
Ngày 12 là ngày cuối cùng của chúng tôi trên đảo Tích Lan. Ngày 13, tàu đến, và chúng tôi lên tàu lúc hai giờ trưa, để lại sau lưng chúng tôi nhiều bạn hữu ứa lệ vì tiếc thương, và đem theo chúng tôi nhiều kỷ niệm êm đềm của tình tương thân tương ái, sự vui lòng trợ giúp, và thiện chí tốt đẹp. Thêm vào đó là cái kỷ niệm của những chuyến đi hành đạo thích thú thần tiên với những danh lam thắng cảnh đẹp như mơ, những đám quần chúng đầy hứng khởi nhiệt thành, và những kinh nghiệm lạ lùng, cũng khá đủ tràn đầy ký ức với những hình ảnh sống động, để còn hối tưởng lại trong những năm về sau với một niềm sung sướng triền miên, với sự trợ giúp của vài hàng Nhật Ký cũ.
Chương Mười
MỘT CUỘC KHỦNG HOẢNG NỘI BỘ
I
Vào khoảng cuối năm 1879, bắt đầu có sự bất hòa trong cuộc sống tập thể của nhóm bốn người trong chúng tôi, nó là cái nguyên nhân đưa đến sự phân ly giữa nhóm người lưu vong khởi hành từ Mỹ Quốc sang đây. Sự kết hợp của nhóm người nầy là một điếu vô lý và phản tự nhiên, một sản phẩm kỳ khôi ngông cuồng của bà HPB và đương nhiên là phải gây xáo trộn.
Bà HPB và tôi, như đã nói trước đây, vẫn luôn luôn đồng một quan điểm về vấn đề các Chân Sư, sự liên hệ giữa chúng tôi với các Ngài, và về lý tưởng phụng sự. Dầu cho giữa chúng tôi một đôi khi có sự va chạm nào, do bởi sự cách biệt phàm ngã và bởi cái nhìn khác biệt nhau về các vấn đề thế sự, chúng tôi vẫn luôn luôn hoàn toàn hòa hợp ý kiến về một lý tưởng chung và về việc thực hiện cái lý tưởng đó. Nhưng đối với hai người bạn kia thì lại khác. Ông Wimbridge và cô Bates đều là người Anh, và chỉ được phết một lớp sơn hiểu biết nông cạn về các vấn đề huyền học, siêu hình, do lòng hứng khởi nồng nhiệt của bà HPB truyền sang. Ông W. là một họa viên và kiến trúc sư, còn cô B. là một nữ giáo viên dạy trẻ, độ chừng ba mươi lăm tuổi. Cả hai đều đã sống vài năm ở Mỹ, và được giới thiệu cho bà HPB do những bạn quen của đôi bên. Cả hai đều tán thành kế hoạch của bà HPB theo đó họ sẽ cùng đi với chúng tôi sang Ấn Độ để hành nghề tùy khả năng của mỗi người, với sự trợ giúp có thể tìm cho họ do ảnh hưởng của chúng tôi đối với những người Ấn Độ có thế lực.
Tôi không có gì phiền trách ông W., nhưng cảm thấy một sự đố kỵ tự nhiên đối với cô kia. Tôi yêu cầu bà HPB đừng cho cô ấy đi theo chúng tôi. Bà luôn luôn đáp rằng vì cả hai đều là người Anh có tinh thần quốc gia yêu nước, nên có họ đi cùng với mình sẽ là một sự bảo đảm đối với nhà cầm quyền Anh Ấn, cho thấy sự vô tư của chúng tôi, hoàn toàn không có ý đồ hay mục tiêu chánh trị. Bà còn nói bà sẽ gánh chịu tất cả mọi hậu quả của việc này, vì bà biết rằng sự liên hệ với hai người ấy hoàn toàn vô hại. Trong việc nầy, cũng như trong một trăm trường hợp khác nữa, tôi luôn luôn nhượng bộ trước sự tiên kiến chắc hẳn là huyền diệu và cao siêu hơn của bà; và thế là chúng tôi tất cả bốn người cùng vượt biển sang Ấn Độ và cùng định cư chung với nhau ở Bombay. Nhưng than ôi! Thật là không may mắn chút nào! Cô ấy bắt đầu gây nên một sự hiểu lầm giữa bà HPB và một thiếu phụ khác, Hội Viên Hội Thông Thiên Học ở Nữu Ước, lôi cuốn ông W. vào cuộc tranh chấp, và làm tan vỡ sự hòa hợp trong nhóm chúng tôi. Tôi không có dính dáng gì về sự hiềm khích ấy, nhưng sau cùng tôi phải đảm nhiệm cái công tác không thú vị, là bắt buộc cô Bates phải đi ra khỏi Hội.
Đó là cái số phận luôn luôn được gán ghép cho tôi: bà HPB là người vô tình gây nên những vụ cãi lẫy, tranh chấp, còn tôi phải hứng chịu những cú đấm đá và đuổi cổ những kẻ bất hảo! Điều nầy, tất cả những bạn bè quen thuộc của chúng tôi đều biết rõ. Bà bạn tôi luôn luôn nói đến năng khiếu “linh cảm,linh giác” của bà, nhưng cái năng khiếu đó rất ít khi giúp bà phát hiện một kẻ phản bội hay một kẻ thù truyền kiếp đến với chúng tôi dưới ngụy trang của một tình bạn giả tạo.
II
Trong chuyến đi Tích Lan kể trên, chúng tôi để cô Bates và bà Coulomb ở lại coi sóc Hội Quán. (Ông bà Coulomb là hai người Pháp vừa mới đến giúp việc cho chúng tôi). Vì cô Bates là gái độc thân, còn bà Coulomb đã có kinh nghiệm về nội trợ, nên tôi bỗng có cái ý nghĩ dại dột là bảo cô Bates hãy giao chức quản gia của cô lại cho bà Coulomb, còn cô lãnh nhiệm vụ khác. Cuộc đời làm gia trưởng trên mười lăm năm của tôi vẫn chưa dạy cho tôi biết điều khôn dại nầy, là đừng nên để cho một người mới đến có cái cơ hội làm “bà chủ” để sai phái chỉ huy người đàn bà kia! Bây giờ thì tôi đã biết rồi. Khi chúng tôi trở về Bombay, thì thấy Hội Quán có một bầu không khí rất căng thẳng: cô Bates và bà Coulomb đang xung đột nhau, tất cả mọi sự tố giác và phản kích được cả hai người đổ vào lỗ tai không muốn nghe của chúng tôi! Cô Bates tố bà Coulomb toan bỏ thuốc độc cho cô, và bà nầy cũng trả đũa bằng một sự tố giác tương tự, ăn miếng trả miếng.
