SỰ THAM THIỀN
(MEDITATION)
(Trích Chương XVI của quyển THỂ HẠ TRÍ)
THE MENTAL BODY
Tác giả: A. E. POWELL
Dĩ nhiên, định trí không phải là cứu cánh tự thân mà chỉ là một phương tiện để đạt tới cứu cánh. Định trí uốn nắn thể trí thành ra một công cụ để cho chủ nhân ông sử dụng thoải mái. Khi cái trí tập trung đã được ổn định đều đều hướng về một mục tiêu nào đó với chủ đích xuyên qua bức màn che để đạt tới sự sống bên trong, rồi thu rút sự sống ấy hiệp nhất với sự sống của cái trí – thì bấy giờ ta đã tham thiền. Như vậy, định trí là định hình cơ quan, còn tham thiền là việc vận dụng nó.
Như ta đã thấy, định trí nghĩa là cố định cái trí vào một điểm duy nhất không cho nó xao lãng, không bị đãng trí do những sự vật bên ngoài gây ra, do hoạt động của các giác quan hoặc do hoạt động của chính cái trí. Nó phải được gom hết sức bình sinh đến nỗi ổn định không xao động và cố định cho đến khi nó dần dần học được cách triệt thoái sự chú tâm ra khỏi ngoại giới và ra khỏi cơ thể sao cho các giác quan vẫn còn yên tĩnh và tịch lặng, trong khi cái trí lại cực lực linh hoạt và mọi năng lực của nó đều được triệt thoái vào bên trong, được phóng ra ở một điểm tư tưởng duy nhất, là điểm cao nhất mà nó có thể đạt tới được. Khi nó có thể an trụ như vậy được dễ dàng thì nó sẵn sàng đạt thêm một bước nữa bằng cách nỗ lực mạnh mẽ và bình tĩnh của ý chí, nó có thể phóng mình vượt qua tư tưởng cao nhất mà nó có thể đạt được trong khi hoạt động trong bộ óc phàm; nhờ nỗ lực ấy nó sẽ vươn lên hiệp nhất với tâm thức cao siêu và thấy mình được giải thoát khỏi cơ thể.
Như vậy là bất cứ ai có thể chú ý, suy tư kiên định về một đề tài nào đó trong một thời gian ngắn mà không để cho cái trí xao lãng thì người ấy đã sẵn sàng để bắt đầu tham thiền. Chúng ta có thể định nghĩa tham thiền là chú tâm dai dẳng của cái trí được tập trung giáp mặt với một đối tượng sùng tín hoặc một vấn đề cần được soi sáng cho dễ hiểu. Thật vậy, về bất cứ vấn đề gì trong đó ta phải ngộ ra và hấp thụ sự sống chứ không phải là hình tướng. Đó là thuật xem xét một đối tượng và lật nó đi lật nó lại trong tâm trí qua đủ thứ phương diện và mối quan hệ. Sau khi đã định nghĩa tham thiền là cốt ở việc cố gắng đưa vào trong tâm thức tỉnh táo điều mà nó ở trạng thái hoạt động bình thường trong tâm trí, rồi sao cho nó phần nào nhận thức cái siêu thức được sáng tạo ra do quyền năng hoài bão để tạo ra một kênh dẫn, thông qua đó ảnh hưởng nguyên khí thiêng liêng hoặc nguyên khí tinh thần (Chơn nhơn) có thể tỏa chiếu cho phàm nhơn. Đó là việc cái trí và xúc cảm vươn ra bên ngoài hướng tới lý tưởng, mở ra cánh cửa cho tâm thức hạ đẳng bị giam hãm chịu ảnh hưởng của lý tưởng ấy. Bà H. P. Blavatsky có nói: “Tham thiền là sự khao khát không diễn tả nên lời của Chơn nhơn hướng về Vô cực”. Thánh Alphonus de Liguori bảo tham thiền là: “cái lò đốt linh thánh mà trong đó linh hồn cháy bừng Tình thương Thiêng liêng của Thượng Đế”. Lý tưởng được chọn theo có thể là trừu tượng, chẳng hạn như một đức tính; nó có thể là Thiên tính nơi con người; nó cũng có thể được nhân cách hóa là một Chơn sư hoặc một Đạo sư. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào thì nó cũng có bản chất là nâng linh hồn lên cao hướng về cội nguồn thiêng liêng, là ham muốn của biệt ngã để hiệp nhất với Đại ngã.
Thực phẩm đối với cuộc sống trên cõi trần ra sao thì tham thiền đối với sinh hoạt tâm linh cũng như vậy. Người biết tham thiền bao giờ cũng là người hữu hiệu nhất trên thế gian. Khi nói tới Cromwell, ngài Rosebery mô tả Cromwell là một “thần bí gia thực tiễn” và tuyên bố một thần bí gia thực tiễn là sức mạnh lớn lao nhất trên thế giới. Trí năng được tập trung và khả năng triệt thoái ra ngoài sự xáo động có nghĩa là tăng cường rất nhiều được nghị lực trong khi làm việc, có thêm sự kiên định, sự tự chủ và sự thanh thản. Người biết tham thiền là người không phí phạm thời gian, không phí hoài năng lượng, không bỏ lỡ cơ hội. Một người như thế khống chế được các biến cố bởi vì bên trong y có một quyền năng mà các diễn biến chỉ là sự biểu hiện ra bên ngoài, y chia xẻ sự sống thiêng liêng và vì vậy cũng chia xẻ quyền năng thiêng liêng.
Như ta đã nói trước kia, khi cái trí được giữ để duy trì theo một hình ảnh và khi Chủ thể tri thức kiên định lặng ngắm nó thì y đạt được sự hiểu biết đầy đủ hơn nhiều về đối tượng này so với khi chỉ đạt được nhờ vào bất kỳ sự mô tả nào bằng ngôn từ. Khi sự định trí được thực hiện thì bức tranh được định hình trong thể Trí và sự định trí vào những đường nét đại khái suy ra chẳng hạn từ việc mô tả qua ngôn từ ắt bổ sung thêm càng ngày càng nhiều chi tiết khi tâm thức tiếp xúc mật thiết hơn với những sự vật được mô tả.
Mọi tôn giáo đều khuyên ta nên tham thiền, mọi trường phái triết học đều công nhận là nên tham thiền. Cũng giống như một người muốn được khỏe mạnh ắt dùng những phép thể thao, thể dục được qui định để phát triển cơ bắp; cũng vậy học viên huyền bí sử dụng những phép luyện tập tham thiền được qui định chính xác để phát triển thể Vía và thể Trí.
Cố nhiên có nhiều loại tham thiền cũng như có nhiều loại hình người; rõ ràng không thể có một phép tham thiền duy nhất thích hợp cho mọi người. Tham thiền có nhiều mục đích mà mục đích chính là như sau đây:
[1] Nó bảo đảm được ít ra mỗi ngày một lần người ta đều nghĩ tới những chuyện cao siêu và thánh thiện, rút tư tưởng ra khỏi cái chu trình nhỏ mọn của sinh hoạt hằng ngày với những chuyện phù phiếm và bao nhiêu thứ rắc rối.
