Pages

Thứ Tư, 25 tháng 1, 2012

CƠ HỌC TIẾN HÓA - T4

QUYỂN TƯ
BA THỂ TRƯỜNG TỒN :
THƯỢNG TRÍ – KIM THÂN – TIÊN THỂ - LẬP HẠNH
1971
BA THỂ TRƯỜNG TỒN
Về ba thể nầy tôi chỉ nói vài lời thôi.
1. THƯỢNG-TRÍ HAY LÀ NHÂN-THỂ
Thượng-Trí làm bằng 3 chất Thượng-Thanh-Khí cao của cõi Thượng-giới là chất thứ nhứt, chất thứ nhì và chất thứ ba.
Nó để sanh ra những tư-tưởng trừu-tượng, vô hình.
Gọi nó là Nhân-Thể (Corps Causal) bởi vì nó chứa đựng những nguyên-nhân, những mầm giống, ngày sau sanh ra những hậu-quả, những quyền-năng.
CÁCH CẤU TẠO THƯỢNG-TRÍ
Khi con thú tấn-hóa tộc bực cao rồi thì Chơn-Thần mới xuống biến đổi Hồn nó (tức là Hồn thú) ra Thượng-Trí và sanh ra Chơn-Nhơn một lượt với nhau. Có Thượng-Trí rồi con thú mới có cá-tánh và cả triệu năm sau mới đi đầu thai làm người được. Nó còn phải trải qua nhiều giai-đoạn khác.
Điều nầy thật cực kỳ khó hiểu cho những người mới học Đạo. Chúng ta không tưởng-tượng nổi đâu. Phải tu-hành tới bực La-Hán mở Huệ-nhãn mới quan-sát được sự biến-đổi nầy.
MÀU SẮC CỦA THƯỢNG-TRÍ
Những điều ta có thể biết là Thượng-Trí của người dã-man thì gần như không có màu sắc chi hết. Sau khi đầu thai nhiều kiếp rồi y bắt đầu mở-mang những tánh tốt thì Thượng-Trí mới có màu sắc.
Có điều đặc-biệt là trong Thượng-Trí không có màu sắc đen tối những tư-tưởng xấu chỉ cảm đến Hạ-Trí mà thôi.
Tỷ như : Tánh ích-kỷ - Phần đối-chiếu của tánh nầy trong Thượng-Trí hiện ra bằng cách nào ?
Ấy là một lổ trống chỉ rõ sự khiếm-khuyết tình yêu thương và thiện-cảm. Khi con người mở-mang tình yêu thương và thiện-cảm thì lổ trống đó càng ngày càng lấp thêm cho tới một ngày kia thì nó sẽ đầy. Về mấy đức tánh kia cũng vậy.
Những đức tánh mà chúng ta chưa có là những lổ trống trong những phần đối-chiếu của chúng trong Thượng-Trí.
Vì thế muốn biết sự tiến-hóa của một người nào thì phải mở Huệ-nhãn xem coi Thượng-Trí của y. Có khi vì nhân-quả mà một người kia thân hình không được đẹp lắm mà đã tiến-hóa khá cao về đường tinh-thần. Trái lại, một người khác diện mạo phương phi mà tâm tánh lại không được tốt lắm.
Sự xét đoán về bề ngoài chỉ đúng có một phần nào đó mà thôi.
SỰ DÙNG THƯỢNG-TRÍ LÀM MỘT THỂ ĐỘC-LẬP
Muốn dùng Thượng-Trí làm một thể độc-lập đặng vào cõi Thượng-Thiên thì phải tu hành tới bực A-na-hàm, được 3 lần Điểm-Đạo.
Chúng ta rất còn xa điểm nầy lắm.
2. KIM-THÂN
Kim-Thân hay là Thể Bồ-Đề làm bằng 7 chất Thái-Thanh-Khí của cõi Bồ-Đề. Nó cũng gọi là Thể Trực-giác bởi vì Trực-giác từ thể nầy qua Thượng-Trí, cái Trí, cái Vía, cái Phách rồi mới tới cái óc xác thịt (1) [(1) Trực giác có thể truyền sang qua cái Vía tức khắc khỏi cần qua Thượng-Trí và Hạ-Trí bởi vì cái Vía liên-quan với thể Trực-giác tức là Kim-Thân]. Xin nhắc lại, sự truyền qua nầy bằng những lằn rung động và bởi những thể xỏ rế với nhau cho nên sự chuyển-giao rất dễ-dàng và mau lẹ.
Phải tu hành tới bực La-Hán được 4 lần Điểm-Đạo mới dùng được Kim-Thân như một thể độc-lập đặng vào ra và học hỏi ở cõi Bồ-Đề.
3. TIÊN-THỂ
Tiên-Thể làm bằng 7 chất khí của cõi Niết-Bàn. Tới bực Chơn-Tiên được 5 lần Điểm-Đạo mới dùng được Tiên-Thể.
SỰ LIÊN-LẠC GIỮA NHỮNG THỂ CỦA CON NGƯỜI
Có sự liên-lạc trực-tiếp giữa những thể của con người.
1. Tiên-Thể liên-lạc với xác thân.
2. Kim-Thân liên-lạc với Cái Vía.
3. Thượng-Trí liên-lạc với Hạ-Trí.
Sự liên-lạc nầy biểu-hiện bằng những lằn sóng rung động truyền sang từ thể nầy qua thể kia nhờ những Trung-Tâm-Lực gọi là Luân-xa (Chakras).
*
Xin nói rằng : trạng-tả những thể vô hình từ Cái Phách tới Tiên-Thể là nói chuyện mua trâu vẽ bóng vì ta không thấy chúng nó.
Phải mở từ Thần-nhãn tới Huệ-nhãn, Phật-nhãn mới thật biết chúng nó ra sao, nhưng nếu không nói vài lời về chúng nó thì không thế nào luyện tập đặng trở nên tinh-tấn và sáng-suốt được.
Nói trắng ra, sự học-hỏi nầy là sự học-hỏi gián-tiếp chớ không phải trực-tiếp.