Tôi muốn lấy chổi quét cả hai ra khỏi nhà, và đó là một điều rất tốt nếu tôi có thể làm như vậy. Nhưng thay vì như thế, tôi lại được mời làm phán quan phân xử những sự tranh chấp cãi lẫy của họ. Thế là tôi đành phải ngồi nghe những chuyện vô lý của họ suốt hai đêm liên tiếp, và sau cùng tôi quyết định rằng vụ tố giác bà Coulomb bỏ thuốc độc không đủ lý do buộc tội vì không có bằng chứng cụ thể. Cái lý do chính của vụ xung đột là vì chúng tôi đã giao chức vụ quản gia cho bà Coulomb trong khi chúng tôi vắng mặt, và cô Bates không hài lòng với nhiệm vụ biên tập viên tạp chí mà chúng tôi giao cho cô. Trong khi tôi phân xử, bà HPB ngồi kế bên; bà có vẻ hút thuốc lá nhiều hơn lúc thường, và thỉnh thoảng cũng góp một lời, nhưng ý kiến của bà lại có khuynh hướng làm tăng gia hơn là làm dịu bớt sự căng thẳng. Sau cùng, ông Wimbridge, với tư cách là bạn của cô Bates, cũng đồng ý với tôi để bắt buộc cả hai đàng phải chịu hòa giải,và tạm thời cơn giông tố đã lắng dịu.
Những ngày kế đó, chúng tôi hoàn toàn bận rộn với công việc sưu tập và soạn bài cho tờ tạp chí “Theosophist”, một việc đã trở nên rất khẩn thiết sau thời gian vắng mặt khá lâu của chúng tôi.
Ngay trước khi trở về Bombay, chúng tôi được tin bạn Mulji Thackersey đã từ trần, và thế là Hội Thông Thiên Học đã mất một cộng tác viên đắc lực.
Chiều tối ngày 4 tháng 8 năm ấy, một vị Chân Sư đến viếng bà HPB, và tôi được gọi đến để gặp Ngài trước khi ngày từ giã. Ngài đọc cho tôi viết một bức thư dài rất quan trọng cho một người bạn đạo có thế lực của chúng tôi ở Paris, và đưa cho tôi những sự gợi ý quan trọng về vấn đề quản trị công việc của Hội. Tôi được mời ra ngoài trước khi cuộc viếng thăm kết thúc, và vì tôi để Ngài ngồi lại trong phòng với bà HPB, nên tôi không thể biết rằng Ngài đã ra đi bằng cách nào, và Ngài có biến mất một cách mầu nhiệm hay không.
Cuộc viếng thăm ấy đến với tôi rất đúng lúc, vì chính vào ngày hôm sau, đã xảy ra một vụ nổ lớn: cô Bates phẫn nộ với bà HPB về một việc có liên quan đến người thiếu phụ ở New York kể trên, và căm giận quyết định của tôi trong vụ phân xử cuộc xung đột giữa cô với bà Coulomb. Trong khi cô day lưng về phía tôi và còn đang cãi vã với bà HPB, thì một bức thư của vị Chân Sư đến chiều hôm trước, từ trên không trung rơi xuống chỗ tôi ngồi. Tôi mở thư ra xem, thì thấy đó là lời khuyên của Ngài về hành động tốt nhất mà tôi phải làm trong cơn khó khăn hiện tại.
Ngày hôm sau, bắt đầu cuộc chia ly giữa bốn người trong nhóm chúng tôi; ông Wimbridge đứng về phe cô Bates. Có sự đồng ý chung về kế hoạch mua vé tàu cho cô Bates trở về New York, nhưng rốt cuộc điều nầy đã bị cô bác bỏ, sau khi một bạn đạo là ông Seervai đã lo sắp đặt xong mọi việc và làm các thủ tục cần thiết. Thật là một điều đáng tiếc vì câu chuyện xảy ra do sự ganh tị, hiềm khích nhỏ nhen giữa đàn bà, một vụ xung đột thật vô lý và không đáng xảy ra, đáng lẽ nó có thể tránh khỏi bằng cách sử dụng lý trí và có một ít nhẫn nhục, tự chủ. Tuy rằng đối với chúng tôi, chuyện ấy không có gì đáng bận tâm, nhưng nó đã gây một ảnh hưởng xấu cho Hội. Một hậu quả đáng tiếc là những người ly khai đã tìm cách liên hệ với một tờ nhật báo bổn xứ ở Bombay, từ trước vẫn không hề có thiện cảm với chúng tôi, và tờ báo này đã công khai mạ lỵ Hội Thông Thiên Học với những lời lẽ cay đắng vẫn còn tiếp tục cho đến bây giờ.
III
Cộng thêm vào cái viễn ảnh đen tối đó, sau chuyến đi Tích Lan trở về, chúng tôi thấy những Hôi viên đều im lìm mê ngủ và Chi Bộ Bombay hoàn toàn bất động. Hai tháng vắng mặt của chúng tôi dường như đã làm tê liệt mọi hứng thú đối với công việc Hội, và khi tờ nhật báo bổn xứ nói trên bắt đầu khai pháo tấn công chúng tôi, thì vòm trời của chúng tôi rất u ám. Tuy vậy, chúng tôi vẫn tiếp tục với một ý chí kiên cường dũng mãnh, và cố gắng cho tờ tạp chí ra đúng kỳ hạn mỗi tháng, và trả lời thư từ bốn phương gửi đến cho chúng tôi với số lượng càng ngày càng nhiều. Đó là một trong những cơn khủng hoảng của Hội, mà trong tình trạng hầu như cô đơn, bà HPB và tôi cùng sát cánh với nhau một cách chặt chẽ nhất để hỗ trợ tinh thần và khích lệ lẫn nhau. Tuy rằng những bạn bè thân tín nhất có thể phản bội và những cộng tác viên đắc lực nhất có thể bỏ cuộc nửa chừng, chúng tôi luôn luôn nói với nhau những lời lẽ đầy lạc quan, cố ý làm cho nhau nghĩ rằng cơn nghịch cảnh hiện tại không có gì đáng kể, và sẽ trôi qua như một cụm mây thưa thớt của mùa hè. Khi đó, chúng tôi biết, vì cả hai chúng tôi đều có bằng chứng cụ thể và thường xuyên, rằng các đấng Cao Cả mà chúng tôi phục vụ, luôn luôn bao bọc che chở chúng tôi với nguồn thần lực mạnh mẽ và ân huệ của các Ngài; đó là một cái khiên vững chắc để bảo vệ chúng tôi khỏi mọi sự trắc trở nguy vong, và một điềm triệu báo trước sự thành công hoàn toàn trong sứ mạng.