[2] Nó làm cho người ta quen nghĩ tới vấn đề ấy đến nỗi mà sau một thời gian thì những vấn đề ấy tạo thành bối cảnh cho sinh hoạt hằng ngày của y, cái trí của y sẽ hân hoan trở về với bối cảnh ấy bất cứ khi nào nó được giải thoát khỏi những yêu cầu ngay trước mắt của công việc làm ăn.
[3] Nó đóng vai trò một loại thể dục thể thao cho cái trí và cái vía để giữ các thể cao này được lành mạnh, giữ cho luồng sinh khí tuôn chảy qua các thể ấy. Xét về mục đích này thì ta nên nhớ rằng việc tập luyện đều đặn là quan trọng bậc nhất.
[4] Ta có thể dùng tham thiền để tu tâm dưỡng tính, để đạt được đủ thứ đức tính và phẩm chất.
[5] Nó nâng tâm thức lên tới những mức cao siêu để bao trùm được những sự vật cao siêu và tinh vi; nhờ tham thiền con người có thể vươn lên tới bản lai diện mục của Đấng Thiêng Liêng.
[6] Nó cởi mở đối với thiên nhiên và triệu thỉnh được những sự ban phước từ các cõi cao.
[7] Nó là phương cách – cho dẫu là một bước rụt rè đầu tiên trên con đường đi – dẫn tới sự phát triển cao siêu và tri thức rộng lớn hơn, để đạt được thần nhãn và rốt cuộc đạt tới sự sống cao siêu hơn hoàn toàn vượt quá cõi trần này.
Tham thiền là phương pháp an toàn và dễ dàng nhất để phát triển được tâm thức cao siêu. Nhờ tham thiền, chắc chắn bất cứ ai trải qua thời gian cũng có thể lên tới Đức Thượng Đế hoặc Chơn sư, trước hết nâng mình lên cõi trung giới rồi tới cõi trí tuệ. Tuy nhiên không ai biết chắc nó sẽ phải mất bao nhiêu lâu, vì điều ấy hoàn toàn tùy thuộc vào quá khứ của học viên và những nỗ lực mà y đã thực hiện. Một người bận tâm tha thiết nghiên cứu những chuyện cao siêu thì đã nhất thời được hoàn toàn nâng lên ra khỏi bản thân và tạo ra một hình tư tưởng mạnh mẽ trên cõi trí tuệ, nó được sử dụng ngay tức khắc để làm một kênh dẫn cho thần lực đang lởn vởn nơi thế giới ngay kế trên nó. Khi một đoàn thể người tụ họp lại cùng suy nghĩ với bản chất ấy thì kênh dẫn mà họ tạo ra xét về mọi tỉ lệ đều lớn hơn về dung lượng so với tổng số các kênh dẫn riêng rẽ. Vì vậy, một đoàn thể người như thế là một sự ban phước vô giá cho cộng đồng mà nó hoạt động trong đó. Khi họ nghiên cứu về mặt trí thức, thì họ có thể là nguyên nhân khiến cho thần lực tuôn đổ vào cõi hạ trí mà thần lực này bình thường chỉ thuộc về cõi thượng trí. Nếu tư tưởng của họ có liên quan tới luân lý và sự phát triển của linh hồn ở những phương diện cao siêu thì họ có thể tạo ra một kênh dẫn cho một tư tưởng cao siêu hơn nữa, thông qua đó thần lực của cõi bồ đề có thể giáng xuống cõi trí tuệ.
Như vậy, họ có thể gây ra ảnh hưởng được tỏa chiếu lên nhiều người vốn tuyệt nhiên không hề cởi mở với tác động của thần lực ấy nếu nó vẫn còn ở mức nguyên thủy. Đây quả thật là chức năng vĩ đại nhất và đích thực, chẳng hạn như một Chi bộ của Hội Thông Thiên Học - ắt cung ứng một kênh dẫn để phân phối Sự Sống Thiêng Liêng. Đó là mọi Chi bộ của Hội Thông Thiên Học đều là một trung tâm để cho các Chơn sư Minh triết và đệ tử các ngài chú ý tới; vì vậy tư tưởng của các thành viên của Chi bộ khi dấn thân vào việc nghiên cứu, thảo luận v.v. . . có thể thu hút sự chú tâm của các Chơn sư, bấy giờ một thần lực được tuôn đổ ra đạt mức cao siêu hơn nhiều so với bất cứ thứ gì thoát thai từ chính các thành viên Chi bộ.
Chúng tôi xin nhắc các hội viên Thông Thiên Học nhớ rằng Tiến sĩ Besant có phát biểu cho biết Chơn sư có dạy rằng khi một người gia nhập Hội Thông Thiên Học thì y đã liên kết với các Chơn sư qua một tuyến sinh lực nhỏ xíu. Tuyến này là đường liên kết từ khí với Chơn sư; nhờ nỗ lực vất vả, sùng tín và phụng sự vị tha, học viên có thể củng cố và mở rộng tuyến này cho đến khi nó trở thành một đường ánh sáng sinh động. Người ta cũng có thể triệu thỉnh sự ban phước từ một nguồn còn cao hơn nữa. Sự Sống và Ánh Sáng của Đấng Thiêng Liêng tràn ngập trọn cả Thái dương hệ; còn thần lực ở mỗi cảnh hoặc mỗi cõi bình thường chỉ hạn chế vào cảnh hoặc cõi này thôi. Tuy nhiên nếu ta chuẩn bị một kênh dẫn đặc biệt cho nó thì nó có thể giáng xuống và soi sáng cho một cảnh thấp hơn. Một kênh dẫn như thế thường được cung ứng bất cứ khi nào có một tư tưởng hoặc một xúc cảm hoàn toàn mang tính cách vị tha. Xúc cảm vị kỷ chuyển động theo một đường cong khép kín và như vậy nó cứ chạy vòng vòng trên cảnh của riêng mình. Một xúc động cực kỳ vị tha là sự bùng nổ năng lượng một đi không trở lại, nhưng khi chuyển động hướng lên trên, nó cung ứng một kênh dẫn để cho Năng lượng thiêng liêng từ cảnh ngay kế trên nó tuôn xuống. Chính sự thực này là nền tảng của ý niệm về việc hễ cầu nguyện thì sẽ được đáp ứng.
Đối với người có thần nhãn thì y thấy kênh dẫn này là một xoáy lực lớn thuộc loại hình trụ hoặc hình phễu khổng lồ. Đây là cách giải thích gần nhất mà ta có thể trình bày trong cõi trần, nhưng nó không được thỏa đáng bởi vì khi thần lực tuôn xuống qua kênh dẫn thì bằng cách nào đó nó tạo ra một xoáy lực làm xuất phát những đặc trưng riêng biệt nhuốm màu sắc ấy và gây ảnh hưởng biểu lộ qua cái mà kênh dẫn đã tạo ra. Khi tham thiền, thể Trí và thể Vía của con người dần dần từ hỗn loạn trở nên trật tự, bành trướng từ từ rồi dần dần học cách đáp ứng với những rung động càng ngày càng cao siêu hơn. Mỗi nỗ lực đều giúp làm mỏng bớt bức màn che ngăn cách y với cõi cao và hiểu biết trực tiếp (trực giác). Hết ngày này sang ngày khác hình tư tưởng của y trở nên xác định hơn sao cho càng ngày càng có nhiều sự sống từ bên trên tuôn đổ vào đó.
