Ba Giai Đoạn Sau cùng Của Thiền Định
-------------------------
SỰ ĐỊNH TRÍ
(CONCENTRATION)
(Trích Chương 15 của quyển THỂ HẠ TRÍ)
Từ những điều chúng ta đã thấy về cơ chế và quyền năng của tư tưởng, thật rõ ràng là việc kiểm soát cái trí có tầm quan trọng hơn hẳn so với mức ta giả định thông thường cả vì ích lợi của con người lẫn vì ảnh hưởng của nó đối với công việc mà y làm được cho người khác. Thật vậy, sự kiểm soát tư tưởng là điều kiện tiên quyết cốt yếu để phát triển các quyền năng của linh hồn.
Trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh có nêu rõ rằng: “Cái Trí là kẻ giết chết thực tại, đệ tử hãy tiêu diệt kẻ giết thực tại”. Điều này dĩ nhiên không có nghĩa là ta phải tiêu diệt cái trí vì nếu không có nó thì ta không tiến bộ được, nhưng ta phải làm chủ và chế ngự được nó; nó không phải là Chơn nhơn mà là một công cụ để cho Chơn nhơn rèn luyện và vận dụng.
Rõ rệt là học viên phải hết sức cẩn thận để dung dưỡng những tư tưởng và xúc động mà mình được phép. Kẻ phàm phu ít khi nghĩ tới việc toan tính kiểm soát những xúc động, ngoại trừ có lẽ kiểm soát sự biểu lộ ra bên ngoài của nó; khi y thấy xúc động xuất lộ bên trong bản thân thì y chìu theo nó và cho rằng làm như thế mới là tự nhiên. Tuy nhiên, học viên huyền bí phải chọn theo một thái độ khác hẳn: thay vì để cho xúc động chạy lồng lên thì y phải hoàn toàn kiểm soát được nó và ta phải thực hiện điều này bằng cách phát triển và kiểm soát thể Trí. Một trong những bước đầu tiên hướng về điều này là nhận thức rằng thể Trí không phải là Chơn nhơn mà là một công cụ Chơn nhơn phải học cách sử dụng.
Như vậy học viên phải đặt ra cho mình nhiệm vụ làm chủ được cả xúc động lẫn tâm trí; y phải biết chính xác mình đang suy nghĩ về điều gì và tại sao mình nghĩ như vậy đến mức mà y phải sử dụng cái trí, xoay chuyển nó hoặc nắm giữ nó yên tịnh giống như một người đấu gươm điêu luyện xoay chuyển vũ khí theo ý muốn của mình về hướng này hướng khác và cũng có thể nắm chắc nó theo y muốn. Nói cách khác, y phải đạt được khả năng định trí vốn là một điều kiện sơ bộ cần thiết cho mọi công trình trí tuệ.
Y phải học cách suy nghĩ kiên định và liên tục, không để cho cái trí đột ngột nhảy từ chuyện này snag chuyện khác, không phí phạm năng lượng của cái trí vào đa số những tư tưởng không quan trọng.
Hầu hết mọi người đều thấy đủ thứ tư tưởng đi lạc, không mời mà đến ùa vào trong tâm thức mình vì họ hoàn toàn không quen kiểm soát cái trí cho nên họ bất lực không kềm chế được dòng thác ấy. Những người đó đâu có biết tư tưởng thật sự tập trung nghĩa là gì; chính việc hoàn toàn thiếu định trí này, sự bạc nhược này của cái trí và ý chí khiến cho các giai đoạn sơ khởi trong sự phát triển huyền bí khó khăn xiết bao đối với kẻ phàm phu. Vả lại, bởi vì trong hiện trạng thế giới ngày nay rất có thể có nhiều tư tưởng gian tà trôi nổi hơn là tư tưởng tốt lành, cho nên khuyết điểm này chỉ khiến cho người ta chịu đủ thứ cám dỗ mà chỉ cần một chút cố gắng và thận trọng là có thể hoàn toàn tránh được.
Xét về khía cạnh hình tướng thì định trí là giữ cho thể Trí được định hình theo một hình ảnh kiên định; xét về khía cạnh sự sống thì đó là việc điều khiển sự chú ý tới hình tướng ấy một cách kiên định sao cho ta mô phỏng lại được nó bên trong bản thân. Chính lực của ý chí mới bắt buộc cái trí phải giữ nguyên một hình tướng duy nhất, mới định hình được nó theo một hình ảnh duy nhất, hoàn toàn bất chấp mọi ấn tượng khác tác động vào nó.
Nói một cách ngắn gọn hơn thì định trí cốt ở việc tập trung tâm trí vào một ý tưởng duy nhất và giữ cho nó ở ngay đó. Nói đơn giản hơn, thì định trí là chú ý. Nếu người ta chú ý tới điều mình đang làm thì y đang định trí.