Tuy nhiên, với thời gian qua chúng tôi không đến nỗi cô đơn. Một trong số bạn đạo người Ấn Độ thường xuyên đến trợ giúp chúng tôi, và lần lần chúng tôi phục hồi lại được cái tư thế đã mất của thuở ban đầu.
Trong số những người cộng tác đắc lực với chúng tôi, có bạn Damodar Mavalankar, một thanh niên Ấn thuộc giòng Bà La Môn mà chúng tôi đã nhiều lần đề cập tới trước đây. Tuy dáng người mảnh mai, ốm yếu, y đã lao mình vào công việc đạo sự với tất cả tâm hồn và biểu lộ một tấm lòng trung kiên sắt đá không gì lay chuyển. Hồi còn thơ ấu, vướng một chứng bịnh ngặt nghèo và bị sốt nặng sắp chết, trong cơn mê sảng y nhìn thấy linh ảnh một bậc hiền giả đạo mạo bước đến gần, nắm tay y và bảo y chưa nên chết vội, mà phải sống để làm việc Đạo trong tương lai. Sau khi gặp bà HPB, nhãn quang tâm linh của Damodar phát triển lần lần, và y nhận ra đấng mà chúng tôi gọi là Chân Sư K.H., chính là nhà hiền giả đã xuất hiện trong cơn mê sảng của y hồi còn trẻ thơ, khi y nằm hấp hối trên gường bệnh.
Điều nầy đã làm cho y quyết tâm trung thành với lý tưởng và mục đích của chúng tôi; và y coi bà HPB như người mẹ đỡ đầu. Đối với tôi y đặt một niềm tin tuyệt đối, lẫn cả tình thương và lòng kính trọng. Y binh vực tôi khi tôi vắng mặt, trước những sự vu khống công khai hay riêng tư, và đối xử với tôi như con đối với cha.
Damadar đã hợp tác chặt chẽ và sát cánh với chúng tôi trong tình thân hữu đậm đà nhất. Y làm việc với một lòng trung thành và vô kỷ tuyệt đối cho đến năm 1885, khi đó y khởi hành từ Madras sang Tây Tạng, qua Darjiling, và vẫn còn ở đó dưới sự huấn luyện của Chân Sư để chuẩn bị cho y làm công tác phụng sự cho nhân loại trong tương lai. Thỉnh thoảng, có tin đồn nhảm được loan truyền rằng y đã chết trên lộ trình đầy tuyết phủ trong chuyến đi lên dãy Tuyết Sơn, nhưng tôi có lý do vững chắc để tin rằng y còn sống mạnh khỏe và có ngày y sẽ trở về. Tôi sẽ trở lại vấn đề nầy ở một đoạn sau.
Có lần Damodar nhận được bốn bức thư gởi đến từ bốn thành phố cách nhau rất xa và tất cả đều có đóng dấu sở Bưu Điện. Tôi đưa tất cả cho Giáo Sư Smith, yêu cầu ông hãy vui lòng xem xét cẩn thận mỗi bao thư xem có dấu hiệu gì chỉ rằng có ai đã bóc ra không, vì trong thư tín của chúng tôi, thường thấy có những lời ghi chú của Chân Sư viết thêm vào những khoảng trống. Sau khi đã khám xét tỉ mỉ,Giáo sư trả lại cho tôi và nói rằng tất cả các thư đều còn nguyên vẹn hoàn toàn, không có dấu vết gì khả nghi. Tôi mới yêu cầu bà HPB hãy thử "nhìn" xem có thông điệp nào của Chân Sư trong đó không. Bà bèn cầm lấy các thư vẫn còn nguyên vẹn, để từng cái một lên trán, và nói rằng trong hai bức thư có chữ viết của Chân Sư. Kế đó bà đọc các thông điệp bằng khả năng linh thị, và tôi bèn yêu cầu Giáo Sư Smith hãy tự tay ông mở các bao thư. Ông này săm soi xét kỹ các bao thư lại một lần nữa rồi lấy dao rọc mở các bao, và tất cả chúng tôi đều nhìn thấy rằng nội dung các thông điệp đều giống y như bà HPB đã đọc bằng thần nhãn.
Chính vào ngày chia ly giữa nhóm chúng tôi như đã kể trên, chúng tôi nhận được thư ông Sinnett mời chúng tôi lên chơi tại nhà nghỉ mát của ông ở Simla, thủ đô mùa hè của chính phủ Ấn Độ, ở dưới chân dãy Tuyết Sơn. Chúng tôi rời khỏi Bombay bằng xe lửa, và dọc đường chúng tôi ghé lại vài thị trấn trên miền Bắc để viếng thăm các Chi Bộ đã thành lập trước đây. Kế đó, chúng tôi ngồi xe thồ leo đường dốc núi đến Kalka, nghỉ ngơi tại đó hết nửa ngày rồi mới thuê xe ngựa để đi Simla. Cảnh vật miền núi thật là hùng vĩ, ngoạn mục với những đỉnh núi cao trùng điệp nối tiếp nhau đến tận chân trời. Chúng tôi đến thị trấn Simla trước khi mặt trời lặn, những ngôi biệt thự phản chiếu ánh nắng vàng làm cho thành phố có vẻ rất hấp dẫn. Một người nô bộc của gia đình ông Sinnett đón tiếp chúng tôi khi vào thành phố, với những chiếc kiệu nhỏ hai người khiêng ở hai đầu, và không bao lâu chúng tôi đã đến ngôi biệt thự của ông bà Sinnett, tại đây một cuộc tiếp đón nồng hậu đang chờ đợi chúng tôi.
Chương mười một
VIẾNG THỊ TRẤN SIMLA
I
Thị trấn Simla phô bày trước mắt chúng tôi những cảnh tượng rất hùng vĩ của miền sơn cước. Ngôi biệt thự của ông Sinnett tọa lạc trên một sườn núi, nhìn xuống một vùng thung lũng rất ngoạn mục, và ngồi trên hàng ba nhà ông, người ta có thể nhìn thấy những biệt thự của phần nhiều những vị quan chức Anh Ấn cao cấp nắm guồng máy cai trị cả một đế quốc rộng lớn nầy.