Như vậy, tham thiền giúp ta xây dựng các loại vật chất cao siêu vào trong các hiện thể. Nó thường giúp ta trải nghiệm được những xúc động cao thượng vốn bắt nguồn từ mức bồ đề rồi được phản chiếu xuống thể Vía. Hơn nữa, thể hạ trí và thể nguyên nhân cũng cần được phát triển để mang lại sự kiên định và quân bình; bằng không thì những xúc động thanh bai vốn lôi cuốn con người đi đúng hướng lại rất có thể dễ trở thành hơi méo mó đi một chút để rồi lôi cuốn y đi theo những đường lối quá khích cực đoan không đáng mong muốn. Chỉ có xúc cảm không thôi thì chẳng bao giờ ta đạt được sự kiên định quân bình toàn bích. Quyền năng dẫn dắt của cái trí và chỉ đạo của ý chí cũng cần thiết chẳng kém gì động cơ thúc đẩy của xúc động.
Khi thực hành tham thiền, học viên có thể thấy cần biết tới năm trình độ của cái trí theo như Patanjali xiển dương. Tuy nhiên y nên nhớ rằng năm trình độ này không hạn chế chỉ vào cõi trí tuệ mà tồn tại dưới một dạng thích hợp trên mọi cõi. Đó là:
[1] Kshipta: cái trí bay lượn như con bướm, thường xuyên nhảy nhót từ đề tài này sang đề tài khác. Nó tương ứng với hoạt động trên cõi trần.
[2] Mudha: giai đoạn rối trí, trong đó con người bị xúc động lôi kéo gây ra bối rối; nó tương ứng với hoạt động trên cõi trung giới.
[3] Vikshipta: trạng thái bận tâm hoặc mê say về một ý tưởng; ta có thể nói ý tưởng ám ảnh hoặc chiếm hữu con người. Giai đoạn này tương ứng với hoạt động nơi cõi ha trí. Con người nên học Viveka (Xem trang 294) vốn có liên quan tới khía cạnh Nhận biết của tâm thức.
[4] Ekagrata: (Nhất tâm), trạng thái con người chiếm hữu được ý tưởng thay vì bị ý tưởng chiếm hữu. Điều này tương ứng với hoạt động trên cõi thượng trí. Ở đây con người nên học Vairagya (Xem trang 295) vốn có liên quan tới khía cạnh Hoạt động của tâm thức.
[5] Niruddha: (Tự chủ), vượt lên trên mọi ý tưởng, con người tùy chọn lựa theo Ý chí đã giác ngộ của mình. Điều này tương ứng với hoạt động trên cõi bồ đề. Ở đây con người nên học Shatsampatti (Xem trang 294) vốn có liên quan tới khía cạnh Ý chí của tâm thức.
Khi đã hoàn toàn tự chủ rồi sao cho mình có thể ức chế mọi biến động của cái trí thì con người đã sẵn sàng nhập Samadhi, tương ứng với Nhập định mà sẽ bàn tới đầy đủ hơn ở Chương kế tiếp. Trong khi chờ đợi để cho được hoàn chỉnh ta nên trình bày ở đây một ý niệm sơ khởi về Samadhi. Xét theo từ nguyên (Tam muội = Samadhi) có nghĩa là “được ghép lại đầy đủ với nhau”, vì vậy có thể dịch sang tiếng Việt là “gộp cái trí lại”, nghĩa là tom góp nó lại hoàn toàn, kiểm soát được mọi sự đãng trí. Vyasa dạy rằng “yoga là cái trí thanh thản”. Đây là nghĩa gốc của Tam muội, mặc dù người ta thường dùng nó để biểu thị trạng thái xuất thần vốn là kết quả tự nhiên của sự thanh thản toàn bích. Samadhi có hai loại: (1)- Samprajnata Samadhi nghĩa là Samadhi có ý thức, ý thức được xoay chuyển ra bên ngoài hướng về các đối tượng. (2)- Asamprajnata Samadhi nghĩa là Samadhi vô thức, ý thức xoay chuyển vào trong nội tâm, triệt thoái vào trong bản thân sao cho nó được chuyển sang một hiện thể cao hơn ngay kế nó. Để tiện việc tham khảo, ta trình bày hai sự kiện này dưới dạng bảng biểu ở trang 146. Học viên cũng có thể muốn có việc liệt kê ngắn gọn bốn Trạng thái của cái Trí được khoa Yoga đề cập tới. Đó là:
[1] Jagrat: ý thức tỉnh táo.
[2] Svapna: tâm thức mơ mộng, tâm thức hoạt động trong thể Vía và có thể ghi khắc những kinh nghiệm của mình lên bộ óc.
[3] Sushupti: tâm thức lúc ngủ say, hoạt động trong thể Trí và không thể ghi khắc những kinh nghiệm của mình lên bộ óc phàm.
[4] Turiya: tâm thức xuất thần, tách rời xa bộ óc đến nỗi dùng phương tiện ngoại giới không thể dễ dàng triệu hồi nó về được.
Số
| Các trình độ của cái trí |
Đức tính cần đạt
|
Khía cạnh của tâm thức
| |
Bắc phạn
|
Tiếng Việt
| |||
1
|
Kshipta
| Cái trí bay lượn như con bướm |
--------------
|
-------------
|
2
|
Mūdha
|
Bối rối
| ||
3
|
Vishipta
|
Mê say
|
Viveka
(phân biện)
|
Nhận biết
|
4
|
Ekāgrata
|
Nhất tâm
|
Vairāgya
(vô dục)
|
Hoạt động
|
5
|
Niruddha
|
Tự chủ
|
Shatsampatti
(sáu đức tính của cái trí)
|
Ý chí
|
6
|
Samādhi
|
Thanh thản của cái trí, dẫn tới sựxuất thần
| ------------- | ---------- |
Tuy nhiên ta nên lưu ý rằng bốn trạng thái tâm thức này đều tồn tại trên mọi cõi. Bảng sau đây nêu ví dụ về bốn trạng thái của ý thức trên cõi trần và sắp xếp nó dưới dạng bảng biểu để được gọn ghẽ và trong sáng.