Trong khi liên kết với những dạng cao của sự nghe thấy thì trung tâm lực ở họng cũng có liên hệ mất thiết với khả năng chú ý mà mọi hệ thống huyền bí học đều luôn luôn cho nó là rất quan trọng. Vì thế cho nên trong trường phái Pythagore chẳng hạn, học viên trong nhiều năm được duy trì ở cấp Akoustikoi gọi là Thinh Văn và bị cấm tuyệt không được lao vào vùng nước nguy hiểm đầy chuyện mới mẻ chừng nào họ chưa hoàn toàn bén rễ với những nguyên lý triết học đã được xác lập. Cũng vì những lý do tương tự trong các bí pháp ở Mithra, cấp thấp nhất là con Quạ nghĩa là chỉ được phép lập lại những điều mình nghe nói y hệt như con quạ hoặc con vẹt. Hội viên Tam Điểm ắt nhận ra được sự tương ứng của các cấp này với cấp E. A. trong hệ thống của mình. Nhận tiện, xin nói cấp E. A. triệu thỉnh sự trợ giúp con người sử dụng nó một lớp đặc thù các sinh linh thông tuệ phi nhân loại thuộc cõi tinh vi, nó cần được thực hiện chính xác đúng nơi đúng chỗ; nếu thực hiện điều cần phải làm một cách cẩn thận, không suy nghĩ thì người ta chỉ rước lấy những ảnh hưởng mà mình chẳng biết gì và chưa hề được chuẩn bị. Khi sử dụng mọi dạng “pháp thuật” như thế thì người ta nên cảnh giác kẻ vô hình trung mình chỉ chuốc lấy những ảnh hưởng bất lợi mà trong trường hợp khác ắt đã làm ngơ mình đi. Học viên cũng nên nhớ rằng tác dụng tự nhiên của việc định trí là tạo ra sự căng thẳng của các cơ bắp trong cơ thể, chẳng hạn như việc cau mày. Sự căng thẳng như thế chẳng những làm cơ thể mệt mỏi mà còn gây trở ngại cho việc chu lưu thần lực. Vì vậy, định kỳ trong buổi tham thiền cũng như trong sinh hoạt hằng ngày, học viên nên chú tâm tới cơ thể và cố ý “thư giản”. Kinh nghiệm chứng tỏ rằng trong toàn bộ hệ thống được vô cùng thoải mái ngay cả chỉ sau một lúc hoàn toàn thư giản. Những người có bản chất mạnh mẽ và cực lực nên đặc biệt chú ý tới sự thư giản và thấy mình có thể cần phải thực hành những bài tập nhất định với mục đích ấy. Có nhiều quyển sách bàn về đề tài này, ta có thể tin tưởng khuyên bạn đọc tham khảo một trong những quyển sách hay nhất là quyển Quyền Năng do Sự Nghỉ ngơi của Annie Payson Call.
Định trí không phải là vấn đề nỗ lực thể xác; lúc cái trí quay sang một tư tưởng thì nó đã định trí về tư tưởng ấy rồi. Định trí đâu phải là vấn đề dùng sức mạnh để giữ cho cái trí (trang 128) gắn liền với một tư tưởng nào đó mà định trí là để cho cái trí tiếp tục an nghỉ nơi tư tưởng ấy một cách hoàn toàn yên tĩnh và tịch lặng. Học viên phải nhớ rằng chỗ của tư tưởng không phải ở trong bộ óc mà ở trong thể trí; vì thế cho nên định trí liên quan tới thể trí nhiều hơn là óc phàm. Như vậy, định trí rõ rệt không phải là một trạng thái thụ động mà ngược lại là một hoạt động cực lực và điều độ. Trên cõi trí tuệ, nó cũng giống như việc chuẩn bị cơ bắp để nhảy vọt trên cõi hồng trần hoặc làm cứng đơ cơ bắp để đối phó với một sự căng thẳng kéo dài. Kẻ nào bắt đầu thực sự định trí đối với tư tưởng thoạt tiên không nên vượt quá 5 hoặc 10 phút trong một mạch bằng không y sẽ bắt bộ óc làm việc quá sức. Dần dần thì thời gian có thể kéo dài ra tới 15 - 20 hoặc 30 phút. Học viên chẳng bao giờ nên thực hành định trí hoặc tham thiền tới mức cảm thấy bộ óc đờ đẫn và nặng nề, vì đờ dẫn và đau đớn là những tín hiệu nguy hiểm, nó biểu thị rằng nỗ lực được thực hiện đã làm thay đổi vật chất của các thể nhanh hơn mức tương hợp với sức khỏe.