Sáng ngày hôm sau, cử chỉ đầu tiên của ông Sinnett là bắt đầu có một cuộc nói chuyện rất nghiêm trọng với bà HPB về chính sách mà bà nên theo đuổi. Ông khẩn khoản yêu cầu bà hãy nên coi cuộc viếng thăm nầy như một chuyến đi chơi giải trí mà thôi, và trong thời gian ba tuần lễ ở tại đây, bà đừng nói gì đến Hội Thông Thiên Học cũng đừng đề cập đến việc chúng tôi bị chính phủ theo dõi vì bị tình nghi là gián điệp của Nga. Nói tóm lại, hãy quên đi việc riêng của mình, mà tốt hơn hãy đạt kết quả bằng cách gây cảm tình trong các giới quen biết tại đây, những giới nầy sẽ không có thiện cảm nếu họ bị bắt buộc phải nghe những quan niệm dị kỳ của chúng ta và nghe những sự than phiền về những nỗi bất công vô lý mà chúng ta phải chịu.
Lẽ tất nhiên, bà HPB hứa sẽ nghe theo, và cũng lẽ tất nhiên, bà quên hết tất cả khi người khách đầu tiên vừa bước chân vào nhà. Những tin tức từ Bombay về hậu quả của vụ xung đột với cô Bates làm cho bà xúc động đến cực điểm, và sáng ngày hôm sau, như thường lệ, bà trút hết tất cả mọi tội lỗi, trách nhiệm lên đầu tôi. Bà dậm chân đi bách bộ tới lui trong phòng và nói độc thoại cơ hồ như tôi là cái nguyên nhân của tất cả mọi sự đắng cay khổ sở của bà. Sau đó, ông Sinnett, trong một buổi nói chuyện riêng với tôi, có bày tỏ sự thất vọng mà thấy rằng bà không chịu tự chủ lấy mình, mà đã bỏ mất tất cả những cơ hội kết thân với những người mà mình rất cần gây thiện cảm như một điều tối ư quan trọng. Ông nói rằng người Anh luôn luôn coi đức tự chủ, điềm nhiên như một dấu hiệu của giá trị nhân bản thực sự của con người.
Bà bạn trung kiên của chúng tôi, Gordon phu nhân, là vị khách đầu tiên của chúng tôi tại Simla, và sau đó nối tiếp nhau một loạt những quan chức quan trọng nhất của chính phủ, mà ông Sinnett mời đến nhà để gặp bà HPB. Trong tập Nhật Ký của tôi có chép rằng bà bắt đầu làm những hiện tượng thần thông ngay lập tức. Từ ngày đầu tiên cho đến sau, không một buổi dạ tiệc nào được coi như đầy đủ mà không có sự biểu diễn những phép thuật của bà HPB, chẳng hạn như phát động tiếng gõ nhịp dưới mặt bàn và tiếng chuông reo trong không khí,v.v... Thậm chí, bà còn làm cho tiếng chuông reo ở trên và bên trong đầu của những vị chính khách nghiêm trang khả kính nhất.
Từ trước đến nay, chúng tôi vẫn bị chính phủ ghét và theo dõi vì bị nghi ngờ là nhân viên gián điệp của Nga. Một mục tiêu của chuyến đi nầy là phải làm sao giải tỏa sự hiểu lầm vô lý đó để cho công việc làm của chúng tôi ở Ấn Độ khỏi bị ngăn trở, chướng ngại. Nhưng tôi đợi cho đến khi chúng tôi đã đích thân gặp gỡ và tiếp xúc với tất cả những vị quan chức ở cấp lãnh đạo, để cho họ có cơ hội nhận xét trực tiếp về tác phong, hạnh kiểm và ý đồ khả hữu của chúng tôi khi đến xứ Ấn Độ.
Khi nhận thấy đã đến lúc, một ngày nọ sau bữa ăn tối, tôi nói chuyện một cách thân hữu với vị Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ trong chính phủ, và sắp đặt một cuộc trao đổi thư từ, kèm theo với những bổn sao các văn kiện, chứng thư riêng của tôi. Vì tính cách lịch sử và tầm mức quan trọng của vấn đề nầy, nên tôi in lại nguyên văn bức thư của tôi như sau:
Simla, ngày 27 tháng 9 năm 1880
Kính gởi: Ông Bộ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.
Thưa ông Bộ Trưởng,
Tham chiếu cuộc đàm thoại giữa chúng ta ngày thứ bảy vừa qua về Hội Thông Thiên Học và công việc của Hội tại Ấn Độ, và thể theo lời đề nghị của tôn ông, tôi xin trình bày vấn đề lại bằng văn thư.
1.-Hội Thông Thiên Học được tổ chức tại New York năm 1875 do bởi một số học giả khoa Đông Phương học và Tâm Linh học, nhằm mục đích học hỏi khảo cứu các tôn giáo, triết lý và khoa học cổ của Á Châu với sự trợ giúp của các nhà học giả, chuyên viên bổn xứ.
2.-Ngoài những mục đích kể trên, Hội không có mục đích nào khác nữa, và nhất là không có ý định xen vào các vấn đề chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu.
3.-Năm 1878, hai nhà sáng lập Hội, là bà H.P.Blavatsky, một công dân nhập quốc tịch Mỹ(*)[i] và là một học giả khoa Tâm Linh Học Á Châu và tôi, cùng với hai hội viên khác (thuộc quốc tịch Anh) đã đến Ấn Độ để xúc tiến công việc của Hội. Vì lẽ hai người trong nhóm chúng tôi là ngưới Anh, người thứ ba có quốc tịch Mỹ, và tôi là một công dân sinh trưởng tại Mỹ Quốc, nên chúng tôi không hề dính líu đến vấn đề chính trị của xứ Ấn Độ. Riêng tôi có một thẻ thông hành đặc biệt (theo thể thức ngoại giao) của Ngoại Trưởng Evarts cấp cho tôi, với một chứng thư của Bộ Ngoại Giao Mỹ giới thiệu cho tôi các vị Đại sứ và lãnh sự Mỹ ở hải ngoại, cùng với một chứng thư tương tự viết tay của Tổng Thống Hoa Kỳ. Những bổn sao các văn kiện trên đã được lưu trữ tại Văn Khố của chính phủ tiểu bang Bombay, và sẽ được gởi đến Bộ Ngoại Vụ Ấn Độ trong nay mai.
4.-Những báo cáo sai lầm, do bất minh hay ác ý, về mục đích của chúng tôi tại Ấn Độ, đã được đệ trình lên chính phủ Ấn, bởi đó chúng tôi bị đặt dưới sự canh chừng và theo dõi của nhân viên công lực, nhưng công việc nầy đã được thi hành một cách vụng về đến nỗi nó làm cho cả nước đều chú ý, và người dân bổn xứ thấy rằng mọi liên hệ với chúng tôi sẽ gây ác cảm đối với chính quyền, và sẽ ảnh hưởng bất lợi đến tương lai của họ.