Học-hỏi trực-tiếp là thấy rõ sự cấu-tạo một tế-bào rồi sự kết-hợp các tế-bào làm ra một cơ-quan và sự sống hành-động cách nào mà các cơ-quan lại liên-hệ với nhau và chỉ làm việc cho một mục-đích chung là sự sống của con người … vân vân.
Mấy điều nầy chỉ có dạy trong cửa Đạo mà thôi. Mà muốn bước vào cửa Đạo thì phải có đủ những đức tánh kể ra trong cuốn Dưới Chân Thầy chớ không còn phương nào khác nữa.
Về những vấn-đề “Bên kia Cửa Tử - Luân Hồi – Nhân Quả” xin xem những sách của tôi đã xuất-bản.
Tôi xin nói về phương-pháp Lập-Hạnh vì nó rất cần-thiết cho sự tiến-hóa của con người từ kiếp nầy qua kiếp kia. NÓ BIẾN ĐỔI CON NGƯỜI TRƯỚC NHỨT RA MỘT VỊ THIỆN-NHÂN RỒI LẦN LẦN TỚI BỰC SIÊU-PHÀM.
Đức Phật có nói : Nếu chặt đứt 10 xiềng-xích gọi là Samyojana trói buộc con người vào bánh xe Luân-Hồi thì con người được hoàn-toàn giải-thoát. Con người sẽ thành một vị A-sơ-Ca (Aseka) người mình gọi là Chơn-Tiên.
Mười dây xiềng-xích nầy là :
1. Phàm-nhơn là ảo-ảnh.
2. Sự hoài-nghi.
3. Mê-tín - Dị-đoan.
4. Dục-vọng Hồng-trần.
5. Oán giận – Thù hiềm.
6. Muốn sống trong cõi hữu-hình.
7. Muốn sống trong cõi vô-hình.
8. Kiêu-căng.
9. Tâm còn xao-động.
10. Vô-minh.
Xin tóm-tắt những điều-kiện nầy ra sau đây :
1. Phải có đủ những đức tánh đã kể ra trong quyển Dưới Chơn Thầy mới được Điểm-Đạo lần thứ nhứt làm một vị Tu-Đà-Hườn (Shrotapatti).
2. Vị Tu-Đà-Huờn phải chặt đứt 3 dây xiềng-xích đầu tiên.
a. Phàm-nhơn là ảo-ảnh.
b. Sự hoài-nghi.
c. Mê-tín - Dị-đoan.
mới được Điểm-Đạo lần thứ nhì làm một vị Tư-Đà-Hàm (Sakridagamin).
3. Vị Tư-Đà-Hàm phải lo mở-mang Thượng-Trí và tu-hành thêm mới được Ba lần Điểm-Đạo làm một vị A-na-Hàm (Anagamin)
4. Vị A-na-Hàm phải diệt 2 chướng ngại thứ tư và thứ năm :
Dục-vọng Hồng-Trần.
Oán giận – Thù hiềm.
mới được Điểm-Đạo lần thứ tư làm một vị La-Hán (Arhat).
4. Vị La-Hán phải trừ tuyệt 5 chướng ngại chót mới được 5 lần Điểm-Đạo làm một vị A-sơ-Ca (Aseka) hoàn toàn sáng suốt.
*
Thường thường bực trung, Vị Tu-Đà-Huờn phải tu 7 kiếp mới lên tới bực La-Hán. Vị La-Hán phải tu 7 kiếp nữa mới thành một vị A-sơ-Ca (Aseka). Có thể rút ngắn thời gian nầy lại nhờ công phu luyện tập.
LẬP HẠNH HAY LÀ LUYỆN TẬP TÁNH-TÌNH
Muốn lập hạnh, ta phải chiêm ngưỡng tánh tốt rồi đem thật-hành nó trong ngôn-ngữ, và hành-động hằng ngày. Đức tánh nầy sẽ trở nên một thành-phần cố hữu của tánh nết ta.
Đây là một định-luật Thiên-nhiên bất di bất dịch. Nên ghi nhớ khi con người tập trung tư-tưỏng vào một đức tánh nào thì đức tánh đó sẽ dần dần thành ra một thành-phần của tánh nết ta rồi về sau đức tánh đó sẽ biểu lộ một cách tự-động, không khó-khăn chút nào.
NHỮNG ĐỨC TÁNH CẦN-THIẾT ĐỂ TẠO LẬP MỘT TÁNH TÌNH SIÊU-PHÀM.
Trong chương thứ 16 của Thánh-kinh Bhagavad Gita, Đức Sri Krishna có nói cho Arjouna biết những đức tánh cần-thiết để tạo-lập một tánh tình Siêu-phàm.
Bảng danh sách những đức tánh đó như sau :
1. Tánh vô-úy (Absence de toute crainte).
2. Tấm lòng trong-sạch (Pureté du coeur).
3. Bền-chí luyện tập theo Pháp-môn Minh-Triết (Constance ou Fermeté dans le Yoga de la Sagesse).
4. Lòng nhân-đức (La Charité).
5. Tự-chủ (Maitrise de soi).
6. Hy-sanh (Sacrifice).
7. Sự học-hỏi các Thánh-kinh (Etude des Ecritures).
8. Khổ-hạnh (Austérité).
9. Ngay-thật (Franchise).
10. Ngây-thơ, chất-phác (Innocence).
11. Chơn-thật (Véracité).
12. Không hờn-giận (Absence de la colère).
13. Dứt-bỏ, Từ-khước (Renoncement).
14. Yên-tịnh (Paix).
15. Không vu-khống (Absence de calomnie).
16. Lòng từ-bi đối với mọi sanh-vật (Compassion pour tous les êtres vivants).
17. Không ham muốn chi cả (Absence de tout désir).
18. Tánh dịu-dàng (Douceur).
19. Không thay đổi bất thường (Absence de caprice).
20. Can-đảm (Gan dạ) (Audace).
21. Độ-lượng khoan-hồng (Clémence).
22. Đại-độ (Cao-thượng) (Magnanimité).