Hầu hết mọi người dường như thấy khó kiềm chế tư tưởng hơn xúc động, có lẽ vì họ được giáo dục coi việc để cho xúc động lộng hành, không bị kiểm soát là khiếm nhã trong khi họ thưởng bỏ mặc cho tư tưởng chạy rông theo tiếng gọi của óc hoang tưởng. Khi người ta bắt đầu toan tính kiểm soát cái trí của mình thì y thấy mình xung đột với những thói quen đã qua của thể Trí. Cũng như tâm thức tập thể của thể Vía tạo thành cái gọi là Tinh linh Dục vọng bao nhiêu (Xem quyển THỂ VÍA trang 77) thì tâm thức tập thể của thể Trí cũng tạo thành Tinh linh Trí tuệ bấy nhiêu. Như vậy, Tinh linh Trí tuệ này đã quen có mọi chuyện theo ý mình và trôi dật dờ từ đề tài này sang đề tài khác theo ý ngông của chính mình. Đấu tranh với Tinh linh Trí tuệ, xét về một số phương diện thì khác với đấu tranh chống lại Tinh linh Dục vọng. Tinh linh Trí tuệ vốn sớm tiến hóa hơn Tinh linh Dục vọng trọn cả một giai đoạn cho nên ít quen thuộc hơn với việc bị giam hãm trong vật chất; vì thế cho nên nó năng động hơn Tinh linh Dục vọng: lăn xăn hơn nhưng thiếu quyết tâm hơn và thiếu sức mạnh hơn.
Xét về bản chất của sự việc thì như vậy y dễ quản lý hơn nhưng lại không quen quản lý; điều này khiến cho muốn kiểm soát một tư tưởng thì thật sự cần vận dụng ít sức mạnh hơn việc kiểm soát ham muốn, nhưng cũng cần áp dụng kiên trì sức mạnh ấy. Ta cũng phải nhớ rằng trên cõi trí tuệ, cái trí vốn ở vùng đắc địa của mình và đang xử trí vật chất của chính mình sao cho đó chỉ là vấn đề thực hành trong việc nó học cách quản lý hoàn hảo Tinh linh Trí tuệ; trong khi đó lúc ta cố gắng kềm chế Tinh linh Dục vọng thì ta đang đưa cái trí xuống một cõi xa lạ với nó vá áp đặt một uy lực ngoại lai từ bên ngoài.
Một vài sự kiện vừa nêu quan trọng đến nỗi ta nên ôn lại chúng một cách ngắn gọn. Bản thân việc kiểm soát cái trí dễ hơn nhiều so với việc kiểm soát xúc động; nhưng ta đã thực hành kiểm soát xúc động trong một chừng mực nào đó và theo thông lệ ta hầu như chưa thực hành việc kiểm soát cái trí. Vì thế cho nên việc vận dụng trí tuệ dường như khó khăn xiết bao đối với chung ta. Cả hai cùng nhau tạo thành một nhiệm vụ dễ dàng hơn nhiều so với việc hoàn toàn làm chủ được thể xác; nhưng trong một chừng mực nào đó, ta đã thực hành công việc kiểm soát thể xác trong một số kiếp trước kia, mặc dù thành tích của ta theo đường lối ấy thậm chí rõ ràng là bất toàn. Việc hiểu được rốt ráo vấn đề này ắt dứt khoát khích lệ học viên. Việc hiểu biết ấy có một kết quả là gây ấn tượng lên y, linh hoạt về một sự thật của nhận xét trong quyển Tiếng Nói Vô Thinh, theo đó trần gian là địa ngục chân chính duy nhất mà huyền bí gia đã từng biết tới. Để thấy phát biểu nêu trên không dường như sai sự thật hoặc ngoa ngoắc, xin học viên hãy xét tới nỗi khó khăn khi dùng quyền năng tư tưởng để trấn áp chẳng hạn như một cơn đau răng kịch liệt (mặc dù ngay cả điều này cũng có thể được thực hiện trong một số tình huống nào đó); rõ ràng là dễ hơn nhiều khi dùng quyền năng tư tưởng để trấn áp sự chán nản, giận dữ, ghen tuông hoặc bất kỳ xúc động khó chịu nào khác, và còn dễ hơn nữa khi lái tư tưởng chệch ra khỏi một đề tài không hấp dẫn hoặc bất lợi chuyển sang một đề tài hấp dẫn hoặc có ích lợi hơn hay là thậm chí ngưng làm việc hoàn toàn bằng cái trí.