Như vậy, những kế hoạch lợi ích của Hội chúng tôi bị ngăn trở một cách trầm trọng, và chúng tôi phải chịu nhiều sự ngược đãi hoàn toàn không có lý do chính đáng, do hậu quả hành động của chính phủ căn cứ trên những tin đồn nhảm và thất thiệt.
5.-Bất cứ người nào đã từng có dịp biết rõ sự thật, đều nhận thấy rằng trong thời gian lưu trú của chúng tôi trên mười tám tháng nay ở Ấn Độ, chúng tôi đã gây một ảnh hưởng lành mạnh và bảo thủ đối với dân bổn xứ, và được họ chấp nhận như những người bạn tốt lành, chân chính của dân tộc và xứ sở họ. Chúng tôi có giữ nhiều thư từ gởi đến từ khắp mọi nơi trên xứ Ấn Độ để chứng thực điều ấy.
Nếu chính phủ có thể giải tỏa những sự bất lợi mà họ đã vô tình gây cho chúng tôi, và phục hối trở lại thanh danh mà chúng tôi vẫn có trước khi cái nhãn hiệu "âm mưu chính trị" bị chụp mũ lên đầu chúng tôi một cách tàn nhẫn và bất công như đã kể trên, thì chúng tôi sẽ có thể làm một công việc phụng sự lớn lao không những cho dân chúng Ấn Độ mà còn cho cả nền văn hóa và khoa học Đông Phương.
Nếu lịnh cho nhân viên mật thám theo dõi chúng tôi chỉ bị hủy bỏ không thôi cũng vẫn chưa đủ, vì sự nghi ngờ đã âm thầm tác động từ trên xuống dưới trong guồng máy cai trị của chính phủ, xuyên qua tất cả mọi giai tầng cơ sở trong quần chúng Ấn, làm cho chúng tôi đương nhiên trở thành một hình ảnh của tai họa.
Như một giải pháp hữu hiệu, chúng tôi yêu cầu Bộ Ngoại Vụ ra lịnh cho các cấp trực thuộc hãy thông báo cho từng địa phương biết rõ sự kiện nầy là chúng tôi không còn bị nghi ngờ, và xét vì công việc của chúng tôi làm là vì sự lợi ích cho xứ Ấn Độ, nên nó được chấp nhận. Và điều nầy, với tư cách là một sĩ quan và một công dân Mỹ, tôi trân trọng giải bày với tôn ông như nhà đại diện của nền công lý và luật pháp công minh của Anh Quốc.
Trân trọng kính thư,
Đại tá Henry S. Olcott.
Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới
Sự trả lời của chính phủ Ấn Độ vẫn chưa làm tôi thỏa mãn; tuy họ có lời bảo đảm rằng chúng tôi sẽ không bị quấy rầy nếu chúng tôi không xen vào việc chính trị, nhưng họ không nói rằng những lịnh truyền cho các quan chức Anh Ấn ở các tiểu bang theo dõi và dò xét chúng tôi sẽ được hủy bỏ.
Trong một bức thư thứ nhì, tôi đã lưu ý Bộ Ngoại Vụ đến vấn đề này, và sau đó ít lâu, tôi đã đạt được như ý muốn. Kể từ khi đó, chúng tôi đã được tự do.
II
Ngày 29 tháng 9, bà Sinnett, bà HPB và tôi cùng đi dạo chơi trên đỉnh một ngọn đồi ở vùng chung quanh. Trên nóc lợp ngói của một ngôi miễu nhỏ của Ấn giáo tại đó, giữa vô số những chứ khắc tên họ của du khách bốn phương đến viếng, tôi nhận thấy có một chứ khắc ám hiệu của Chân Sư M. với tên tôi ở dưới, nhưng do đâu mà có chữ đó thì tôi cũng không biết. Khi chúng tôi đang ngồi nói chuyện, bà HPB nhân lúc cao hứng, mới hỏi chúng tôi có ai mơ ước điều gì không?
Bà Sinnett nói:
-Tôi muốn có một thông điệp của Chân Sư rơi xuống ngay chỗ tôi ngồi.
Bà HPB bèn lấy từ trong quyển sổ tay bỏ túi của bà một tờ giấy màu hồng, dùng ngón tay vẽ lên đó vài phù hiệu bí mật, xếp tờ giấy thành hình ba góc, cầm nó trong tay đi xuống sườn đồi cách đó độ hai mươi thước, day mặt về hướng Tây, đưa tay vẽ một đạo bùa trên không gian, xòe cả hai bàn tay ra, và tờ giấy kia liền biến mất.
Thay vì nhận được thư trả lời rơi xuống chỗ bà đang ngồi, bà Sinnett nhận thơ bằng cách trèo lên một cái cây ở gần bên. Thông điệp ấy được viết trên tờ giấy màu hồng lúc nãy, cũng xếp thành hình ba góc, và mắc vào một nhánh nhỏ trên cây. Trên tờ giấy có chữ viết do một bàn tay lạ, để trả lời một câu hỏi riêng tư của bà Sinnett, và do Chân Sư K.H. ký tên bằng chữ Tây Tạng.
Bây giờ tôi xin kể một chuyện khác.
Một nhóm chúng tôi gồm sáu người, ba người nam và ba người nữ, sửa soạn từ nhà ra đi trong một cuộc du ngoạn dưới một thung lũng cách xa thành phố. Người quản gia của gia đình Sinnett đã sắp đặt các giỏ mây đựng đồ vật thực, và đã gói vào trong giỏ sáu bộ chén dĩa kiểu lạ để dùng trà. Khi chúng tôi sắp sửa ra đi, thì một người khách đến thình lình, và cũng được mời cùng đi với chúng tôi. Những người gia bộc đã xách các giỏ mây đi trước, còn chúng tôi từ từ đi sau theo hàng một, trên con đường mòn gồ ghề khúc khuỷu đưa xuống thung lũng. Sau một chuyến đi bộ dạo chơi thong thả, chúng tôi đến một chỗ bằng phẳng trên sườn một dãy đồi cỏ cây sầm uất, với những cây cổ thụ to lớn có tàn cây che mát rợi.
Chúng tôi bèn cắm trại ở đây, và nằm ngồi rải rác trên bãi cỏ xanh, trong khi những gia nô trải tấm nắp bàn trên bãi cỏ và bày đồ vật thực. Họ vừa nhúm lửa nấu nước pha trà, thì thấy người quản gia vẻ mặt băn khoăn bước đến gần bà Sinnett, và thưa với bà rằng còn thiếu một bộ chén dĩa cho ông khách mới đến vào giờ phút chót. Bà nói với một giọng bực mình:
-Anh thật là lơ đễnh mà không nhớ đem thêm một bộ chén dĩa nữa, khi anh biết rằng ông khách ấy cũng sẽ dùng trà như mọi người.