BỐN TRẠNG THÁI TÂM THỨC
| |||
Tiếng Bắc phạn
|
Tiếng Việt
|
Các ví dụ trong ý thức trên cõi trần
| |
Jāgrat
|
Tỉnh táo
|
Đọc một quyển sách
|
Nhìn một chiếc đồng hồ
|
Svapna
|
Mơ mộng
|
Nhận thực được ý nghĩa của các từ ngữ
|
Tưởng tượng ra một chiếc đồng hồ
|
Sushupti
|
Ngủ say
|
Tiếp xúc với cái trí của người viết sách
|
Quan niệm ra một chiếc đồng hồ lý tưởng
|
Turiya
|
Xuất thần
|
Thâm nhập vào cái trí của người viết sách
|
Chuyển sang ý niệm về thời gian trừu tượng
|
Ta cũng nên lưu ý rằng những từ ngữ này chỉ tương đối thôi; vậy là đối với hầu hết mọi người, Jagrat tức ý thức tỉnh táo là một bộ phận của tâm thức toàn thể vốn đang hoạt động qua bộ óc và hệ thần kinh, nó dứt khoát là tự ý thức được. Chúng ta có thể nghĩ rằng tâm thức là một quả trứng lớn ánh sáng mà chỉ có một đầu mút đút vào trong bộ óc; đầu mút ấy chính là ý thức tỉnh táo. Nhưng khi tự ý thức (ý thức mình là bản ngã) đã phát triển được trên cõi trung giới và bộ óc đã phát triển đúng mức để đáp ứng được các rung động của cõi trung giới thì tâm thức trên cõi trung giới trở thành một bộ phận của ý thức tỉnh táo; lúc bấy giờ tâm thức trên cõi hạ trí lại trở thành Svapna tức là tâm trạng mơ mộng.
Cũng giống như vậy, khi tự ý thức đã phát triển trên cõi hạ trí và bộ óc đã đáp ứng được với cõi hạ trí thì ý thức tỉnh táo cũng bao gồm cả tâm thức hạ trí. Và cứ tiếp tục như thế cho đến khi trọn cả tâm thức trên năm cõi đều được bao hàm trong ý thức tỉnh táo. Muốn mở rộng ý thức tỉnh táo như vậy thì cần phải phát triển các nguyên tử của bộ óc cũng như phát triển một vài cơ quan trong bộ óc và các mối nối giữa những tế bào. Muốn bao hàm tự ý thức trên cõi trung giới thì ta phải phát triển tuyến Yên và hoàn chỉnh được tập hợp loa tuyến thứ tư trong các nguyên tử. Muốn bao hàm được tự ý thức trên cõi hạ trí thì tuyến Tùng phải bước vào hoạt động và tập hợp loa tuyến thứ năm trong các nguyên tử phải tác động rốt ráo. Nếu ta chưa thành tựu được những sự phát triển này nơi xác phàm thì tâm thức cõi trung giới và tâm thức cõi hạ trí vẫn còn là siêu thức và chưa biểu hiện được qua bộ óc.
Lại nữa, nếu một người không có xác phàm thì Jagrat tức ý thức tỉnh táo của y chính là ý thức trên cõi trung giới. Như vậy định nghĩa mở rộng hơn của Jagrat là: Jagrat tức ý thức tỉnh táo là cái bộ phận của tâm thức toàn thể vốn đang hoạt động thông qua hiện thể ở ngoài cùng.
Ta cũng có thể xét lại Samadhi theo quan điểm của sự phân tích nêu trên. Samadhi là một trạng thái tâm thức trong đó thể xác không nhạy cảm nhưng cái trí hoàn toàn hữu ngã thức và từ đó cái trí trở lại óc phàm mà vẫn nhớ được những trải nghiệm siêu trần thế của mình.
Nếu một người ở trong trạng thái xuất thần và hoạt động trên cõi trung giới thì Samadhi của y trên cõi trung giới. Còn nếu y hoạt động trên cõi trí tuệ thì Samadhi của y cũng ở trên cõi ấy. Như vậy người nào có thể thực hành Samadhi đều có thể triệt thoái ra khỏi thể xác để cho nó vô tri vô giác trong khi cái trí hoàn toàn hữu thức. Vì vậy Samadhi là một thuật ngữ hoàn toàn tương đối. Do đó một Chơn sư bắt đầu Samadhi trên cõi Atma rồi từ đó vươn lên tới các cõi vũ trụ cao hơn.
Từ ngữ Samadhi đôi khi cũng được dùng để biểu thị tình trạng vượt ngoài tầm mức mà một người còn có thể giữ được ý thức. Như vậy đối với một người dã man, mà ý thức rõ rệt trên cõi hồng trần thì cõi trung giới ắt là Samadhi. Điều này có nghĩa là khi người ấy trở lại các hạ thể của mình, thì y ắt mang theo mình không được một kiến thức xác định bổ sung nào và cũng không có khả năng mới mẻ nào để làm bất cứ một điều gì hữu dụng. Loại Samadhi này không được khuyến khích trong các trường phái huyền bí học cao nhất. Đi ngủ và nhập Samadhi phần lớn là cùng một quá trình; nhưng trong khi đi ngủ là do tình huống thông thường và không có ý nghĩa thì nhập Samadhi lại là do tác động của ý chí đã được rèn luyện và là một quyền năng vô giá. Những phương tiện trên cõi trần để gây ra sự xuất thần, chẳng hạn như thôi miên, dùng ma túy, nhìn đăm đăm vào một chấm đen trên một nền trắng hoặc nhìn chăm chú vào chóp mũi cũng như những phép thực hành tương tự khác nữa, đều thuộc về phương pháp Hatha Yoga và chẳng bao giờ được sử dụng trong khi Raja Yoga. Đối với một người có thần nhãn thì sự khác nhau giữa một đối tượng bị thôi miên mesmer và sự xuất thần do chính một đạo sĩ Yoga tự gây ra thì nhìn vào là thấy rõ ngay. Nơi một đối tượng bị thôi miên hoặc thôi miên mesmer thì mọi “nguyên khí” đều có mặt, thượng trí bị tê liệt, bồ đề bị cắt rời khỏi nó do sự tê liệt ấy, còn thể vía hoàn toàn tuân phục hạ trí và kama. Mặt khác, nếu xét về đạo sĩ yoga thì các “nguyên khí” của tứ nguyên hạ lại hoàn toàn biến mất, ngoại trừ những rung động khó lòng nhận ra được của prana có màu hoàng kim và một ngọn lửa màu tím có sọc hoàng kim bốc lên từ trên đầu rồi đạt đỉnh cao nơi một điểm nào đó. Người bị thôi miên hoặc thôi miên mesmer không nhớ lại được gì trong bộ óc mình về những sự trải nghiệm, còn đạo sĩ yoga lại nhớ được mọi chuyện đã xảy ra cho mình. Một vài ví dụ thực tiễn có lẽ sẽ minh họa hay ho nhất cho một số phương pháp sử dụng trong lúc tham thiền.