Giờ đây ta nên xét tỉ mỉ hơn những trở ngại cho việc định trí; như ta thấy, những trở ngại này tự nhiên chia thành hai nhóm chính. Nhóm thứ nhất có liên quan tới Kāma tức dục vọng; nhóm thứ nhì có liên quan tới chính bản chất của vật chất trí tuệ. Cách đây 5.000 năm trong cuộc đàm đạo bất hủ giữa Arjuna và Shri Krishna (Xem Chí Tôn Ca VI, 34-35), Arjuna đã diễn tả việc khó kiểm soát cái trí như sau: “Hỡi đấng giết chết Madhu, cái khoa yoga mà ngài tuyên bố qua sự bình tâm, con thấy chẳng có nền tảng vững chắc nào cho nó vì nó thật lăn xăn; bởi vì cái trí, hỡi đấng Krishna, nó quả thật là lăn xăn. Nó thật hung hăn, dữ dội và thật khó uốn nắn; con thấy khó uốn nắn nó cũng như khó nắm bắt được gió”.
Và câu trả lời vẫn còn đúng mãi, câu này vạch ra đường lối duy nhất dẫn đến thành công: “Hỡi kẻ được võ trang hùng hậu, chắc chắn là cái trí thật khó uốn nắn; nhưng ta có thể uốn nắn nó bằng việc thực hành thường xuyên (abhyasa) và sự lãnh đạm điềm nhiên, dứt bỏ (vairagya).
Chúng ta sẽ xét hai trở ngại (mà hai phương thuốc chữa trị chúng đã được viết nghiêng như trên) theo thứ tự ngược.
(1). Sự lãnh đạm, điềm nhiên. Điều này rõ ràng nhằm nói tới khả năng của kāma, tức dục vọng, thu hút, gây ảnh hưởng và bám lấy cái trí. Ở chương 6, ta đã nghiên cứu tỉ mỉ mối quan hệ giữa kāma và manas, ta thấy cách thức mà ham muốn không ngừng thúc đẩy cái trí và thường xuyên khiến cái trí cung cấp cho mình vui sướng. Vậy là cái trí bị dẫn dụ phải mưu tìm cái mang lại vui sướng cũng như tránh né cái gây ra đau khổ. Vì thế cho nên chỉ khi nào ta chế ngự và làm chủ được xúc động thì ta mới khống chế nó và ngăn ngừa nó không lọi kéo cái trí không đi chệch ra khỏi nhiệm vụ mà nó đã đề ra cho mình thực thi. Học viên nên nhớ lại rằng một khối hỗn độn những xúc động nhỏ mọn thật không xứng đáng với một sinh linh thuần lý và thật là hết sức mất tư cách khi con người vốn là Điểm Linh Quang của Thượng Đế mà lại để cho mình chịu sự chi phối của Tinh linh Dục vọng vốn là một thứ thậm chí chưa đạt được mức khoáng vật. Dường như có hai cách thức chính yếu giúp ta đạt được sự điềm nhiên này và dùng nó làm phương tiện để định trí. Ta có thể gọi chúng là (a)- phương pháp Triết học và (b)- phương pháp Sùng tín.
(a)- Phương pháp Triết học: Phương pháp này cốt ở việc biến đổi và tăng cường thái độ của mình đối với bất cứ thứ gì thường hấp dẫn và trói buộc con người sao cho người ta hoàn toàn chế ngự được kāma tức ham muốn; vậy là con người trở nên điềm nhiên với mọi sự vật cho dù ở bên ngoài hay là được giới thiệu với cái trí từ bên trong. Theo nhận xét của chính người viết tác phẩm, phương pháp này dường như khó khăn đối với hầu hết những người có tính khí Tây phương và thường có khuynh hướng tạo ra nhiều bối rối hơn là giải quyết được bối rối; đối với những người có tính khi Đông phương (tạm dùng một cách phân biệt thô thiển nhưng hữu ích) thì nó có vẻ không tạo ra nhiều khó khăn như thế. Muốn trình bày rốt ráo phương pháp này thì cần phải có một bộ khảo luận về triết học và dĩ nhiên điều này vượt xa tầm mức của quyển sách. Ta chỉ cần nói vài lời cũng đủ nêu lên đại ý của phương pháp ấy. Triết lý của hệ thống này được mô tả trong các Đề mục 5 và 6 của Chí Tôn Ca, vốn được lần lượt gọi là Khoa Yoga Xả bỏ Hành động và Khoa Yoga Tự chế.
Trong hệ thống này con người “chẳng ghét bỏ mà cũng chẳng ham muốn; y thoát khỏi các cặp đối đãi; y nhận thấy rằng các giác quan theo đuổi những đối tượng của giác quan; y đặt mọi hành động nơi Đấng Vĩnh Hằng, từ bỏ sự dính mắc; y xả bỏ trong trí mọi tác động; y quan sát giống nhau một người Bà la môn có học thức và khiêm tốn, một con bò cái, một con voi, thậm chí một con chó và kẻ cùng đinh; y không vui mừng khi đạt được điều dễ chịu, cũng chẳng buồn rầu khi vớ phải điều khó chịu; y không dính mắc vào những sự tiếp xúc với ngoại giới và thấy mình hoan hỉ nơi Tự ngã; y có thể nhẫn nhục; sức mạnh sinh ra từ ham muốn và đam mê được làm cho hài hòa, hạnh phúc, chú ý tới phúc lợi của chúng sinh; tách rời khỏi ham muốn và đam mê.