Kế đó bà quay lại với chúng tôi và vừa nói vừa cười:
-Hình như trong các bạn, chắc phải có hai người uống chung một cốc.
Lúc ấy tôi mới nói rằng trước đây trong một trường hợp tương tự, chúng tôi đã giải quyết vấn đề bằng cách đưa cái chén cho một người và cái dĩa cho người kia. Đến đây, một người trong nhóm nói đùa với bà HPB:
-Bây giờ, thưa bà, đây là một cơ hội để cho bà làm một ít phép thuật thần thông.
Tất cả chúng tôi đều bất giác cười lớn vì câu nói đùa bỡn vô lý đó, nhưng khi thấy bà HPB có vẻ sẵn lòng chấp nhận thì mọi người đều hoan hô thích thú, và yêu cầu bà ra tay ngay lập tức. Những người nằm trên bãi cỏ cũng đã đứng dậy và tề tựu chung quanh. Bà HPB nói rằng để làm cái việc nầy, bà cần có sự trợ giúp của Thiếu Tá X., một bạn hữu của chúng tôi cũng đang có mặt lúc ấy.
Ông này tỏ vẻ bằng lòng, bà mới yêu cầu ông đem theo một đồ dụng cụ để đào đất; ông ta bèn chụp lấy con dao lớn đựng trong giỏ và đi theo bà. Bà HPB nhìn chăm chú trên mặt đất, đưa mặt chiếc nhẫn lớn của bà đeo, chiếu xuống chỗ nọ chỗ kia, và sau cùng bà nói:
-Ông hãy đào chỗ nầy.
Ông khách kia ra tay đào xới, và nhận thấy rằng phía dưới lớp cỏ xanh che phủ mặt đất, là một hệ thống chằng chịt những rễ cây của những cây lớn nhỏ ở gần bên. Ông ta cắt những đám rễ và lôi ra từng nắm, kéo đất rời qua một bên, và đụng phải một vật màu trắng. Thì ra đó là một cái chén sứ uống trà nằm trong lòng đất, và khi ông ta lấy cái chén ra thì thấy nó thuộc cùng một kiểu giống y như sáu cái chén kia. Hãy tưởng tượng những tiếng kêu ngạc nhiên và xúc động của nhóm người đứng xem chung quanh!
Bà HPB bảo ông kia hãy tiếp tục đào nữa ở chỗ ấy, và sau khi ông nầy đã cắt bỏ và kéo ra một rễ cây lớn bằng ngón tay út của tôi, ông ta lôi ra một cái dĩa cũng cùng một kiểu với những bộ chén dĩa khác. Điều nầy làm cho cả bọn xúc động đến cực điểm, và ông khách sử dụng con dao lại là người kêu to ầm ĩ nhất vì ngạc nhiên và khoái trá.
Khi cuộc đi chơi kết thúc và chúng tôi trở về nhà, bà Sinnett và tôi cùng đi thẳng đến cái tủ đựng chén để kiểm điểm lại, thì thấy bốn bộ chén dĩa uống trà bỏ sót lại ở nhà vẫn còn nguyên, cùng với sáu bộ đem theo là tất cả mười bộ. Thế là bộ thứ bảy do bà HPB tạo thêm trong cuộc đi chơi, không phải ở trong số mười bộ chén của bà Sinnett.
Nếu có kẻ hoài nghi đưa ra giả thuyết rằng bộ chén sau cùng nầy đã có thể được chôn dấu từ trước để lòe bịp chúng tôi, thì sự thật hiển nhiên đã đính chánh ngay điều ấy. Mọi người có mặt đều nhìn thấy rõ rằng bộ chén dĩa ấy nằm gọn trong lòng đất y như những mảnh đá vụn, giữa những rễ cây mọc dọc ngang chằng chịt như màng lưới, phải dùng sức mạnh và dao bén để chặt đứt và bứng ra một cách tàn bạo phũ phàng mới lôi bộ chén dĩa kia ra được. Lớp cỏ trên mặt đất ở chỗ ấy vẫn xanh tươi và không có dấu hiệu gì khả nghi, và nếu có ai đã đào đất lên để chôn bộ chén dĩa từ trước, thì mặt đất bị đào xới đã không thể nào thoát khỏi cái nhìn nhận xét tinh vi của toàn thể quan khách đứng vây chung quanh trong khi ông Thiếu Tá ra tay làm việc.
Sau buổi ăn trưa, bà HPB còn làm một phép mầu khác, nó làm tôi ngạc nhiên hơn cả. Một trong những vị khách nói rằng ông ta sẵn lòng gia nhập Hội Thông Thiên Học nếu bà HPB có thể làm ngay tại chỗ cho ông ta một chứng chỉ Hội viên đã hoàn tất mọi thủ tục.
Đó hẳn là một yêu cầu quá đáng, nhưng bà bạn tôi không hề e ngại, đưa tay khoát một cái trên không trung, và chỉ vào một bụi rậm cách đó một khoảng ngắn, bà bảo người kia hãy đến đó xem có gì không, vì cây và bụi rậm thường được dùng làm các trạm phát thư tín.
Người khách kia vừa cười vừa đi đến chỗ bụi rậm, dường như không tin tưởng lắm về kết quả mong ước, nhưng khi đến nơi, ông ta rút ra từ trong bụi rậm một chứng chỉ hội viên bằng chữ in có ghi tên họ của y và ngày tháng hôm đó, với một bức thư chính thức của vị Hội Trưởng, mà tôi biết chắc rằng tôi không hề viết, nhưng lại viết bằng chính tuồng chữ của tôi!
Điều nầy làm cho tất cả mọi người đều hoan hô vui vẻ, và vì bà HPB đang nhân lúc cao hứng, nên dường như không một phép lạ nào khác mà bà không làm cho chúng tôi xem. Những màn biểu diễn phương thuật của bà HPB đã có kết quả là làm cho nhiều nhân vật người Âu có thế lực đã gia nhập Hội Thông Thiên Học, và biểu lộ một lòng ưu ái đầy thiện cảm đối với bà bạn của tôi.
Ngày 7 tháng 10, tôi thuyết trình về đề tài: "Thần Linh Học và Thông Thiên Học " tại hội trường của Viện Phụng Sự Hợp Nhất ( United Institution). Tôi được cho biết rằng số thính giả hôm ấy gồm một cử tọa đông đảo nhất chưa từng thấy tại Simla. Tối hôm đó tôi được mời tham dự buổi dạ tiệc tiếp tân của vị Phó Vương Anh, Lord Ripon, tại Dinh Chính Phủ và được nhiều bạn hữu đến chúc mừng, khen tặng tôi về buổi diễn thuyết và về những mối giao tế được cải thiện tốt đẹp với chính phủ Anh Ấn.