23. Ngay-thẳng (Công-bình) (Droiture).
24. Yêu thương, Yêu mến (Affection).
25. Không kiêu-căng tự-phụ (Absence de tout Orgueil).
Đó là phần sở hữu của kẻ sanh ra với những đức tánh thiêng-liêng.
Không bao giờ Sanh-viên có một lượt đủ hết những đức tánh nầy đâu, nhưng lần lần nhờ sự lập hạnh, anh sẽ có đủ những đức tánh đó.
Trong lúc nhàn rỗi, nếu anh cẩn-thận đọc lại bảng danh-sách nầy thì anh sẽ thấy chúng nó có thể xếp được từng loại rõ-rệt.
Tỷ như :
a. Tánh vô úy, Can đảm, Ngay thẳng, Chơn thật, Ngay thật, Khổ hạnh, Bền-chí trong sự luyện-tập theo Pháp-môn Minh-Triết, Dứt-bỏ có thể xếp vào một loại.
b. Lòng Nhơn-đức, Lòng Từ-bi đối với sanh-vật. Độ-lượng khoan-hồng, Đại-độ (Cao-thượng), Hy-sanh, Không vu-khống, Dịu-dàng, Yêu-thương, Ngây-thơ, Chất-phát . . . có thể xếp vào một loại, vân vân.
Quí bạn có thể sắp đặt một cách khác, tùy ý . . .
Ban sơ, ta thật-hành mỗi đức tánh một cách bất toàn, nhưng đều-đặn, không đứt quảng, từ ngày nầy qua ngày kia, dầu chưa thành công chớ mỗi bước ta đều tiến về mục-đích mà sau nầy thế nào ta cũng đạt được.
Quí bạn hãy để ý coi : những sợi chỉ vàng của lòng vô tư lợi, của tình yêu thương, của tánh thơ ngây, đem dệt với lòng can-đảm, với sức mạnh, với sự nhẫn-nại thì làm cho tánh nết được quân-bình (thăng-bằng) một cách tuyệt-diệu. Đó là tánh tình vừa cứng-cỏi, vừa dịu-dàng, vừa can-đảm, vừa từ-bi, một tánh tình oai-nghiêm bất di bất dịch, sẵn-sàng hết lòng cứu giúp kẻ yếu-đuối, một tánh tình rất sùng đạo, rất tinh-khiết, một tánh tình có kỷ-luật, và nhờ như vậy mà được điều-hòa.
Quí bạn hãy nhận lấy một tánh tình như thế làm lý-tưởng để tham-thiền mỗi ngày, và đem ra áp-dụng từng chi-tiết. Trong một thời-gian sau, quí bạn sẽ tự thấy quí bạn đã thành một người mới.
BA YẾU-TỐ QUAN-TRỌNG CÚA SỰ LẬP HẠNH
Ba yếu-tố quan-trọng của sự lập hạnh là :
Tư-tưởng chơn-chánh.
Lời nói chơn-chánh.
Việc làm chơn-chánh.
I. TƯ-TƯỞNG CHƠN-CHÁNH
Đọc đoạn “Ảnh-hưởng của tư-tưởng tốt” chắc-chắn quí bạn đã hiểu tư-tưởng chơn-chánh là thế nào rồi. Tôi xin nói vài lời thêm.
Tư-tưởng chơn-chánh là tư-tưởng từ-bi, bác-ái, cao-thượng, tốt đẹp, khoan-dung, đại-độ, can-đảm, hy-sanh, ngay thật, trung-trực, không bao giờ tính-toán gạt-gẫm ai, hãm hại ai dầu cho được lợi lộc cho mình bao nhiêu cũng vậy tức là vô tư lợi ; nói tóm lại là quên mình, chỉ lo mưu hạnh-phúc cho quần-sanh đặng Phục-hưng Tinh-Thần của nhơn-loại.
CÁCH XUA ĐUỔI MỘT TƯ-TƯỞNG XẤU
Xin nhắc lại muốn cho tư-tưởng chơn-chánh thì phải xua đuổi tư-tưởng thấp hèn, quấy-quá ra khỏi trí.
Phải tập-luyện cho có phương-pháp và bền-chí bởi vì sự luyện-tập đòi hỏi một thời-gian dài lâu và vô cùng khó nhọc, không kiên-nhẫn sẽ thất bại.
Có ba giai-đoạn.
Giai-đoạn thứ nhứt ; Đầu tiên, việc làm dễ hơn hết là đổi chiều hướng của tư-tưởng hay là suy-nghĩ đến việc khác.
Giai đoạn thứ nhì : Rồi về sau, không cho tư-tưởng xấu vô trí nữa. Nhưng trước khi sanh-viên có đủ sức mạnh cần-thiết để đóng cửa cái Trí, giữ được bình-tĩnh và thăng-bằng, không bị ảnh-hưởng bên ngoài chi phối thì anh phải lấy một ý-tưởng nầy để thay thế cho một ý-tưởng khác.
Anh phải luôn luôn lấy một tư-tưởng cao-thượng có đặc-tánh trường-tồn thay thế cho một tư-tưởng thấp hèn, phù-phiếm.
Tỷ như tư-tưởng chơn-chánh đánh đổ tư-tưởng xảo-trá, tư-tưởng hiền-lương hất ra ngoài trí ta tư-tưởng hung-bạo, vân vân .
Phương-pháp nầy có hai điều lợi :
- Một là xua đuổi một tư-tưởng xấu.
- Hai là tập cho cái Trí đứng vững-vàng nơi cảnh giới trường-tồn, khiến cho nó nhận-định được HIỆN TẠI LUÔN LUÔN TRÔI MẤT, không đáng cho ta quan tâm đến.