“Y thực thi hành động ấy coi là một bổn phận, độc lập với kết quả của hành động; với ý chí tạo hình xả bỏ kiểm soát và yên bình, y vẫn không thay đổi khi nóng hoặc lạnh, khi sướng hoặc khổ cũng như vinh hoặc nhục; y coi như nhau những người thương yêu, bạn và thù, người xa lạ, người vô thưởng vô phạt, người nước ngoài và thân quyến cũng như kẻ công chính và kẻ gian tà; y không còn hi vọng và tham lam nữa; y không còn khao khát những điều đáng mong muốn; y giống như một ngọn đèn đặt ở nơi không có gió; ngay cả sự phiền não nặng nề cũng không làm y xao động; y không ngần ngại từ bỏ mọi ham muốn sinh ra do óc tưởng tượng; dần dần y đạt được sự bình an vì đã khiến cho cái trí an trụ nơi TỰ NGÃ; y thấy Tự Ngã ngự nơi vạn vật và vạn vật đều có nơi Tự ngã và y đã hoàn toàn trở nên hài hòa”.
Đoạn trích dẫn nêu trên chẳng qua chỉ là sự phác họa đại khái điều mà ta gọi là phương pháp Triết học. Thật ra phương pháp này có thể chế biến và thích ứng trong một phạm vi rất rộng để thích ứng với những cá thể đặc thù và tính khí đặc dị của y. Tuy nhiên, như ta đã nói, phương pháp Triết học là con đường khó đi và gây bối rối cho đa số mọi người, vì vậy “thiên chức của người khác thì tràn đầy nguy hiểm” nên ta theo phương pháp thứ nhì thì ít kịch liệt hơn mà ta sẽ miêu tả bây giờ.
(b) Phương pháp Sùng tín – Trong phương pháp này thay vì loại bỏ kāma, nghĩa là ham muốn tức dính mắc thì học viên lại dùng chính cái sức mạnh của kāma để ổn định cái trí. Đây là phương pháp độc đáo của kẻ sùng tín, y trau dồi kāma dưới dạng cao nhất tới mức cường độ cực mạnh sao cho mọi sự dính mắc khác đều trở nên tương đối vô nghĩa; do đó nó bất lực không làm xáo trộn hoặc xao lãng sự chú ý của y. Kẻ có tính khí sùng tín có thể đạt được mục tiêu của mình bằng cách định trí vào một đối tượng yêu thương hoặc một hình ảnh thân thương, chính điều vui sướng mà y trải nghiệm do sự lặng ngắm cái hình ảnh ấy đã giữ cho cái trí cố định vào đó, cho dù cái trí có bị sức mạnh khác lôi kéo lệch ra khỏi nó thì cái trí cứ trở đi trở lại nó hoài. Bằng cách này, người sùng tín đạt được một mức độ định trí đáng kể. Trong khi người sùng tín sử dụng yếu tố hấp dẫn như thế đối với một con người thì người có đầu óc triết lý hơn lại có thể thay thế hình ảnh hấp dẫn bằng một ý tưởng sâu xa nào đó hoặc ngay cả một bài toán khó khăn nào đó; như vậy, đối với y, lợi ích trí thức tức lòng ham muốn sâu sắc có được sự hiểu biết cung cấp khả năng ràng buộc của sự hấp dẫn và như vậy giữ cho cái trí không bị xao động.
Xét theo quan điểm này thì ta định nghĩa sự định trí một cách hữu dụng như sau: Việc thực hành định trí là việc kiểm soát cái trí, dùng một tâm trạng để chế ngự cái trí, dùng ý chí để dẫm đạp lên cái trí sao cho mọi suy nghĩ đều uốn mình theo chủ đích đã được chọn lựa.