Hằng ngày chúng tôi đều bận rộn tiếp khách, bà HPB vẫn tiếp tục làm các hiện tượng thần thông, đến mức làm cho một nửa dân số Simla tin rằng bà được sự " trợ giúp của Quỷ Vương (Satan)". Một viên sĩ quan Anh trong nhóm quan khách cũng đã không ngần ngại mà nói thẳng với bà như vậy. Chiều hôm đó, ông Hume đưa cho bà một bức thư đầu tiên để nhờ bà chuyển đạt lên Chân Sư K.H. Đó là bước khởi đầu cuộc trao đổi thư từ vô cùng thú vị giữa ông với Chân Sư, thỉnh thoảng vẫn được mọi người nhắc đến.
Những ngày cuối cùng của chúng tôi ở Simla vẫn còn gồm những buổi dạ tiệc tiếp tân và những cuộc đi du ngoạn ngoài thành phố, trong những dịp đó một vài màn biểu diễn phép thuật của bà HPB đã làm cho các quan khách thích thú đến cực điểm. Một màn trong số đó rất thú vị.
Ngày hôm đó bà Sinnett, bà HPB và tôi đang ngồi đợi ông Sinnett tại phòng khách. Các bà ngồi chung với nhau trên chiếc divan, bà Sinnett cầm tay bà HPB để ngắm nhìn đến lần thứ hai mươi và trầm trồ khen ngợi một chiếc nhẫn kim cương màu vàng rất đẹp, vốn là món quà tặng của bà Wijeratne, vợ một nhà thầu giầu có ở tỉnh Galle trong dịp viếng thăm của chúng tôi đến Tích Lan trong năm ấy.
Đó là một hột kim cương loại rất hiếm và quý giá, long lanh chớp và phóng ra những tia sáng chói lập lòe. Bà Sinnett đã có lần yêu cầu bà HPB dùng phép thuật tạo thêm cho bà một phó bổn của hột kim cương ấy, nhưng bà này không hứa gì cả. Tuy nhiên, lần này bà chịu làm.
Bà HPB dùng hai ngón của bàn tay kia xoa lên hột đá quý độ một lúc, kế đó bà ngừng tay và để lộ chiếc nhẫn đeo trên bàn tay bên này. Nằm sánh đôi với hột kim cương của bà đeo, giữa ngón tay đeo nhẫn và ngón tay bên cạnh, là một hột kim cương khác cũng màu vàng, tuy không chói sáng bằng hột của bà, nhưng cũng là một hột kim cương rất đẹp, mà bà liền tặng cho bà Sinnett. Cho đến bây giờ, món bảo vật ấy vẫn còn là sở hữu của bà bạn quý mến của chúng tôi.
Buổi cơm tối hôm đó, bà HPB không ăn gì cả, nhưng trong khi mọi người đang dùng bữa thì bà cứ ngồi sưởi ấm hai bàn tay trên dĩa bàn đựng nước nóng đặt trước mặt bà. Độ một lát, bà xoa hai bàn tay, và chà xát thật mạnh, thì tahy61 có hai hột ngọc bích nhỏ rơi xuống dĩa. Hiện tượng làm cho xuất hiện các loại đá quý này cũng rất thường xảy ra đối với Staiton Moses, người bạn Anh mà chúng tôi có đề cập tới trong quyển Hồi Ký I. Đôi khi các loại đá quý nhỏ rơi xuống như mưa trên mình y và rơi khắp phòng, có khi thì vài viên ngọc thạch lớn. Người Đông Phương nói rằng đó là do tác động của những tinh linh của loài khoáng thạch, thuộc loại mà người Tây Phương gọi là Thổ Tinh (Gnomes), hay tinh linh của các hầm mỏ, và thổ ngữ Tamoul Ấn Độ gọi là Kalladimanden.
Ông Sinnett có ghi chép lại một việc xảy ra ngày 20 tháng 10, mà ông gọi là "hiện tượng cái gối". Hôm ấy chúng tôi đi du ngoạn và cắm trại trên một ngọn đồi, ông Sinnett cũng đang trông đợi một thông điệp trả lời cho một bức thư ông gửi cho một vị Chân Sư, nhưng ông không nghĩ rằng ông sẽ nhận được trong chuyến đi dạo chơi hôm đó.
Tuy nhiên, một người trong nhóm đề nghị với bà HPB làm xuất hiện một vật gì bằng phép thần thông. Bà HPB hỏi:
-Các ông muốn nhận được vật ấy ở đâu ngoài trên một cành cây? không nên làm cho phép thuật trở thành nhàm vì cứ lặp lại những chuyện cũ.
Mọi người mới thăm dò ý kiến lẫn nhau, và sau cùng họ đồng ý yêu cầu bà làm cho vật ấy xuất hiện bên trong cái gối dựa lưng của bà Sinnett đang dùng ở trên chiếc ghế bành của bà lúc ấy. Bà HPB bèn nói:
-Được rồi, hãy mở nó ra xem có vật gì ở trong không.
Ông Sinnett bèn lấy con dao bỏ túi của ông và rọc cái gối. Cái áo gối ở ngoài mặt có thêu hoa, được lót bằng da hay một thứ vải cứng và may bằng thứ chỉ lớn, dầy và rất chắc. Đó là một cái gối kiểu xưa, và đường chỉ đã trở nên cứng chặt với thời gian, làm cho công việc cắt rạch nó ra hơi có phần khó nhọc.
Tuy nhiên, sau cùng thì cái bao ngoài đã bị rách đứt, và bên trong là một cái bao thứ nhì chứa đựng lông chim và cũng được may bằng một thứ chỉ rất chắc. Khi cái gối trong đã bị cắt ra xong, ông Sinnett mới thọc tay vào, mò trong đống lông chim, và lấy ra một bức thư với một cái trâm cài đầu. Đó là bức thư của Chân Sư K.H. đề cập đến một câu chuyện giữa ông Sinnett với bà HPB; còn cái trâm cài đầu là của bà Sinnett, và ngay trước khi xuất hành, bà còn để nó lại trên mặt bàn phấn của bà. Tôi để cho độc giả hãy tự rút lấy kết luận của những sự việc kể trên.
III
Để hoàn tất đầy đủ việc ghi chép lịch sử những mối giao thiệp đầu tiên của chúng tôi với chính phủ Ấn Độ, và cho thấy họ đã đi tới hành động cực đoan vô lý như thế nào để tự bảo vệ chống những âm mưu chính trị khả hữu của Hội Thông Thiên Học, tôi đã quyết định in lại bức thư của tôi đề ngày 17 tháng 9. Thư ấy tuy cũng khá thân thiện, nhưng không đủ làm thỏa mãn yêu cầu của chúng tôi. Nguyên văn bức thư ấy như sau:
Bộ Ngoại Vụ
Tổng Lý Sự Vụ
Số 1025 E.G.