Sự luyện tập nầy thêm sức mạnh cho Linh-hồn trong lãnh-vực những vấn-đề trường-tồn, nó khiến cho Linh-hồn chăm-chú vào CÁI VÔ THỈ VÔ CHUNG. ĐÓ LÀ BÍ-QUYẾT CỦA MỌI SỰ AN-LẠC THIỆT THỌ TRONG CÕI TRẦN CŨNG NHƯ TRONG CÁC CÕI KHÁC
Giai-đoạn thứ ba : Tới giai-đoạn thứ ba nầy, khi thí-sanh khá vững bước rồi thì anh cảm thấy trong tâm anh có một sức mạnh đương phát-triển, sức mạnh nầy phát sanh từ cái Tinh-thần vững chắc. Bây giờ anh trở nên khá mạnh-mẽ, có thể tập-trung tư-tưởng vào một nơi nào anh muốn và tâm trí cứ định ở đó mãi, bất di bất dịch, dầu xung quanh anh giông-tố nổi lên dữ-dội đến thế nào cũng mặc. Sự định-trí nầy mạnh-mẽ, không hề bị lay chuyển, đến đổi không một sức mạnh nào ở bên ngoài có thể đến khuấy-rối anh được.
Anh đạt đến một trình-độ vinh-diệu, không cần phải lấy ý-chí diệt trừ những tư-tưởng xấu nữa.
Một khi chạm tới Thánh-Điện của Linh-hồn thì những tư-tưởng đó rơi xuống tan-tành, không khác nào những mũi tên bắn vào vách thành đồng phải gãy ngang và rớt xuống tả-tơi như lá rụng.
Cái Trí không còn cần phải bị kềm hãm nữa, nó đã trở nên tinh-khiết, trong suốt, biết vưng lời.
Sự định-trí nầy được tượng-trưng như một ngọn đèn để ở một chổ kín-đáo nên không có một luồng gió nào làm cho nó chập-chờn được.
Chính là ở tại chổ nghỉ-ngơi nầy mà thí-sanh bắt đầu hiểu được ý-chí là gì ? và chính ở nơi đó anh tìm thấy sự an-lạc hoàn-toàn.
Đó là một nơi yên-ổn, ở dưới bóng mát của những bức tường của Thánh-Điện mà kinh Kathopanishad (II-2) của Ấn-Độ đã nói đến như sau đây :
“Thoát khỏi dục-vọng, thoát khỏi sự đau khổ, Con người trong sự yên-tịnh của giác-quan Chiêm-ngưỡng vẻ tôn-nghiêm của Linh-hồn mình”.
ĐỀ PHÒNG NHỮNG SỰ CÁM-DỖ VÀ NHỮNG SỰ TẤN-CÔNG CỦA KẺ NGHỊCH
Khi Sanh-viên tiến bước lần lần từng chặng thì những cám-dỗ tế-nhị đến tấn-công anh. Chúng không đá động đến Bản-ngã thấp hèn của anh mà mạnh bạo chống lại với Bản-ngã cao siêu của anh. Vì không thể thành-công với những dục-vọng và những cám-dỗ thấp hèn thô-tục của xác-thân, chúng tìm cách dùng cái Trí khôn của kẻ Đệ-tử đặng tiêu diệt anh, những sự cám-dỗ tế-nhị của cõi Trí-tuệ ào tới tấn-công anh từng đám, hết đám nầy đến đám kia. Chúng gài bẩy Linh-hồn.
Trong khi anh bước đi trên con đường Đạo gian-lao hiểm-trở, chúng từ tứ phía chạy lại bao vây anh. Người Đệ-tử phải hoàn-toàn làm chủ những hình tư-tưởng do chính anh đã tạo ra, trước khi anh có thể tiếp tục lên đường.
Lãnh-đạm, trầm-tĩnh, trơ như đá, vững như đồng giữa cái đám tư-tưởng linh-động, mãnh-liệt tựa bầy ong bay nhanh đó. Không phải là cái Trí thông-minh yếu ớt của người thường nơi Hạ-giới đã nuôi dưỡng những tư-tưởng nầy mà chính là một năng-lực kinh-khủng, thuộc về bản-chất những thần-lực của cảnh-giới thiêng-liêng, dĩ nhiên thuộc về khía cạnh tối-tăm chớ không phải khía cạnh sáng-sủa, vì những mảnh-lực tàn phá nầy phát-sanh từ những kẻ muốn giết chết Linh-Hồn, chớ không phải những kẻ sẳn lòng cứu vớt nó.
Ở sân ngoài, Thí-sanh đương đầu với những tư-tưởng đó, và chúng tấn-công với tất cả sức mạnh của những lực-lượng ghê-gớm ác độc. Nếu trong sân ngoài, Thí-sanh không làm chủ được cái Trí khôn của mình, nếu anh chưa được luyện tập cho quen để chống đối với những sự tấn-công ti-tiện ở ngoài đời thường thì làm sao anh có thể đương đầu với những đạo quân của Ma-Vương. Làm sao anh có thể vượt qua giai-đoạn cuối cùng của sân ngoài, chung quanh đó, những kẻ tử thù của Linh-hồn tụ hợp đông đúc, chúng không bao giờ để ai đi lọt qua nơi đó, nếu không phải là người hoàn-toàn giữ được sự An-tịnh nơi mình.
II. LỜI NÓI CHƠN-CHÁNH
Thế nào là lời nói chơn-chánh ?
Lời nói chơn-chánh phải có đủ 3 đúc tánh nầy :
- Một là : có cần-thiết không ?
- Hai là : có đúng với sự thật không ?
- Ba là : có từ-thiện không ?
A.--CÓ CẦN-THIẾT KHÔNG ?
Cần-thiết đây có nghĩa là : đúng lúc và hữu-ích. Lời nói chỉ có hiệu quả tốt đẹp là khi nào nói có suy xét và cố ý chớ không phải nói suồng-sã, tầm ruồng, đụng đâu nói đó, một cách vô tâm. Lời nói phải từ nộ tâm phát ra. Âm-điệu du-dương chỉ có thể nảy sanh trong khi vắng tiếng rầy-rà ồn-ào.
Lời nói chơn-chánh phải có tính cách giúp-đỡ phá tan những đau-khổ, giải-quyết những sự khó-khăn, và đem lại hạnh-phúc cho con người. Ngạn-ngữ Tây-phương :
Phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, thật đúng lắm vậy.