Học viên nên bắt đầu bằng cách trau dồi tư tưởng cho đến khi thể xác có thói quen là một công cụ của tinh thần, y nên nghĩ tới thể xác, về cách thức để có thể kiểm soát và điều khiển được nó, thế rồi y nên tách rời tư tưởng mình ra với nó, thật vậy chối bỏ nó. Kế đó, sau khi nhận thức được rằng mình có thể kiểm soát được xúc động và dục vọng thì y nên chối bỏ thể Vía với những ham muốn và xúc động; thế rồi khi hình dung mình ở thể hạ trí và lại suy gẫm rằng mình có thể kiểm soát và điều khiển được tư tưởng thì y nên chối bỏ cái trí, rồi để cho mình bay vút lên tới tận bầu hào quang tự do của tinh thần nơi có sự an bình đời đời; sau khi ở lại đó trong một lúc y nên phấn đấu hết sức mình ngộ ra rằng Đó là Chơn Ngã. Khi lại giáng xuống tâm thức, y nên cố gắng mang theo mình sự an bình của tinh thần nhập vào các hiện thể khác nhau.
Còn một phép thực hành khác là nên điều khiển buổi tham thiền để tu tâm dưỡng tính, chọn lựa vì mục đích có một đức tính, chẳng hạn như tính vô hại. Sau khi ta đã tập trung sự chú ý thì ta nên nghĩ về đề tài này xét theo nhiều khía cạnh, nghĩa là tính vô hại về hành vi, về lời nói, về tư tưởng, về ham muốn; làm thế nào biểu hiện được tính vô hại trong sinh hoạt của con người lý tưởng; làm thế nào mà nó ảnh hưởng tới sinh hoạt hằng ngày của mình; mình đối nhân xử thế ra sao nếu mình đã hoàn toàn đạt được đức tính ấy v.v. . .
Sau khi đã tham thiền như vậy về tính vô hại thì y nên mang theo vào trong sinh hoạt hằng ngày một tâm trạng sao cho chẳng bao lâu sau nó sẽ biểu hiện qua mọi hành động và tư tưởng của y. Những phẩm tính khác, dĩ nhiên cũng có thể được xử trí tương tự. Một vài tháng nỗ lực tha thiết theo những đường lối ấy ắt tạo ra những sự thay đổi kỳ diệu trong sinh hoạt của một người đã được miêu tả qua những lời lẽ đáng ghi nhớ của Plotinus: “Bạn hãy triệt thoái vào nơi bản thân rồi nhìn xem và nếu cho đến nay bạn chưa thấy mình tuyệt đẹp thì hãy làm như người sáng tạo ra một pho tượng sao cho nó được đẹp đẽ; người ấy cắt ở đây một miếng, làm bằng ở kia một mảnh, rồi tạo ra đường nét thanh bai hơn, chỗ khác thì lại trong sạch hơn cho đến khi một khuôn mặt tuyệt đẹp hiện ra trên bức tượng. Bạn cũng làm như vậy; hãy cắt bỏ đi những gì quá lố, hãy làm cho ngay thẳng lại tất cả những gì cong queo, mang lại ánh sáng cho tất cả những gì mờ tối, lao động vất vả để cho mọi thứ đều lóe lên vẻ đẹp và đừng ngưng đục đẽo pho tượng của mình cho đến khi lóe ra tia rực rỡ giống như thần linh của đức tính, cho đến khi bạn ắt thấy sự tốt đẹp tối hậu đã được xác lập vững chắc trên bàn thờ không còn tì vết (Plotinus bàn về Vẻ Mỹ Lệ, bản dịch của Stephen Mackenna).
Như vậy sự tham thiền về một đức tính khiến cho con người dần dần tăng trưởng đến mức sở hữu đức tính ấy; Kinh điển Ấn độ có dạy rất hay ho như sau: “Một người nghĩ tới cái gì thì y sẽ trở thành cái đó; vì vậy hãy nghĩ tới Đấng Vĩnh Hằng”. Và lại nữa: “Con người sáng tạo ra tư tưởng”.
Có một ví dụ rất hay về điều mà ta có thể thực hiện theo kiểu này bằng cách tham thiền, đó là có một người nào đấy trong vòng 40 năm, ngày nào cũng tham thiền về chơn lý; kết quả là y đã chỉnh hợp với phương thức của chơn lý đến nỗi y biết khi một người đang nằm thì cái bình rớt xuống y ra sao. Có xảy ra việc một người là một thẩm phán thì khả năng của y ắt thuận lợi cho mình rất nhiều.
Trong công việc này, người ấy đang sử dụng óc tưởng tượng - là một công cụ vĩ đại nhất trong khoa Yoga. Nếu người ấy tưởng tượng trong suy nghĩ là mình có một đức tính nào đó thì y đã thành công tới một nửa để sở hữu đức tính ấy; nếu y tưởng tượng mình không còn mắc phải một khiếm khuyết nào đó thì y đã thành công một nửa trong việc thoát khỏi khiếm khuyết ấy. Óc tưởng tượng lão luyện là một vũ khí sắc bén mà người ta có thể sử dụng để dẹp bỏ hết một nửa những chuyện rắc rối và sai sót của mình. Ta không nên suy đi gẫm lại về những điều thiếu sót vì nó có khuynh hướng khuyến khích tình trạng bệnh hoạn và buồn rầu chán nản vốn đóng vai trò một bức vách khép kín mọi ảnh hưởng tâm linh. Trên thực tế ta nên lờ đi những khiếm khuyết trong bẩm tính của mình đến mức tối đa và chỉ tập trung vào việc xây dựng những đức tính ngược lại. Thành công trong sinh hoạt tâm linh không phải do ta đấu tranh kịch liệt với bản chất thấp hèn mà là do ta gia tăng sự hiểu biết và đánh giá cao những chuyện cao thượng. Đó là vì một khi ta đã trải nghiệm đầy đủ sự cực lạc và hoan hỉ của cuộc sống cao siêu thì khi đối chiếu tương phản với nó những ham muốn thấp hèn sẽ mờ nhạt đi và mất hết sức hấp dẫn. Một bậc đại Đạo sư có dạy rằng hình thức hối hận tốt nhất về việc phạm tội là hướng về phía trước với lòng can đảm đầy hi vọng kết hợp với quyết tâm sắt đá không phạm tội trở lại một lần nữa.