Đối với kẻ nào không dứt khoát có tính sùng tín thì ta có thể thay đổi phương pháp nêu trên khá nhiều; thật vậy đối với hầu hết mọi người phương pháp được thay đổi này quả thật có lẽ là phương pháp dễ nhất mà người ta thực hiện trong sinh hoạt hằng ngày. Nó cốt ở việc trở nên bận tâm và đắm chìm vào đề tài được tuyển lựa đến nỗi chính vì thế mà mọi tư tưởng khác đều bị loại ra khỏi cái trí. Cái trí trở nên bận tâm đến nỗi nó cảm ứng ra một trạng thái ít nhiều tập trung chăm chú. Học viên phải học cách hoàn thành điều này một cách thoải mái và y sẽ thành công rực rỡ khi trau dồi được khả năng và thói quen quan sát, chú tâm tới những đối tượng nơi ngoại giới. Ta chọn một đối tượng, khảo sát và nghiên cứu nó tỉ mỉ về nhiều phương diện. Không một đối tượng nào trong thiên nhiên thật ra lại nhàm chán hoặc không thú vị; nếu có mộtđiều gì đó dường như vậy thì nói cho cho đúng hơn đó là vì ta thiếu chú ý và không nhận thức được để đáng giá cao sự kỳ diệu và vẻ đẹp trong sự biểu lộ của nó. Ta cần đạt được một mức độ làm chủ nào đó trong việc thực tập sơ cấp tương đối như nêu trên thì mới có thể hình dung thành công được: hình dung là năng lực tạo ra trong cái trí một đối tượng được mô phỏng với chi tiết tỉ mỉ thế mà mắt phàm không nhìn thấy đối tượng; việc hình dung chính xác là một năng lực cần thiết trong một vài dạng công tác huyền bí, chẳng hạn như trong nghi lễ.
Nều thay vì là một đối tượng cụ thể mà ta lại chọn một ý tưởng, chẳng hạn như một đức tính thì nó cũng khơi dậy lòng nhiệt thành và sùng tín của học viên; trong trường hợp này sự định trí chủ yếu là của xúc cảm chứ còn cái trí thì không rõ rệt như vậy. Xúc cảm dễ đạt được mức nhất tâm hơn tư tưởng bởi vì tư tưởng vốn tinh vi và năng động hơn; nhưng nếu ta có thể cảm ứng được sự tập trung xúc cảm thì trong một chừng mực nào đó thì sự định trí sẽ nối tiếp theo. Khi thực hành định trí cũng như tham thiền, kẻ sơ cơ hay thấy rằng có nhiều ham muốn nho nhỏ chưa được thỏa mãn và nhiều vấn đề chưa được suy nghĩ rốt ráo cứ ngoác cái miệng hau háu đói khát ra gào thét lấn át sự chú tâm của mình. Để dẹp tan những sự trở ngại ấy, việc ức chế hoặc đè nén chúng không có công dụng là bao. Việc đối phó tốt hơn là phải quan tâm tới chúng, dành cho chúng một thời gian và suy nghĩ về chúng. Một cái trí không khắc phục được sự dao động như thế đến nỗi những vấn đề tồn đọng cứ triền miên không giải quyết được thì không định trí thành công chứ đừng nói chi tới tham thiền. Học viên phải quyết tâm dàn xếp những vấn đề của mình, đi tới những quyết định dứt khoát để rồi không suy đi nghĩ lại về đề tài ấy nữa. Khả năng làm như vậy được gia tăng nhờ việc thực hành và thói quen hễ quyết định là bắt tay vào làm ngay.
(2). Việc Thực hành Thường xuyên. Ở đây dường như ta nhằm nói tới tính chất lăn xăn vốn ít nhiều cố hữu nơi vật chất trí tuệ và nơi tinh hoa ngũ hành trí tuệ. Thật vậy, tinh hoa ngũ hành phần lớn là chịu trách nhiệm về những tư tưởng lang thang của ta khi nó thường xuyên nhảy nhót từ chuyện này sang chuyện kia. Nhưng bởi vì vật chất trí tuệ cũng tuân theo định luật thói quen giống như mọi loại vật chất cho nên ta có thể rèn luyện nó bằng cách thường xuyên thực hành cho đến khi nó quen với việc đảo ngược lại tính lăn xăn; như vậy là ta đã uốn nắn nó thành ra một tôi tớ ngoan ngoãn và cúc cung tận tụy phục vụ Chơn nhơn tức Chủ thể tư tưởng. Cố nhiên cách nhanh nhất và tốt nhất để khắc phục sự lang thang của cái trí là phải sử dụng ý chí. Thật vậy, cho dù ta chọn phương pháp nào đó đi chăng nữa thì ta vẫn phải sử dụng ý chí đến một chừng mực nào đó. Có một số người chỉ trông cậy hoàn toàn vào sức mạnh của ý chí và ý chí có thể được phát