Một lời nói có thể gầy-dựng giang-sơn, mà một lời nói cũng có thể làm tan tành sự nghiệp và mang tai-họa vào thân. Những gương nầy, từ xưa đến nay, đã xẩy ra không biết bao nhiêu lần rồi, nhưng vẫn ít có người thận trọng.
B.--CÓ ĐÚNG SỰ THẬT KHÔNG ?
Trong đạo Bát-Chánh của Phật-giáo, Chánh-ngữ tức là lời nói chơn-chánh đưọc sắp vào hàng thứ ba sau Chánh-kiến. (Thấy Chánh hay là Phân-biện), và Chánh Tư-duy (Tư-tưởng chơn-chánh).
Muốn cho lời nói chơn-chánh thì phải nói cho thật đúng, hết sức thật đúng. Chớ thật đúng một cách tầm thường như ngoài đời thì chưa thật là đủ. Song được bao nhiêu đó cũng đã khá lắm rồi.
Người đệ-tử phải nói hết sức đúng với sự thật. Phải nói thật một cách tuyệt đối.
Đây là một đức tánh cần-thiết hơn hết cho những ai muốn đi theo con đường Huyền-Bí Học.
Phải thật đúng trong khi nhận-xét.
Phải thật đúng trong khi tường-thuật lại mọi việc.
Phải thật đúng trong khi tư-tưởng.
Phải thật đúng trong lời nói, trong việc làm, trong lúc hành-động
Nếu không ngớt tìm kiếm sự thật, nếu không chí-quyết để trở thành một người tự mình đúng với sự thật thì không thể nào đi theo con đường Huyền-Bí Học được.
Huyền-Bí-Học sẽ là một sự nguy-hiểm, một sự sa ngã mà thôi. Sự sa ngã nầy càng đáng sợ, càng đau thương khi Sanh-viên càng lên cao. Tại sao thế ?
Bởi vì đối với nhà Huyền-Bí-Học, sự thật đúng vừa là một người chỉ đường, đưa lối, một người hướng-đạo,vừa là một bộ áo giáp để che chở họ.
Sự thật đúng là người hướng-đạo vì nhờ nó mà nhà Huyền-Bí-Học có được Trực-giác, khiến anh có thể phân-biệt con đường chơn-chánh và con đường sai lầm : Chánh-đạo và Tà-đạo. Nó là một bộ áo giáp, vì nếu nhà Huyền-Bí-Học không mặc áo giáp Chơn-Thật đó thì không thể nào tránh khỏi cạm bảy của kẻ nghịch đưa ra, Anh sẽ là nạn nhơn của ảo-ảnh và những hình thù quái-đản của những cảnh giới mà anh phải đi qua.
Áp-Dụng Sự Thật Đúng Trong Tư-Tưởng, Lời Nói Và Việc Làm Sẽ Lần Lần Thức-Tỉnh Được Cái Trực-Giác Tinh-Thần, Nó Thọc Thủng Tất Cả Những Tấm Màn Ảo-Tưởng Và Không Khi Nào Bị Một Thế-Lực Gì ở Đời Lừa Dối Được. Những Tấm Màn Che Mắt Giăng Khắp Mọi Nơi.
Trong cõi đời ảo-tưởng nầy, những hình-dáng giả-dối từ tứ phía nổi lên, cho đến ngày nào mà Trực-giác, Tinh-Thần với tia mắt nhìn thẳng-thắn và không sai lầm của nó đi xuyên qua được mặt nạ che giấu sự vật thì ngày đó nhà Huyền-Bí Học mới vững bước trên con đường đầy chông gai nầy.
Ta không thể đạt được Trực-giác đó nếu không tập luyện để có được sự Thật đúng trong Tánh-tình, sự thật đúng trong Trí-não, sự Thật đúng trong tâm địa mình.
Không có sự thật đúng, Ta sẽ thất bại, Ta sẽ lầm-lạc, không bao giờ tránh khỏi điều nầy được.
Về sự Thật, đức Leadbeater nói cho chúng ta biết rằng những danh-từ chính-xác và cụ-thể cái nghĩa của sự Thật trong ngôn-ngữ là :
Đúng-đắn ; danh-từ chọn lựa kỹ-lưỡng rõ-ràng, không chuốt ngót.
Trong Ấn-Độ giáo có một quan-niệm rất quen thuộc với chúng ta là : âm-thanh tạo-lập vũ-trụ. Âm- thanh đây có nghĩa là : mọi thứ rung động. Đó là lý-do khiến cho người ta qui cho nó một năng-lực đặc-biệt. Khi chúng ta nói, chúng ta phát ra một cái gì đó mà không thể thay đổi được nữa. Lời nói chúng ta làm tượng-trương cho tất cả những kết-quả do chúng ta gây ra và những động-tác hành-vi, đủ hết các thứ. Theo nghĩa tổng-quát nầy, chúng ta phải tập sao cho mỗi khi nói, làm vang lên âm-điệu, trong-trẻo và đích-xác, thật đúng điệu. Đó là một lý-tưởng cao thật, nhưng trong khi hoài-bão những lý-tưởng của chúng ta và gắng sức làm cho đời sống của chúng ta phù hợp theo đó, ta không nên “ Quên nghỉ đến sự Thật ”. Đừng để có sự thoả hiệp với khuynh-hướng trì-độn, ngăn trở sự cố-gắng và giảm bớt sự hy-sinh của chúng ta.
C.—CÓ TỪ-THIỆN KHÔNG ?
Quyển “Ánh-sáng trên đường Đạo” đã dạy
Trước khi được nói trước mặt Chơn-Sư, lời nói phải mất năng-lực, làm thương tổn.
Nói một cách khác dễ hiểu, lời nói phải dịu-dàng, không nhục-mạ ai, không làm đau lòng ai. Sự dịu dàng và sự Thật đúng không có chống đối nhau như người ta thường lầm tưởng như vậy. Lời nói có thể Thật đúng trọn vẹn mà hết sức dịu-dàng, nhả-nhặn và từ-ái. Và khi nó càng thật đúng bao nhiêu thì nó càng phải dịu-dàng bấy nhiêu, mà chính ngay trong Trung-Tâm của sự vật, Chơn-lý và lòng Từ-bi vẫn hằng sống đời đời bên cạnh nhau.