Kế đó ta hãy giả sử rằng mục đích của việc tham thiền là tìm hiểu bằng cái trí về một đối tượng cũng như mối quan hệ của đối tượng ấy với những đối tượng khác. Học viên nên nhớ lại rằng công việc đầu tiên của Chủ thể tri thức là quan sát chính xác, vì tư tưởng tùy thuộc vào tính chính xác của việc quan sát ấy, nếu sự quan sát không chính xác thì do sai lầm sơ khởi ấy ắt nảy sinh ra một số sai lầm tiếp sau mà không điều gì có thể chỉnh đốn lại được, ngoại trừ việc phải trở lại từ đầu. Sau khi đối tượng đã được quan sát kỹ lưỡng như thế thì ta tác động luồng tư tưởng lên nó sao cho có thể lĩnh hội được nó về đủ mọi khía cạnh tự nhiên, siêu trần thế và siêu hình, ta phải thực hiện nỗ lực này một cách hoàn toàn minh bạch và xác định đối với mức tâm thức vẫn còn lờ mờ. Chẳng hạn như đề tài là sự hài hòa. Ta hãy xét nó liên quan tới đủ thứ giác quan theo nhiều nghĩa; xét nó về âm nhạc, về màu sắc, về nhiều hiện tượng thuộc đủ loại khác nhau; ta hãy tìm cách khám phá ra những đặc điểm chính yếu của sự hài hòa để xem nó khác với những ý tưởng tương tự và ý tưởng tương phản ở chỗ nào, nó đóng vai trò gì trong sự nối tiếp của các diễn biến; nó có công dụng ra sao; nếu không có nó thì kết quả sẽ như thế nào. Sau khi đã trả lời tất cả những thắc mắc này và nhiều thắc mắc nữa thì ta nên cố gắng bỏ đi mọi hình ảnh cụ thể hoặc tư tưởng cụ thể và trong tư tưởng của ta chỉ giữ lại ý niệm trừu tượng về sự hài hòa.
Học viên phải nhớ rằng nhìn bằng cái trí cũng hoàn toàn có thực và thỏa đáng như nhìn bằng mắt trần. Như vậy ta có thể rèn luyện cho cái trí nhìn thấy chẳng hạn như ý niệm về sự hài hòa hoặc căn bậc hai của số hai cũng rõ rệt và chắc chắn như khi người ta nhìn thấy một cái cây hoặc một cái bàn bằng mắt phàm. Xét về ví dụ thứ ba, chúng tôi xin chọn một sự tham thiền sùng tín. Ta hãy nghĩ tới con người lý tưởng là Chơn sư hoặc nếu muốn ta có thể chọn đấng thiêng liêng hoặc bất kỳ biểu lộ nào đó của đấng thiêng liêng. Ta hãy để cho tư tưởng tác động lên đối tượng từ nhiều khía cạnh khác nhau sao cho nó thường xuyên khơi dậy sự hâm mộ, lòng biết ơn, sự kính cẩn, lòng sùng bái. Ta hãy suy gẫm về mọi đức tính biểu hiện qua đề tài này và xét mỗi đức tính với đủ mọi khía cạnh và đủ mọi mối quan hệ.
Nói chung là một lý tưởng trừu tượng và một nhân cách đều tốt như nhau xét tùy mục đích tham thiền. Một người có tính khí trí thức thường thấy lý tưởng trừu tượng thỏa đáng hơn; một người có tính khí xúc động ắt đòi hỏi một hiện thân cụ thể cho tư tưởng của mình. Nhược điểm của lý tưởng trừu tượng là nó thường không đạt được mức cưỡng chế ta có nhiều hoài bão; nhược điểm của hiện thân cụ thể là nó thường thấp kém hơn lý tưởng.
Ở đây ta hãy đặc biệt chú ý tới kết quả của việc tham thiền về Chơn sư, nó tạo ra một mối liên kết nhất định với Chơn sư mà một nhà thần nhãn nhìn thấy nó biểu hiện thành một loại tuyến ánh sáng. Trong tiềm thức, Chơn sư luôn luôn cảm nhận được tác động của một tuyến như thế; ngài gửi dọc theo nó để đáp ứng lại bằng một luồng từ khí kiên định vốn tiếp tục tác động rất lâu sau khi buổi tham thiền đã qua rồi. Nếu ta dùng một bức tranh để tham thiền thì ta thường có thể quan sát thấy nó thay đổi về biểu hiện. Điều này xảy ra vì ta có thể rèn luyện ý chí để tác động trực tiếp lên vật chất trên cõi trần, những hạt có thật trên cõi trần chắc chắn chịu ảnh hưởng của quyền năng tư tưởng lâu bền mạnh mẽ.
Ta có thể trình bày một dạng tham thiền khác nghĩa là tham thiền thần chú. Một thần chú là một sự nối tiếp nhất định các âm thanh được huyền bí gia sắp xếp lại để tạo ra một vài kết quả nhất định. Những âm thanh này được lập đi lập lại theo đúng tiết điệu và nối tiếp nhau ắt làm đồng bộ những rung động của các hiện thể khiến cho chúng hiệp nhất lại. Như vậy, một thần chú là một phương cách máy móc để kiểm soát các rung động hoặc cảm ứng các rung động theo như mong muốn. Hiệu lực của nó còn tùy thuộc vào cái gọi là rung động đồng cảm. (Xem quyền Thể Vía trang 157-158). Ta càng lập lại một thần chú thì kết quả lại càng mạnh mẽ. Vì thế cho nên việc lập lại các công thức của Giáo hội mới có giá trị, kinh mân côi khiến cho tâm thức có thể được tập trung trọn vẹn về điều được nói ra hoặc nghĩ ra mà không bị xao lãng do nhiệm vụ đếm số thứ tự.
Trong phương pháp tham thiền này được thực hành phần lớn ở Ấn Độ, tín đồ điều khiển tâm trí mình chẳng hạn như hướng về Shri Krishna, hiện thân của Thượng Đế, Chơn linh Bác ái và Tri thức trên trần thế. Người ta chọn một câu rồi ngâm đi ngâm lại thành một thần chú trong khi chăm chú suy gẫm về đủ thứ ý nghĩa sâu xa của nó. Vậy là tín đồ đã khiến cho mình tiếp xúc với Chính Đấng Thế Tôn. Điều nêu trên tạo thành bảng phác họa ngắn gọn nhất về một vài dạng tham thiền. Muốn có sự mô tả chi tiết thêm nữa, học viên nên tham chiếu quyển cẩm nang tuyệt vời về sự Định Trí của Ernest Wood, quyển Tham Thiền dành cho kẻ Sơ cơ của J. I. Wedgwood và những chương đáng hâm mộ về sự Kiểm soát Tư tưởng và việc Tu tâm Dưỡng tính trong quyển Trước thềm Thánh điện của Tiến sĩ Besant.
Trong quyển Tiên mắc đọa của Tiến sĩ văn chương J.J. van der Leeuw có trình bày một bài “Tham Thiền về Chơn ngã” tuyệt vời ở phần Lời bạt vào cuối tập sách nhỏ đáng hâm mộ ấy. Nhiều người hằng ngày tham thiền thôi mà cũng thành công, nhưng khả năng đó sẽ lớn hơn nhiều nếu một nhóm người định trí về cùng một đề tài. Việc này tạo nên một ứng xuất trong chất ether trên cõi trần cũng như trên cõi trung giới và cõi trí tuệ, đó là một đường xoắn lại theo hướng mà chúng ta mong muốn. Vậy là thay vì phải chiến đấu chống lại môi trường xung quanh như thông lệ ta lại thấy môi trường xung quanh quả thật hữu dụng, dĩ nhiên mọi người có mặt đều thành công trong việc giữ cho cái trí mình đừng đi lang thang. Một cái trí lang thang tâm viên ý mã như vậy trong nhóm đó chận đứng dòng tư tưởng lại sao cho thay vì có một khối tư tưởng khổng lồ di chuyển thành một cơn lũ mạnh mẽ thì trong đó lại có những đợt sóng ngầm giống như những tảng đá làm cho nước trong một dòng sông phải chuyển hướng.