triển đến mức vô hạn, trong khi những người khác lại thích hỗ trợ và bổ sung cho quyền năng ý chí bằng triết lý, lòng sùng tín hoặc bất kỳ công cụ nào khác mà họ có thể phát hiện ra cho bản thân. Dĩ nhiên ta có thể tạo ra một lớp vỏ bao bọc xung quanh mình, vậy là ta đã loại trừ được những tư tưởng từ bên ngoài, nhưng người ta không khuyến khích dùng phương pháp này làm một chiến lược mãi mãi bởi vì xét cho cùng thì những lớp vỏ bảo vệ chẳng qua chỉ là những cái nạng chống đỡ. Tuy nhiên nếu ta sử dụng một lớp vỏ bảo vệ thì cũng phải nhận thức được rằng nó không thể ngăn ngừa được những tư tưởng lang thang xuất hiện ngay từ bên trong cái trí chính mình. Nó chỉ ngăn ngừa được sự xâm nhập từ bên ngoài của những tư tưởng ngẫu nhiên trôi nổi do người khác đã thả lòng cho chúng bèo giạt mây trôi. Ta chỉ nên dùng vật chất hạ trí để tạo ra một lớp vỏ như vậy, bằng không thì ta có thể ngăn ngừa những tư tưởng hữu ích hoặc chính tư tưởng của ta cũng bị cản trở không tuôn lên được hướng về phía Chơn sư. Trong Hội Tam Điểm, quá trình tương ứng với điều nêu trên là việc Lợp ngói cho Chi bộ; điều này dĩ nhiên được thực hiện ở trên một cõi thích hợp với Mức độ mà nó được triển khai. Trong sinh hoạt đời thường hằng ngày ta có thể và nên đạt được khả năng định trí. Cho dù ta đang làm việc gì thì ta cũng nên tập trung toàn bộ chú tâm vào đó, toàn tâm toàn ý làm việc ấy. Chẳng hạn như ta nên viết một bức thư cho kỹ lưỡng và chính xác, không được cẩu thả về chi tiết khiến cho tác dụng của nó bị trì hoãn hoặc phương hại. Ta nên hết sức chú tâm đọc một quyển sách và cố gắng lĩnh hội ngụ ý của tác giả. Không một ngày nào trôi qua mà ta lại không thể luyện tập cái trí một cách nhất định. Đó là vì sức mạnh của cái trí chỉ có được qua việc luyện tập; nếu bỏ phế thì bao giờ nó cũng bị suy yếu rồi teo tóp đi. Học viên cũng nên lĩnh hội được cơ chế của sự lo âu và phương pháp loại trừ điều ấy. Miễn là đừng quá sức thì làm việc chẳng những không gây phương hại cho bộ máy tư duy mà ngược lại còn củng cố cho bộ máy ấy. Nhưng quá trình lo âu trong trí dứt khoát làm tổn hại cái trí, chỉ sau một thời gian là nó sẽ gây ra sự kiệt quệ thần kinh và ưa cáu kỉnh khiến cho ta không thể làm việc đều đều bằng cái trí. Lo âu là quá trình lập đi lập lại cùng một chuỗi tư tưởng mà chẳng thay đổi được bao nhiêu, chẳng đi đến kết quả gì, thậm chí thường khi lại chẳng nhắm vào một kết quả nào. Đó là việc cứ tiếp tục mô phỏng lại những hình tư tưởng được phát khởi do thể trí và bộ óc chứ không phải do tâm thức rồi thể trí và bộ óc lại áp đặt những hình tư tưởng ấy lên tâm thức. Chủ thể suy tư vì không giải được bài toán của mình cho nên vẫn bất đắc chí, nỗi e sợ do tiên liệu về chuyện rắc rối đã khiến cho y cứ nhấp nha nhấp nhỏm đứng ngồi không yên. Trong tình huống ấy (nghĩa là chủ thể suy tư mất phương hướng) thì cái trí và bộ óc cứ tiếp tục nhồi nén những hình ảnh đã được định hình và bị bác bỏ ra. Trong khi lo âu, Chủ thể suy tư trở thành kẻ nô lệ thay vì là chủ nhân ông của các hạ thể.
Lo âu phần lớn là do cơ chế tự động vì vậy ta có thể sử dụng chính cái đặc tính ấy của vật chất để lấy độc trị độc. Có lẽ cách tốt nhất để dẹp bỏ một “kênh dẫn lo âu” là đào một kênh dẫn khác có đặc tính ngược hẳn lại nó. Ta có thể thực hiện điều này bằng cách cứ tham thiền về một tư tưởng chẳng hạn như “Tự ngã là Yên bình, tôi là Tự ngã. Tự ngã là Sức mạnh, tôi là Tự ngã”. Khi ta suy ngẫm như vậy thì sự Yên bình mà ta đang lặng ngắm sẽ bủa quanh ta và ta cũng sẽ được tràn ngập Sức mạnh mà mình đã phác họa cho bản thân trong lúc suy tư. Dĩ nhiên công thức chính xác về các ý tưởng để tham thiền phải thích ứng với từng cơ thể đặc thù.