Vì bởi lời nói phải phản-chiếu cái Tinh Hoa sâu kín nhứt của Vũ-trụ thì không nên vô cớ làm mích lòng người, hay sanh ra một chút ngời vực nào cả. Vậy lời nói phải Thật đúng, phải dịu-dàng, và nhã-nhặn. Đó là sự khắc-kỷ về lời nói, sự thiệt thọ hãm mình trong ngôn-ngữ, sự hy-sinh mà mỗi người Chí-nguyện phải thật-hành.
Qúi bạn sẽ hõi : Nếu phải cảnh-cáo hay khiển-trách thì phải làm thế nào ?
Nếu cảnh-cáo hoặc khiển-trách là những điều có khi phải cần đến thì kết-quả của nó phải có phần bổ ích.
Nó phải thức-tỉnh, khuyến-khích, sửa đổi, chớ đừng làm cho người có lỗi ở trong tình-trạng ngã lòng, rủn chí.
Một đôi khi Chơn-Sư có thể tỏ ra nghiêm-khắc trong lời nói, nhưng như thế là Ngài muốn cho Đệ-tử hiểu cái lỗi đã phạm một cách rành-mạch và rỏ-ràng hơn. Đồng thời Ngài cũng muốn làm cho tâm-hồn Đệ-tử được thêm phần mạnh-mẻ và đầy nghị-lực.
CHỚ NÊN HIỂU LẦM SỰ NÓI THẬT ĐÚNG
Tuy nhiên cớ nên hiểu lầm sự nói Thật đúng với sự nói hành.
Không phải phanh-phui những tật xấu của thiên-hạ hay là mắng xối trên đầu người ta rồi viện lẽ rằng : “mình nói sự thật”. Không nên đem những sự bí-mật trong nghề-nghiệp, trong gia-đình, trong xã-hội, trong nước nhà nói trắng ra để tỏ ra mình tay thạo đời là mình thành thật.
Điều đó là khờ dại, là đần độn và chuốc lấy tai-họa vào thân. Ngạn-ngữ Tây-phương có câu :
Không nên nói ra tất cả những sự thật”.
Thật là đúng lắm vậy. Phải sáng suốt, phải biết phân-biện, phải thận trọng từ chút, vì có nhiều việc dầu biết rõ cũng phải giữ thái-độ im-lặng, vì đó là điều hay hơn hết đặng tránh nhửng phiền-phức về sau có thể xẩy ra.
VIỆC LÀM CHƠN-CHÁNH
Việc làm chơn-chánh (Chánh-nghiệp) đứng vào hàng thứ tư của Đạo Bát-Chánh.
Nếu tư-tưởng chơn-chánh và lời nói chơn-chánh thì lẽ dĩ nhiên việc làm cũng sẽ thành chơn-chánh vậy.
Cái nhân đã như thế thì cái quả cũng sẽ như thế, chớ không sao khác được. Vì sự hành-động tức là sự biểu-lộ của sức mạnh nội-tâm và khi nào tư-tưởng đã trong sạch, khi lời nói đã thật đúng và ngay thẳng thì sự hành-động sẽ tất nhiên cao-thượng.
Phát nguyên từ ngọn suối êm-đềm, ngon ngọt thì dòng nước cũng phải êm-đềm, ngon-ngọt, chớ không thế nào khác hơn được. Phát sanh từ một tấm lòng và một khối óc tinh-khiết thì sự hành-động chỉ có thể là chơn-chánh và từ-thiện mà thôi.
Tư-tưởng chơn-chánh. Lời nói chơn-chánh. Việc làm chơn-chánh là ba sợi dây liên-kết Người Chí-Nguyện một mặt với nhơn-loại trong việc Phụng-sự cao siêu, một mặt với Sư-Phụ anh. Ba sợi dây nầy không thế nào cắt đứt được.
Trong các tôn-giáo lớn, Ba sợi dây nầy là dấu hiệu của sự hoàn-toàn tự-chủ ; tự-chủ về Tư-tưởng, Lời nói và Việc làm.
Và sau hết thì mọi sự sẽ ra sao ? Về ngôn-ngữ, con người thật là bất lực, không sao miêu tả được đoạn chót của sự lập hạnh nầy. Những màu sắc tối-tăm của Trái Đất không sao miêu tả nổi cái vẻ mỹ-lệ của Lý-tưởng hoàn-toàn ấy mà chúng ta hy-vọng một ngày kia sẽ đạt được, mà chúng ta biết rõ rằng một ngày kia sẽ thành tựu được. Có bao giờ Lý-tưởng nầy đã hiện rõ ra với chư huynh trong những lúc lặng-lẽ không ? Chư huynh có bao giờ trông thấy cái phản-ảnh của nó trong sự an-tịnh của trái đất cũng như trong sự tịch-mịch của Bầu Trời không ?
Chư huynh có bao giờ trông thấy các vị Tiên Thánh còn sống và hoạt-động không ? Các vị trước kia đã là người và bây giờ đã vượt qua trình độ của con người, đã trở thành những vị Siêu-nhân cao cả oai-nghiêm. Sau nầy nhân-loại cũng sẽ được như các Ngài, tuy bây giờ chưa đi đến trình-độ ấy, trừ ra ở những vòng trong của Thánh-Điện.
NHỮNG ĐỨC TÁNH PHẢI TẬP
12 Đức tánh phải tập là :
1. Từ-bi, Bác-ái.
2. Nhẫn-nại.
3. Khoan-dung.
4. Điềm-tĩnh.
5. Tinh-tấn.
6. An-phận.
7. Thành-thật.
8. Thiệp-thế.
9. Thiện-cảm.
10. Can-đảm.
11. Hy-sanh.
12. Phụng-sự.
Mỗi tháng phải tập một đức tánh, 12 đức tánh trọn 12 tháng. Rồi trở lại đức tánh thứ nhứt. Phải tập trọn bẩy năm như vậy không gián-đoạn, chúng sẽ thành ra những phần-tử của tánh nết của ta và theo ta từ kiếp nầy sang kiếp kia.