Một ví dụ nổi bật về khả năng ghê gớm của việc tham thiền tập thể và tư duy tập thể chính là ngày hội mừng lễ Kim Cương của Nữ hoàng Victoria. Ông C. W. Leadbeater mô tả dịp ấy là một trong những biểu lộ thần lực huyền bí kỳ diệu nhất mà ông đã từng chứng kiến. Đám đông trở nên phấn khởi đến nỗi thiên hạ bị xúc động đến mức xuất thần, vậy là trải nghiệm một sự nâng cao tâm hồn ghê gớm. Một tác dụng tương tự trên qui mô nhỏ hơn cũng có thể được tạo ra do sự tham thiền tập thể.
Bây giờ ta hãy xét tới những điều bổ sung về tham thiền thuộc cõi trần. Trong việc tham thiền, tư thế đâu phải là không quan trọng. Ta nên để thể xác ở trong tư thế dễ chịu rồi quên nó đi. Nếu thể xác cảm thấy không thoải mái thì ta không thể quên nó được và nó thường xuyên khiến ta phải chú ý tới nó.
Hơn nữa, cũng giống như một vài tư tưởng và xúc động có khuynh hướng biểu hiện qua những chuyển động và cử động đặc trưng của thể xác; cũng giống như vậy khi đảo ngược quá trình này, các tư thế của thể xác cũng có thể có khuynh hướng làm cảm ứng ra các tâm trạng và trạng thái xúc động, vậy là trợ giúp cho học viên kiên trì với các tâm trạng ấy. Đại đa số người Tây phương ắt thấy thoải mái nhất khi ngồi trong một ghế dựa, lưng đừng thoai thoải quá, bàn tay có thể nắm lại để trên cẳng chân hoặc gác nhẹ lên đầu gối. Bàn chân có thể chụm lại hoặc vắt bàn chân phải nằm trên bàn chân trái. Việc khóa cứng đầu mút của cơ thể giúp ta ngăn ngừa từ khí tuôn ra nơi đầu ngón chân đầu ngón tay v.v. . . Tư thế nên thoải mái và thư giản, đầu đừng gục xuống cằm mà hơi giữ cho thăng bằng một chút, mắt nhắm kín, miệng khép lại, cột sống thẳng đứng (có nhiều dòng từ khi chạy dọc theo cột sống).
Người phương Đông thường ngồi theo thế kiết già trên sàn nhà hoặc trên một ghế đẩu thấp, tư thế này nghe nói hữu hiệu hơn bởi vì bất cứ từ khí nào được phóng thích ra đều có khuynh hướng bốc lên xung quanh cơ thể thành một lớp bảo vệ.
Khi xác định tư thế tham thiền ta còn phải xét tới một yếu tố khác là khả năng mất ý thức trên cõi trần. Người Ấn Độ ngồi trên sàn nhà chỉ ngã người về phía đằng sau mà không làm cơ thể bị tổn thương; người nào tham thiền ngồi trên một ghế dựa nên dùng một cái ghế bành để cho trường hợp thể xác mất ý thức thì họ không thể té ra khỏi cái ghế. Ngoại trừ những trường hợp rất hiếm có thì không chọn theo tư thế thiền nằm, bởi vì nó có khuynh hướng tự nhiên khiến ta ngủ thiếp đi trong lúc thiền. Trước khi thiền mà tắm nước lạnh hoặc đi bộ mau mắn thì rất hữu ích để khắc phục khuynh hướng máu chảy lờ đờ vốn rõ rệt là gây tổn hại cho bộ óc. Có một mối liên hệ mật thiết giữa việc thiền sâu và thở sâu. Trong việc thực hành, người ta thấy rằng khi cơ thể được hài hòa lúc tham thiền thì nhịp thở cũng sâu hơn, đều đều và có nhịp điệu cho đến khi nó từng bước trở nên chậm chạp và yên tĩnh đến nỗi ta hầu như không nhận ra được. Hatha Yoga đảo ngược quá trình này bằng cách cố ý điều tiết hơi thở để tìm cách làm hài hòa những chức năng của cơ thể và cuối cùng làm cho cái trí tác động hài hòa. Tuy nhiên học viên nên coi chừng đừng thực hành bừa bãi những phép luyện hơi thở; tốt hơn y nên học cách kiểm soát tư tưởng theo đường lối của Raja Yoga để cho nỗ lực tham thiền gây tác dụng tự nhiên lên thể xác. Trong khi một số phép điều tức là cực kỳ nguy hiểm, ta vẫn không phản đối việc thở sâu đơn giản miễn là đừng gây căng thẳng thái quá cho phổi và tim, và đừng toan tính tập trung tư tưởng lên đủ thứ trung tâm lực tức luân xa trong cơ thể. Nhang thơm cũng hữu ích vì nó có khuynh hướng tẩy trược bầu không khí xét theo quan niệm huyền bí. Học viên cũng có thể được trợ lực nhờ có những màu sắc đẹp đẽ, hoa và những bức tranh bày xung quanh mình cùng với những phương tiện khác nhằm nâng cao tâm trí và xúc cảm. Y cũng thấy việc tuân theo một vài phép tiết thực (Xem quyển Thể Vía trang 65) thật là hữu ích và nếu có thể được vì không gây hại cho sức khỏe thì nên kiêng thịt cá và rượu. Nếu người ta uống rượu thì việc tham thiền ắt gây ra những triệu chứng bị viêm trong bộ óc, đặc biệt ảnh hưởng tới tuyến Yên (Xem quyển Thể Vía trang 66).
Sáng sớm có lẽ là lúc thuận lợi nhất để tham thiền vì ham muốn và xúc động thường bình yên hơn sau khi ngủ và trước khi con người dấn thân bon chen trên trần thế. Nhưng nếu ta chọn bất cứ thời gian nào thì cũng phải chắc chắn rằng lúc đó không bị quấy rầy. Hơn nữa ta có nêu rõ là thời khoảng luôn luôn phải cùng một lúc vì tính đều đặn là cốt lõi của phép tham thiền này. Các tín đồ thời xưa đã chọn những thời khắc là lúc mặt trời mọc, lúc đúng ngọ và lúc mặt trời lặn vì đây là những giờ khắc thuận lợi nhất về từ khí. Ta cũng nên trau dồi thói quen hướng tâm trí trong một lúc nào đó vào mỗi tiếng đồng hồ trong ngày hãy thực chứng mình là Chơn nhơn. Phép thực hành này dẫn tới cái mà các thần bí gia Ki Tô giáo gọi là “sự nhớ lại Chơn ngã” giúp cho học viên rèn luyện cái trí tự động trở về với những tư tưởng thiêng liêng.