Simla, ngày 2 tháng 10 năm 1880
H.M. Durand,
Thứ Trưởng Ngoại Vụ Chính Phủ Ấn Độ
Kính gửi:Đại Tá H.S.Olcott
Hội Trưởng
Hội Thông Thiên Học Thế Giới
Kính Ông,
1.-Vì lý do công vụ, ông Bộ Trưởng A.C.Lyall vắng mặt tại Simla, nên tôi được chỉ thị trả lời bức thư Ông đề ngày 27 tháng 9 vừa qua.
2.-Ông trình bày rằng Hội Thông Thiên Học không có chủ trương can thiệp vào việc chính trị, dù ở Ấn Độ hay bất cứ ở đâu; nhưng ông đã bị theo dõi và phiền nhiễu trong những khi di chuyển ở Ấn Độ vì công việc của Hội; và bởi lẽ đó những chương trình hoạt động công ích của Hội đã bị ngăn trở trầm trọng. Ông yêu cầu Chính Phủ Ấn Độ giải tỏa những sự bất lợi đã vô tình gây ra cho ông trong vấn đề nầy do bởi việc cho người dọ thám và theo dõi mọi động tác, xê dịch của ông.
3.-Tôi xin cám ơn Ông về những tin tức, dữ kiện mà Ông đã có nhã ý trình bày về những mục đích và hoạt động của Hội Thông Thiên Học, và tôi xin bảo đảm rằng Chính Phủ Ấn Độ không có ý muốn gây sự bất tiện cho Ông trong thời gian lưu trú tại xứ này. Bao lâu mà những hội viên của Hội chỉ theo đuổi sự học hỏi khảo cứu triết học và khoa học, hoàn toàn không dính dấp đến vấn đề chính trị, mà Ông đã giải thích rằng đó là mục đích duy nhất của họ, thì họ không cần phải lo ngại một sự phiền phức nào đến với họ từ phía các chức viên Cảnh Sát.
4.-Tôi xin nói thêm rằng Chính Phủ Ấn Độ sẽ rất hân hạnh nếu Ông vui lòng gửi đến Bộ Ngoại Vụ những bổn sao các văn kiện nêu ra ở đoạn thứ ba trong thư ông.
Trân trọng kính thư,
Ký tên: H.M.DURAND
Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.
Ngày 20 tháng 12, tôi nhận được của chính quyền bức thư sau cùng mà tôi trông đợi, giải tỏa mọi sự khó khăn giữa chúng tôi với quan chức Anh Ấn. Thơ ấy viết như sau:
Bộ Ngoại Vụ
Tổng Lý Sự Vụ
Số 1060 E.G.
Simla, ngày 20 tháng 10 năm 1880
H.M.Durand,
Thứ Trưởng Ngoại Vụ
Kính gửi: Đại Tá H.S. Olcott
Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới
Kính Ông,
1.-Tôi được chỉ thị nhận thơ Ông đề ngày 14 tháng 10, có kèm theo những văn kiện, chứng thư của Ông gửi cho Chính Phủ Ấn Độ, và yêu cầu rằng tất cả những chức viên Chính Phủ có lệnh theo dõi và canh chừng Ông trước đây, được thông báo cho biết rằng mục đích của Ông khi đến Ấn Độ nay đã được giải thích rõ ràng.
2.-Tôi xin đa tạ Ông về những bản sao văn kiện mà Ông đã gửi, và chúng tôi sẽ cho lưu trữ tại Văn Khố của Bộ Ngoại Vụ.
3.-Về khoản yêu cầu của Ông, tôi được chỉ thị trả lời rằng những viên chức địa phương mà chúng tôi đã báo động về sự có mặt của ông ở xứ này, sẽ được thông tri cho biết rằng những biện pháp theo dõi do lịnh truyền cho họ thực thi trước đây, nay đã được thâu hồi.
4.-Tuy nhiên, tôi xin nói thêm rằng sở dĩ có quyết định này là do hậu quả của sự tín nhiệm mà Tổng Thống Hoa Kỳ và Ngoại Trưởng Mỹ đặt nơi Ông, chứ nó không nên được hiểu là đương nhiên bày tỏ thái độ lập trường của Chính Phủ Ấn Độ đối với Hội Thông Thiên Học, mà Ông là Hội Trưởng.
Trân trọng kính thư,
Ký tên: H.M. Durand,
Thứ Trưởng Bộ Ngoại Vụ.
Đoạn chót của bức thư này đề cập đến những văn kiện của tôi gởi, gồm có bức thư viết tay của Tổng Thống Hayyes giới thiệu và gửi gấm tôi cho tất cả các vị Đại Sứ và Lãnh Sự Mỹ ở hải ngoại, và một bức thư giới thiệu tương tự của Ngoại Trưởng W.M. Evarts, cùng với thẻ Thông Hành Ngoại Giao của tôi.
Thời gian viếng thăm Simla của chúng tôi đã chấm dứt, chúng tôi bèn rời khỏi thị trấn miền núi đẹp đẽ này để tiếp tục chuyến đi công tác đã sắp đặt trước ở các vùng đồng bằng. Kiểm điểm lại những kết quả đã thu thập được, có thể nói rằng chúng tôi đã có thêm vài bạn hữu, giải tỏa Hội Thông Thiên Học khỏi sự vướng mắc về phương diện chính trị, và tạo thêm nhiều kẻ chống đối thù nghịch trong các giới Anh Ấn, họ vẫn bám giữ lý thuyết cho rằng có sự can thiệp của Quỷ Vương Satan trong các vấn đề nhân sự (mà trong trường hợp này là bà HPB được sự trợ giúp của Quỷ Vương Satan để làm các phép thuật nhiệm mầu).
Trong một xã hội nghiêm chỉnh và bảo thủ như các giới ở đây, thì những cử chỉ, tác phong giang hồ phóng đãng của bà HPB đương nhiên là đã làm chướng mắt mọi người; cái khả năng trí thức, tâm linh xuất chúng của bà đã gây nên sự tị hiềm, đố kỵ; và những quyền năng thần thông kỳ bí của bà đã làm cho người ta nhìn bà bằng cái nhìn sợ hãi, kinh hoảng.
Dù sao, nhận xét chung thì những lợi điểm thu hoạch được vẫn trội hơn sự mất mát thua thiệt, và chuyến đi này được coi như một sự thành công xứng đáng.