Đức tánh thứ tám. Thiệp-thế nghĩa là xét đoán và hành-động chính-chắn luôn luôn đúng với tập quán, sở thích và nghi-lể của người đời. Có thể nói là xử sự khéo-léo.
LÃNH-ĐẠM
Tuy nhiên quí bạn hãy tập tánh Lãnh-đạm,Lảnh-đạm đối với những nỗi vui buồn, lãnh-đạm đối với những kết-quả, lãnh-đạm đối với những lời ngợi khen hay chê bai, lãnh-đạm đối với những yêu thương hay ghen ghét, lãnh-đạm đối với thế-thái nhân-tình, lãnh đạm đối với sự thành-công hay thất-bại, lãnh-đạm đối với những sự thử-thách, hầu giữ vững thăng-bằng, vì quí bạn đánh đúng giá trị của chúng.
Không nên tưởng rằng : hể lãnh-đạm thì trở nên vô tri vô giác không còn biết cảm-động nữa. Trái lại, càng ngày Sanh-viên càng cảm thấy một cách rõ-rệt những sự rung động nhỏ nhặt của sự sống trong người anh và ở ngoại cảnh. Anh càng ngày càng tự điều-hoà với thiên-nhiên, cho nên càng ngày anh càng trở nên nhạy cảm đối với mọi sự thay-đổi nhẹ-nhàng của mỗi tiết-điệu trong vạn-vật.
Quí bạn hãy thật-hành tánh lãm-đạm không phải bằng cách trở nên cứng-rắn, nhưng bằng cách tăng-trưởng lòng thiện-cảm của mình, không phải bằng cách ẩn mình trong một cái vỏ cứng ngắt, khiến cho bạn phải xa cách đồng loại, nhưng bằng cách ứng đáp với những sự rung động nhỏ nhất ở bên ngoài, cùng trong một lúc, quí bạn giữ lấy một sự thăng-bằng nội-tâm mà không có một sự gì có thể ảnh-hưởng tới, dù sự rung động cố làm lay chuyển đến cả đáy lòng.
Nói tóm lại, lãnh-đạm là cứ lo làm tròn bổn-phận, còn cái chi xảy đến cũng mặc, không hề nao núng, cứ bình-thãn và phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Tâm-thức Sanh-viên càng ngày càng phát-triển, càng ngày càng thấy rõ-rệt sự hợp nhứt của nó với Đại-thể, Tâm-thức của Thượng-Đế mà nó là một thành phần.
Từ tánh tự chủ và tánh lãnh-đạm bổng nảy sanh ra tánh không thù ghét ai, người ta nhấn mạnh nhiều lần về đức tánh nầy trong khi người Chí-nguyện lập hạnh để trở nên Đệ-tử.
Không được thù ghét một điều gì. Phải thâu gồm tất cả trong phạm-vi của tình yêu thương. Dù bề ngoài của mọi vật có đáng ghê-tởm đến đâu chăng nữa thì điều đó cũng không quan-hệ gì, vì Sự Sống và Tình Thương ngự nơi Trung-Tâm của vạn-vật. Vì vậy người Đệ-tử đang học-hỏi không loại trừ một vật gì ra ngoài lòng từ bi của mình. Anh bao hàm mọi sự sanh-linh trong tấm lòng thương yêu của mình và chú ý đến sự nhạy cảm của chúng. Anh thành người bạn của vạn-vật, anh thương yêu tất cả những sanh-vật, dầu là những sanh-vật mà người đời gọi là vô tri vô giác vì tất cả đồng là con của Đức Thượng-Đế, ngày nay ở vào trình-độ Kim thạch rồi sau tiến lên thảo mộc, rồi tới cầm thú và con người như chúng ta hiện thời vậy.
OAI-LỰC CỦA LÒNG TỪ-BI
Con người mà lòng dạ nhơn-từ có thể đi qua rừng sâu mà không bị nguy-hiểm. Y có thể đi vào hang thú dữ mà không bị vồ, có thể lấy tay bắt rắn vì tấm lòng tràn ngặt tình thương nên không nhìn thấy ở đâu là thù hận cả. Tình thương phóng ra những tia sáng ra khắp cõi đời và thu hút mọi vật để phụng sự chúng chứ không phải để hại chúng, vì do sự thu hút nầy làm thức tỉnh tình yêu chớ không phải lòng thù hận nơi vạn vật.
Vì vậy con cọp lăn mình dưới chơn nhà tu-sỉ Yogui (Dô ghi) như một người bạn thân, con vật hung-dữ nhứt mang con đến gởi cho vị Thánh Nhân nhờ Ngài che chở và cứu giúp, vì thế cho nên tất cả mọi sanh vật đều đến với người có lòng nhân-đức thương yêu, vì vạn vật cũng có nguồn cội thiêng-liêng. Tình yêu là thiêng-liêng và khi nào con người thương yêu trọn vẹn thì y thu hút vạn vật.
Có bạn hoài-nghi, khi đọc đoạn nầy sẽ nói ; Đây là lý-luận mà thôi. Tôi xin trình hai bằng chứng cụ-thể : một thuộc về đời xưa và một mới xẩy ra năm ngoái, năm 1970 tại Ấn Độ.
CHUYỆN THỨ NHỨT
VUỐT-VE RẮN HỔ-MANG
Trong quyển Đông Phương Huyền-Bí trương 227 Ông Paul Brunton có thuật chuyện ông gặp một con rắn trong chòi ông như sau đây :
“ Khi vửa mở khóa cửa lớn, tôi sắp sửa bước vào thì có một vật cựa quậy dưới đất và ngừng lại cách chân tôi trong gang tấc. Những cử động im-lặng của nó và một tiếng huýt nhỏ như tiếng sáo mà tôi nghe thoáng qua trong bóng tối trước khi tôi nhìn thấy rõ đó là vật gì, nhắc-nhở cho tôi rằng có một con rắn ở trong chòi. Trong một lúc, tôi cảm thấy trong lòng rối loạn vì sợ hải và không biết phải làm thế nào. Thần-kinh tôi bị căng-thẳng đến cực-độ. Tôi nhìn con rắn không chóp mắt, và nó cũng vừa phùng mang vừa giưng hai mắt nhìn lại tôi.