Ta không nên tham thiền ngay sau khi ăn vì lý do hiển nhiên là nó có khuynh hướng rút dòng máu ra khỏi các cơ quan tiêu hóa; tham thiền vào ban đêm cũng không tốt vì cơ thể đã mỏi mệt và thể phách dễ bị lệch lạc; hơn nữa ảnh hưởng tiêu cực của mặt trăng cũng tác động vào lúc ấy làm cho những kết quả không đáng mong muốn dễ xảy ra hơn. Đôi khi việc tham thiền có thể ít thành công hơn thông lệ bởi vì có những tác dụng bất lợi đối với thể vía và thể trí. Một số người cũng nêu rõ rằng vào một số lúc nào đó tác dụng của các hành tinh thuận lợi hơn những lúc khác. Vậy là một Chiêm tinh gia đã bảo rằng khi Mộc tinh có một số quan hệ nào đó với mặt trăng thì điều này có tác dụng làm mở rộng bầu hào quang dĩ thái khiến cho việc tham thiền có vẻ thành công hơn. Mặt khác, một vài thế chiếu của Thổ tinh nghe đâu làm nghẽn mạch bầu hào quang dĩ thái khiến cho việc tham thiền gặp khó khăn.
Hệ thống tham thiền được phác họa ngắn gọn như nêu trên có mục tiêu là phát triển luân lý, trí tuệ và tâm linh cũng như kiểm soát cái trí và xúc cảm. Nó không nhắm vào việc phát triển các năng khiếu thông linh “từ bên dưới tính lên”; nhưng kết quả tự nhiên của nó có thể là khai mở được một dạng năng khiếu thông linh trực giác nơi những người có tổ chức đủ bén nhạy; nó sẽ biểu hiện thành việc gia tăng sự nhạy cảm với ảnh hưởng của con người và nơi chốn, nhớ lại được những ký ức vụn vặt về các kinh ngiệm trên cõi trung giới trong lúc ngủ, gia tăng sự mẫn cảm với việc chỉ đạo trực tiếp của Chơn ngã, có khả năng nhận ra được ảnh hưởng của các Chơn sư và những người phát triển về mặt tâm linh v.v. . .
Sự tham thiền có kết quả là được soi sáng vốn có thể là một trong ba điều khác hẳn nhau:
[1]. Nhờ cực lực suy tư kỹ lưỡng về một đề tài, bản thân người ta có thể đạt tới một kết luận nào đó liên quan tới nó.
[2]. Nó có thể đạt được sự soi sáng của Chơn ngã, khám phá được Chơn ngã thực sự nghĩ như thế nào về vấn đề hữu quan trên cõi của riêng mình.
[3]. Nếu phát triển cao siêu, người ta có thể bước vào tiếp xúc với các Chơn sư hoặc Thiên thần. Chỉ trong trường hợp thứ nhất [1] thì những kết luận của y rất có thể bị ô nhiễm bởi những tư tưởng của chính y, còn Chơn ngã ắt có thể bị siêu việt được những điều này và một Chơn sư hoặc một Thiên thần cũng đạt được như vậy.
Điều mà ta có thể thực hiện được trong khi tham thiền còn tùy thuộc vào điều mà ta đang làm suốt ngày. Nếu trong sinh hoạt bình thường, ta có những thành kiến chẳng hạn thì ta không thể thoát khỏi chúng trong khi tham thiền.
Dĩ nhiên sự tham thiền trên cõi trần là để rèn luyện các hạ thể chứ không phải dành cho Chơn ngã. Trong khi tham thiền, Chơn ngã coi phàm ngã cũng như bất cứ lúc nào khác, nghĩa là thường thường thì Chơn ngã hơi khinh thị phàm ngã. Nếu Chơn ngã đã phát triển ở một mức nào đó thì nó sẽ tham thiền trên cõi của riêng mình, nhưng sự tham thiền ấy dĩ nhiên không cần phải đồng bộ với sự tham thiền của phàm ngã.
Tham thiền là một phương tiện để đạt được thuật rời bỏ thể xác với trọn vẹn ý thức. Tâm thức được củng cố tới mức kiên định, không nao núng và cố định; sự chú ý dần dần được triệt thoái ra khỏi ngoại giới và cơ thể, các giác quan vẫn còn yên tịnh trong khi cái trí linh hoạt cực lực nhưng có mọi năng lượng được triệt thoái vào bên trong để rồi sẵn sàng được phóng ra chỉ cần có một tư tưởng nào thôi, mức cao nhất mà nó có thể đạt được. Như vậy, khi nó có thể trụ lại tương đối dễ dàng với một nỗ lực mạnh mẽ nhưng bình tĩnh của ý chí, thì nó có thể phóng ra vượt quá tư tưởng cao nhất mà nó có thể đạt được trong khi còn hoạt động nơi óc phàm, và trong nỗ lực ấy nó sẽ vươn lên hiệp nhất với tâm thức cao siêu để rồi thấy mình được giải thoát khỏi cơ thể. Khi điều này được thực hiện thì không có ý thức về giấc ngủ hoặc giấc mơ cũng không hề bị mất ý thức; con người thấy mình ở bên ngoài cơ thể dường như lướt ra khỏi một thứ nặng nề cồng kềnh mà như không bị mất đi bất cứ bộ phận nào của bản thân. Có những cách khác để được giải thoát khỏi cơ thể, chẳng hạn như do cường độ đê mê của sự sùng tín hoặc do những phương pháp đặc biệt có thể được truyền thụ bởi một bậc đại đạo sư cho môn đồ của mình. Con người có thể trở về với cơ thể và tùy ý nhập lại vào nó; trong những trường hợp như vậy, y cũng có thể gây ấn tượng lên bộ óc và như thế trong khi ngự nơi thể xác vẫn còn nhớ lại được những kinh nghiệm mà mình đã trải qua. Việc tham thiền thật sự có nghĩa là nỗ lực hết sức, chứ không phải là cảm giác hạnh phúc bắt nguồn từ một trạng thái ngủ lơ mơ và cơ thể cảm thấy thoải mái về tiện nghi vật chất. Vì vậy, nó chẳng dính dáng gì tới và thật ra khác hẳn loại thuật đồng cốt thụ động mà khoa thần linh học đã phát triển. Môn sinh không cần phải băn khoăn do huấn lệnh mình nên cởi mở với những ảnh hưởng tâm linh và đồng thời lại phải tích cực. Nỗ lực tích cực là cần thiết như một điều kiện sơ bộ; điều này nâng cao tâm thức lên những mức cao sao cho các ảnh hưởng cao siêu có thể tác động được; bấy giờ và chỉ bấy giờ thì ta mới an toàn thư giản được đối với sự phấn đấu hướng thượng và đạt được sự thực chứng an bình. Cụm từ “mở ra cho những ảnh hưởng tâm linh” có thể bị coi là ngụ ý duy trì một thái độ cực lực tĩnh lặng ở một mức cao về tâm linh, rất giống như một con chim mặc dù có vẻ thụ động và bất động nhưng lại thăng bằng chống lại trận cuồng phong bằng một nỗ lực mạnh mẽ liên tục vẫy cánh.