Học viên phải học cách chẳng những suy tư mà còn có thể ngưng suy nghĩ một cách tùy ý. Khi việc suy nghĩ đã xong rồi thì nên dứt bỏ nó hoàn toàn chứ không cho phép nó trôi nổi dật dờ, lướt qua cái trí rồi lại biến đi đâu mất giống như một chiếc thuyền va chạm vào vách đá. Người ta không giữ cho cỗ máy vận hành khi nó không tạo ra công hữu ích vì như vậy sẽ làm mòn máy móc một cách không cần thiết. Cũng giống như vậy, bộ máy vô giá là cái trí không nên được phép xoay chuyển không có mục đích, không bị hao mòn khi không tạo ra kết quả hữu ích. Cũng giống như tay chân mỏi mệt rã rời sẽ phục hồi sức lực khi được nghỉ ngơi hoàn toàn, do vậy cái trí sẽ cảm thấy thoải mái khi được hoàn toàn thư giản.
Khi học viên đã hoàn tất một công trình suy tư thì y nên dứt bỏ tư tưởng ấy, thế rồi khi những tư tưởng khác xuất hiện trong trí mình thì y cũng đừng chú tâm tới chúng. Có một phương pháp khác mà người viết quyển sách này sử dụng rất thành công, không chú trọng vào việc xoay chuyển chú tâm sang hướng khác [bản thân việc này là một hành vi tích cực] mà cốt ở việc không chú ý tới những tư tưởng xuất lộ. Cứ để cho những tư tưởng ấy ló mặt ra mà đừng thèm ngó ngàng gì tới chúng. Sau một thời gian ngắn, vì không được cấp thêm sự sống mới mẻ cho nên những tư tưởng ấy không thể xuất hiện được nữa; thế là ta trải nghiệm được sự tĩnh lặng hoàn toàn, không có bất kỳ tư tưởng nào, điều này cực kỳ thư giản cho cả thể vía lẫn thể trí. [Ta có thể sử dụng chiến lược này để chữa bệnh mất ngủ, người viết quyển sách này thấy trong nhiều trường hợp nó thật là vô giá].
Muốn làm việc trên các cõi cao thì điều tiên quyết sơ bộ là phải ngưng tư tưởng. Khi bộ óc đã học được cách tịch lặng thì bấy giờ mới mở ra khả năng triệt thoái tâm thức ra khỏi xác phàm. Đến bấy giờ thì học viên mới vỡ lẽ ra được trọn cả ý nghĩa trong câu kinh của Patanjali, theo đó muốn thực hành Yoga thì người ta phải làm ngưng những “biến thái của nguyên khí suy tư”. Nhiệm vụ mà ta cần thành tựu là phải kiểm soát hoàn toàn được thể Trí tức “nguyên khí suy tư” sao cho nó chỉ có thể bị biến động do sự đồng ý đã được cố tình ban ra cho Chơn nhơn, tức Chủ thể suy tư. Khi địng nghĩa Yoga, Patanjali có sử dụng thuật ngữ chitta-vritti-nirodha, có nghĩa là dẹp hết (nirodha) những xoáy lực (vritti) trong cái trí (chitta).
Người ta phải có thể vận dụng và ngưng sử dụng cái trí giống như khi sử dụng một đồ vật; khi con người đạt được giai đoạn này thì y mới có thể hoàn toàn triệt thoái ra khỏi thể Trí. Như vậy Yoga chính là sự ức chế mọi rung động và biển đổi trong thể Trí. Vì thế cho nên nếu không được phát khởi từ bên trong thì thể Trí của một Chơn sư không thay đổi về màu sắc. Màu sắc thể Trí của ngài giống như “ánh trăng trên đại dương lăn tăn gợn sóng”. Bên trong cái ánh trăng ấy có đủ mọi khả năng của màu sắc nhưng không một điều gì nơi ngoại giới có thể thay đổi chút nào được cái sắc thái lan tỏa qua ánh quang huy kiên định của nó. Thể Trí của Chơn sư chỉ là một lớp vỏ bên ngoài mà ngài sử dụng khi ngài cần giao tiếp với hạ giới.
Kết quả của việc định trí là khi Chủ thể tri thức kiên định, lặng ngắm hình ảnh duy nhất bằng cái trí đã tập trung thì y đạt được sự hiểu biết về đối tượng đầy đủ hơn mức mà mình có thể đạt được qua bất kỳ sự mô tả nào bằng ngôn ngữ. Nét phác họa thô thiển tạo ra do sự vật được mô tả bằng ngôn từ càng ngày càng được lấp đầy mọi chi tiết khi bức tranh định hình trong thể Trí và tâm thức càng ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với sự vật được mô tả. Để biết thêm chi tiết về lý thuyết và thực hành trong việc định trí cũng như quyền năng tư tưởng, xin học viên hãy tham chiếu tác phẩm Quyền Năng Tư Tưởng, việc Kiểm soát và Trau dồi nó của bà Annie Besant; muốn có một cẩm nang thực hành về định trí xin học viên hãy tham chiếu quyển sách đáng khâm phục của ông Ernest Wood bàn về sự Định trí.