Sau cùng, tôi định tỉnh tinh-thần và hối-hả rút lui. Tôi định đi tìm một cây gậy lớn để đập cho nó một gậy đập xương sống, thì bỗng đâu người khách lạ ngày hôm qua thình lình xuất hiện ở ngoài sân. Gương mặt trầm-tỉnh và đôi mắt nhìn yên-lặng của y làm cho tôi bớt sợ hãi và lấy lại sự bình-tỉnh. Y đến gần chòi tranh với cái nhìn thoáng qua y đã thấu rõ tình hình và thản-nhiên bước vào chòi. Tôi bèn la lớn để báo động nhưng y không màng để ý tiếng kêu của tôi. Một lần nữa tôi lại băn khoăn sợ hãi vì không có khí-giới y vẫn đưa hai tay về phía con rắn.
Con rắn há miệng và le cái lưỡi dài như mũi chĩa thò ra thụt vào, nhưng không định mổ vào người kia. Trong khi đó có hai người đang tấm dưới ao gần bên, nghe tiếng kêu của tôi bèn vội vã chạy tới. Trước khi họ đến gần chòi tranh thì người khách lạ đã khom lưng ngồi gần bên con rắn và lấy tay vuốt lưng nó trong khi con rắn cúi đầu sát đất và nằm êm rơ !
Nó không còn phùng mang le lưỡi một cách dữ tợn như trước nữa, cho đến khi hai người kia bước đến gần và làm cho nó giựt mình. Khi ấy, nó bèn quẫy đuôi dường như sực tỉnh, và trước bốn cặp mắt của chúng tôi nó nhanh nhẹ bò ra khỏi chòi tranh và trong khoảnh khắc đã biến mất dạng trong khu rừng rậm”.
---“ Đó là con rắn hổ mang ! ” một trong hai người đến sau bình phẩm. Người này là một thương gia ở thành-phố gần bên, thường đến thăm đạo-viện để chiêm ngưỡng đức Tôn-Sư hoặc đàm đạo với tôi. Tôi bày tỏ sự ngạc-nhiên về việc người khách lạ giỡn với con rắn một cách không chút sợ-sệt. Y bèn giải-thích :
---“ À đó là đạo sĩ Ramiah, y là một trong những đệ-tử cao-cấp nhứt của đức Maharichi. Y là một tay có bản lỉnh khá lắm ”.
Trước khi từ-gỉả, tôi hỏi y (đạo sĩ Ramiah) về chuyện con rắn hổ mang hôm trước. Y mỉn cười và viết bút đàm câu trả lời :
“Có gì mà phải sợ ! Tôi đến gần nó với tấm lòng lành, không nuôi tư-tưởng ác, và với một tình bác-ái đối với tất cả chúng sinh”.
CHUYỆN THỨ NHÌ
MỘT CHUYỆN PHI-THƯỜNG
Trong số xuất-bản ngày 9 Janvier 1970 (mồng 9 tháng giêng 1970), tờ Ấn-Độ Thời-Báo (Hindustan Times) có đăng hình một du-khách lại gần chuồng của một con cọp trắng tên Rajah trong vườn Bách-thú Delhi, thò tay vô song sắt vuốt ve con cọp nó liền hết gầm-gừ.
Phóng viên tờ Ấn-Độ Thời-Báo nói : “Du khách mỉm cười và kêu tên con cọp : “Nầy Rajah”.
Du khách bước sang qua chuồng hai con cọp vàng, chúng giành nhau để cho anh mơn trớn, không khác nào hai con chó con. Rồi du khách đến chuồng một con báo Nam Mỹ (Jagur). Con báo lại gần anh để cho anh rờ-rẫm nó, nó cạ mình vào song sắt coi bộ thích thú lắm.
Phóng-viên tờ Ấn-Độ Thời-Báo lại nói : “Khi tôi thử đụng tới con báo thì nó quay đầu lại, rống lên một tiếng dữ tợn hăm he”.
Các bạn muốn biết du khách đó là ai ?
- Ấy là ông Francis Brunel, cả nước Pháp và nhiều nơi đều biết tiếng, ông là Cựu Tổng Thư-ký Hội, Thông-Thiên Học Pháp quốc.
Ông giải thích rằng : Loài dã thú có một thái-độ như thế là nhờ tình thương của ông ban rải cho chúng và chúng cảm biết tình thương nầy. Ông nói : “Không có sự sợ-sệt giữa tôi và chúng. Tôi không sợ chúng mà chúng cũng không sợ tôi”. Đi tới đâu ông cũng đề cao sự kính-trọng thiên-nhiên và bất cứ sự sống nào, ông cũng nói về sự cần-thiết cấp bách chận đứng sự bóc-lột vô liêm sĩ mà người ta đương thực hiện bây giờ đây.
Theo lời phóng-viên thì ông Francis Burnel dự-định lập ở Ấn và ở Pháp một trường Đại-học kiểu mới gọi là trường Đại-học của Sự sống chuyên khảo-cứu về thiên-nhiên.
(Thanh-Liên Tạp-chí Le Lotus Bleu của Hội Thông-Thiên Học Pháp, tháng Chạp 1970 – Décembre 1970 – trích dịch bài “Người đứng canh La Vigie của đức Sri Ram đăng trong tạp-chí The Théosophist (Người Thông-Thiên Học) tháng Ba - Mars 1970).
Về sự luyện mình Sinh-viên có trước mặt một thời-gian vô tận vô biên để thật-hành lý-tưởng của mình.
Quí bạn biết rằng Định-luật thiên-nhiên vốn bất di bất dịch. Sức mạnh của quí bạn tung ra nhứt định thế nào cũng phát-sanh những kết-quả và mỗi hạt giống mà quí bạn đã gieo trồng chắc chắn là sẽ đơm bông kết trái loại nào theo loại nấy và sau nầy quí bạn sẽ gặt hái được cái kết-quả tương đương chớ không có gì khác được.